Phần MỞ ĐẦU
1.1. Lời mở đầu:
Điều kiện của toàn bộ nền kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả chúng ta. Do đó, phải có ai đấy sẽ theo dõi toàn bộ hoạt động trong thị trường sản phẩm và thị trường các yếu tố sản xuất nếu chúng ta muốn biết tất cả những gì đang xảy ra trong nền kinh tế . Chúng ta cần biết một số thực về kinh tế vĩ mô, đặc biệt là:
ü Sản lượng sản xuất trong một năm là bao nhiêu
ü Thu nhập từ sản xuất hàng hóa và dịch vụ là bao nhiêu
ü Sản lượng và thu nhập sẽ chuyển đi đâu?
Để giải thích các vấn đề trên , các nhà kinh tế và nhà hoạch định đã sử dụng các số liệu để theo dõi sự vận hành của toàn nền kinh tế . Một trong những con số đó chính là chỉ số GDP – tổng sản phẩm quốc nội - là giá trị bằng tiền của tất cả hang hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên lãnh thổ một nước trong một thời kỳ nhất định.
w Mặc dù GDP được sử dụng rộng rãi trong kinh tế, giá trị của nó như là một chỉ số vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi , bao hàm các điểm sau:
w Kết quả tính GDP theo các phương thức khác nhau làm người ta bối rối, nhất là khi so sánh xuyên quốc gia.
w GDP, như một chỉ số về kích cỡ của nền kinh tế, nhưng lại không chuẩn xác trong đánh giá mức sống.
w GDP không tính toàn diện vì thế số liệu của GDP sẽ kém chính xác.
w GDP không tính đến tính hài hòa của sự phát triển.
w GDP tính cả những công việc không đem lại lợi ích ròng và không tính đến những hiệu ứng tiêu cực. .
w GDP cũng không cho ta sự phản ánh trung thực của sự phân chia lợi ích trong phạm vi đất nước.
Từ đó, có nhận định cho rằng “GDP là một chỉ số không hoàn hảo” bên cạnh những nhận định về vai trò quan trọng của nó. Vậy GDP là một chỉ số như thế nào và cùng với tầm quan trọng của nó mà đây thật sự là một đề tài hết sức thú vị cho nhóm chúng tôi tham gia nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp nhận thức được tầm quan trọng của việc tính toán các chỉ tiêu này, hiểu biết ít nhiều về phương thức vận hành của nền kinh tế và đây là chỉ số quan trọng của phúc lợi công cộng và cá nhân , chúng cho biết về cuộc sống sung túc của mọi người như thế nào .
1.3. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu dựa vào các tài liệu trên giáo trình, sách, báo, tạp chí và các cổng thông tin điện tử, .
1.4. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp luận , logic
Mục lục
CHƯƠNG I: GDP LÀ CHỈ SỐ KHÔNG HOÀN HẢO
1.1. Tổng quan về GDP . 3
1.1.1. Khái niệm . 3
1.1.2. GDP là gì 4
1.1.2.1. GDP danh nghĩa . 4
1.1.2.2. GDP thực tế 4
1.1.2.3. Chỉ số điều chỉnh GDP 5
1.1.3. Phương pháp xác định GDP 5
1.1.3.1. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng . 5
1.1.3.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập hoặc chi phí 8
1.1.3.3. Xác định GDP theo phương pháp giá trị gia tăng . 9
1.2. GDP là chỉ số không hoàn hảo 91.2.1. Vì sao GDP là chỉ số không hoàn hảo 91.2.2. Chỉ số thay thế GDP 121.2.2.1. GPI . 121.2.2.2. ISEW 121.2.2.3. SNBI . 131.2.2.4. NEW . 131.2.3. Nguyên tắc tính các chỉ số mới 14
1.2.3.1. Căn cứ trên mức chi tiêu dùng cá nhân 14
1.2.3.2. Căn cứ trên tính chất của các hoạt động kinh tế 14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GDP Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng GDP năm 2007-2008 . 16
2.1.1. Năm 2007 . 16
2.1.2. Năm 2008 . 17
2.1.3. Những hạn chế và bất cập 18
2.2. Thực trạng GDP năm 2009 . 21
2.2.1. Phân tích tình hình kinh tế năm 2009 21
2.2.2. Bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê 23
2.3. Dự đoán tốc độ tăng trưởng 25
2.3.1. Dự đoán tình hình kinh tế thế giới năm 2010 . 25
2.3.2. Dự đoán tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010 26
2.3.2.1. Thách thức của nền kinh tế việt nam trong năm 2010 26
2.3.2.2. Dự đoán . 26
2.4. Giải pháp - kiến nghị 28
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 12256 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu về chỉ số GDP ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần MỞ ĐẦU
1.1. Lời mở đầu:
Điều kiện của toàn bộ nền kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả chúng ta. Do đó, phải có ai đấy sẽ theo dõi toàn bộ hoạt động trong thị trường sản phẩm và thị trường các yếu tố sản xuất nếu chúng ta muốn biết tất cả những gì đang xảy ra trong nền kinh tế . Chúng ta cần biết một số thực về kinh tế vĩ mô, đặc biệt là:
Sản lượng sản xuất trong một năm là bao nhiêu
Thu nhập từ sản xuất hàng hóa và dịch vụ là bao nhiêu
Sản lượng và thu nhập sẽ chuyển đi đâu?
Để giải thích các vấn đề trên , các nhà kinh tế và nhà hoạch định đã sử dụng các số liệu để theo dõi sự vận hành của toàn nền kinh tế . Một trong những con số đó chính là chỉ số GDP – tổng sản phẩm quốc nội - là giá trị bằng tiền của tất cả hang hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên lãnh thổ một nước trong một thời kỳ nhất định.
Mặc dù GDP được sử dụng rộng rãi trong kinh tế, giá trị của nó như là một chỉ số vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi , bao hàm các điểm sau:
Kết quả tính GDP theo các phương thức khác nhau làm người ta bối rối, nhất là khi so sánh xuyên quốc gia.
GDP, như một chỉ số về kích cỡ của nền kinh tế, nhưng lại không chuẩn xác trong đánh giá mức sống.
GDP không tính toàn diện vì thế số liệu của GDP sẽ kém chính xác.
GDP không tính đến tính hài hòa của sự phát triển.
GDP tính cả những công việc không đem lại lợi ích ròng và không tính đến những hiệu ứng tiêu cực. .
GDP cũng không cho ta sự phản ánh trung thực của sự phân chia lợi ích trong phạm vi đất nước.
Từ đó, có nhận định cho rằng “GDP là một chỉ số không hoàn hảo” bên cạnh những nhận định về vai trò quan trọng của nó. Vậy GDP là một chỉ số như thế nào và cùng với tầm quan trọng của nó mà đây thật sự là một đề tài hết sức thú vị cho nhóm chúng tôi tham gia nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp nhận thức được tầm quan trọng của việc tính toán các chỉ tiêu này, hiểu biết ít nhiều về phương thức vận hành của nền kinh tế và đây là chỉ số quan trọng của phúc lợi công cộng và cá nhân , chúng cho biết về cuộc sống sung túc của mọi người như thế nào .
1.3. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu dựa vào các tài liệu trên giáo trình, sách, báo, tạp chí và các cổng thông tin điện tử,….
1.4. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp luận , logic …
Phần NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GDP LÀ CHỈ SỐ KHÔNG HOÀN HẢO
1.1. Tổng quan về GDP:
1.1.1. Khái niệm
GDP (Gross Domestic Product) là giá trị bằng tiền của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên lãnh thổ một nước, trong một thời kì nhất định.
GNP (Gross National Product) là giá trị bằng tiền của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân một nước sản xuất ra, trong một thời kì nhất định.
Như vậy, GDP khác GNP ở vấn đề “lãnh thổ một nước” và “công dân một nước”. tuy nhiên GDP và GNP vẫn có mối liên hệ bởi công thức:
GNP = GDP + NIA
Trong đó: NIA (Net Income from Abroad) là thu nhập ròng từ nước ngoài và được tính bằng cách lấy thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu trừ đi thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu.
GDP bình quân đầu người là khái niệm liên quan đến tổng giá trị sản phẩm hàng năm trên tổng số dân cư. GDP bình quân đầu người được sử dụng phổ biến như một thước đo mức sống của một đất nước, vì nó chỉ ra khối lượng sản phẩm hàng năm mà bình quân một người có thể có. Song GDp bình quân đầu người chỉ là một hiện tượng thống kê và không nên coi là một thước đo sản lượng mà mỗi công dân có thể đạt được. Các thước đo GDP bình quân đầu người không cho thấy bất cứ điều gì về phương thức phân phối hoặc sử dụng GDP.
1.1.2. GDP danh nghĩa, GDP thực tế và chỉ số điều chỉnh GDP
GDP phản ánh chỉ tiêu cho hàng hoá và dịch vụ thực hiện trên thị trường của một quốc gia. Ở đây cần phân biệt hai chi tiêu GDP danh nghĩa (Nominal GDP – GDPn) và GDP thực tế (RealGDP – GDPr)
1.1.2.1. GDP danh nghĩa:
Là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá hiện hành. Sản
phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó
Nếu số liệu thống kê cho thấy GDP danh nghĩa năm sau cao hơn năm trước, điều này cho thấy có thể nền kinh tế đã sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn hơn năm trước hoặc giá bán năm sau cao hơn năm trước hoặc cả số lượng sản phẩm lớn hơn và giá bán của năm sau cao hơn năm trước. GDP danh nghĩa không cho chúng ta biết chi tiết sự gia tăng của nó chủ yếu là do đóng góp của sự tăng về giá cả hay số lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế.
Nghiên cứu biến động kinh tế theo thời gian các nhà kinh tế muốn tách riêng hai hiệu ứng biến động về giá cả và biến động về sản lượng. Cụ thể là muốn có một chỉ tiêu về tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được nền kinh tế tạo ra mà không bị tác động bởi sự thay đổi của giá cả của các hàng hoá và dịch vụ này. Để làm được điều đó các nhà kinh tế sử dụng chỉ tiêu DGP thực tế.
1.1.2.2. GDP Thực tế:
Là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hành của nền kinh tế được tính theo mức giá cố định của năm cơ sở (năm gốc).
Nếu thống kê GDP thực tế cho thấy GDPr năm sau cao hơn năm trước, thì đây chỉ thuần tuý là sự biến động về sản lượng năm sau lớn hơn năm trước, còn giá cả được giữ cố định ở năm cơ sở (năm gốc).
Mục tiêu tính toán GDP là nhằm để nắm bắt được hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. GDP thực tế phản ánh lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế nên nó cũng cho biết năng lực thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của dân cư trong nền kinh tế. Do đó GDP thực tế phản ánh kết quả của nền kinh tế tốt hơn là GDP danh nghĩa. Sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của biến động giá cả, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDPgrowth rate – g) đó là tỷ lệ % thay đổi của GDP thực tế của thời kỳ này so với thời kỳ trước.
1.1.2.3. Chỉ số điều chỉnh GDP
Từ hai khái niệm trên ta có thể thấy GDP danh nghĩa phản ánh cả và sản lượng hàng hóa dịch vụ mà nền kinh tế đang sản xuất. trái lại, GDP thực chỉ phản ánh lượng hàng hóa được sản xuất ra. Từ hai chỉ tiêu này ta có thể tính được chỉ số thứ ba:
GDP danh nghĩa
GDP thực
Chỉ số điều chỉnh GDP = 100
Như vậy Chỉ số điều chỉnh GDP là chỉ tiêu được các nhà kinh tế sử dụng để theo dõi mức giá bình quân của nền kinh tế, đây cũng chíh là chỉ số dùng để điều chỉnh GDP danh nghĩa thành GDP thực.
1.1.3. Phương pháp xác định GDP
1.1.3.1. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng
Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cho ta thấy có thể xác định GDP theo giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền kinh tế gọi tắt là phương pháp luồng sản phẩm. Tuy nhiên ở sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô quá đơn giản. Ở đây chúng ta mở rộng sơ đồ đó tính tới cả khu vực Chính phủ và xuất nhập khẩu.
Theo phương pháp luồng sản phẩm, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ mua và khoản xuất khẩu ròng được thực hiện trong một đơn vị thời gian (thường là một năm).
Tiêu dùng của hộ gia đình (C)
Tiêu dùng của hộ gia đình bao gồm tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của hộ gia đình mua trên thị trường để chi dùng phục vụ đời sống hàng ngày. Như vậy GDP chỉ bao gồm những sản phẩm được giao dịch trên thị trường, còn các sản phẩm mà các hộ gia đình tự sản xuất để sử dụng thì bị bỏ sót không thể tập hợp được.
Chú ý: GDP chỉ bao gồm hàng hoá mới được sản xuất và bán ra. Hàng hoá mới là hàng hoá lần đầu tiên được giao dịch , mua bán trên thị trường.
Chi tiêu của doanh nghiệp hay đầu tư (I)
Chi tiêu của doanh nghiệp bao gồm giá trị các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp mua để tái sản xuất mở rộng. Đó là các trang thiết bị, các tài sản cố định, nhà ở, văn phòng mới và chênh lệch hàng tồn kho của các hàng kinh doanh.
Hàng tồn kho hay dự trữ là những hàng được giữ lại để sản xuất hay tiêu dùng sau. Thực chất hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những nguyên nhiên vật liệu hay các đầu vào được sử dụng hết trong kỳ sản xuất hoặc là các bán thành phẩm, các sản phẩm dự trữ bán trong thời gian tới.
Trong thành phần của (I) có thành phần dùng để mua sắm máy móc, trang thiết bị, tài sản cố định mới trừ đi phần khấu hao được gọi là đầu tư ròng.
Đầu tư là một khái niệm chỉ rõ phần tổng tài sản quốc nội hay một phần khả năng sản xuất của xã hội. Phần chi tiêu này để tạo khả năng tiều dùng trong tương lai. Đầu tư là phần giảm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai. Và nếu nền kinh tế là nền kinh tế giản đơn thì :
GDP = C + I
Chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ (G)
Chính phủ là một tác nhân kinh tế và là người tiêu dùng lớn nhất. Hàng năm Chính phủ các nước phải chi tiêu những khoản tiền rất lớn vào việc xây dựng đường xá, trường học, bệnh viện, Quốc phòng an ninh, y tế, giáo dục, trả lương cho bộ máy quản lý của Nhà nước. Các chi tiêu này cũng chỉ được tính cho các giao dịch lần đầu tiên trong nền kinh tế.
Không phải mọi khoản chi tiêu của ngân sách Nhà nước đều được tính vào GDP. Những khoản thanh toán, chuyển nhượng ký hiệu là TR bao gồm: Bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiêp,bảo hiểm y tế,... đây là các khoản phân phối lại không ứng với một hàng hoá và dịch vụ mới được sản xuất ra của nền kinh tế, do đó không được tính vào GDP.
Nếu nền kinh tế là nền kinh tế khép kín có sự tham gia của Chính phủ thì
GDP = C + I + G
Xuất khẩu (X) và nhập khẩu (IM)
Xuất khẩu là hàng hoá và dịch được sản xuất ra ở trong nước nhưng được bán ra cho người tiêu dùng ở nước ngoài.
Nhập khẩu là những hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài nhưng được mua để tiêu dùng trong nước.
Do đó, xuất khẩu sẽ làm tăng GDP, còn nhập khẩu không nằm trong GDP Mà khi chi tiêu thì hộ gia đình, doanh nghiệp hay Chính phủ chi tiêu cả hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Vì vậy giá trị hàng nhập khẩu đã được tập hợp trong các thành phần chi tiêu của hộ gia đình, doanh nghiệp hay Chính phủ rồi. Nên khi xác định GDP cần phài trừ đi nhập khẩu.
Vậy GDP theo phương pháp luồng sản phẩm cuối cùng trong điều kiện nền kinh tế mở là
GDP = C + I + G + X – IM
Xuất khẩu ròng là NX: NX = X – IM
GDP = C + I + G + NX
Nếu X > IM gọi là xuất siêu; IM > X gọi là nhập siêu; X = IM cán câna thương mại cân bằng.
1.1.3.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập hoặc chi phí
Phương pháp nay tính GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất mà các hàng kinh doanh phải thanh toán, tiền trả lãi vốn vay, tiền thuê nhà xưởng, tài sản, tiền thanh toán tiền công, tiền lương, lợi nhuận thu được khi tham gia kinh doanh, thu để bù đáp giá trị máy móc thiết bị, tài sản cố định đã hao mòn trong quá trình sản xuất.
Gọi: Chi phí tiền công, tiền lương là : W
Chi phí thuê vốn : i
Chi phí thuê tài sản nhà xưởng, đất đai: r
Lợi nhuận: Π
Khấu hao tài sản cố định: D
Thuế mà Chính phủ đánh vào tiêu dùng: Te
GDP = W + i + r + Π + D + Te
Nếu phương pháp luồng sản phẩm cuối cùng không bị tính trùng và phương pháp xác định GDP theo chi phí và thu nhập tính hết được các khoản chi phí thì kết quả phải như nhau. Trên thực tế do GDP là một con số thống kê nên có sự sai số đáng kể, hơn thế nữa khó tránh khỏi tính trùng trong phương pháp luồng sản phẩm và tính hết chi phí trong phương pháp chi phí hoặc thu nhập. Để khắc phục được các nhược điểm này người ta áp dụng phương pháp giá trị gia tăng.
1.1.3.3. Xác định GDP theo phương pháp giá trị gia tăng
GDP là tổng của giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra, nhưng để hàng hoá cuối cùng đến tay người tiêu dùng phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất và mỗi hãng kinh doanh chỉ đóng góp một phần giá trị để tạo ra giá trị sản phẩm hoàn chỉnh.
Theo phương pháp giá trị gia tăng, thì GDP được tập hợp tất cả các giá trị tăng thêm của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất thường là một năm.
Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng đầu ra của một doanh nghiệp với khoản mua vào về nguyên nhiên vật liệu mua của các doanh nghiệp khác mà được sử dụng hết trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó.
Giá trị gia tăng của doanh nghiệp ký hiệu là (VA), giá trị tăng thêm của một ngành (GO),giá trị tăng thêm của nền kinh tế là GDP.
1.2. GDP là chỉ số không hoàn hảo
1.2.1. Vì sao GDP là chỉ số không hoàn hảo
GDP là những chỉ tiêu phản ánh bao quát sản lượng (thu nhập bằng tiền) của một quốc gia hàng năm, nó có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống (phúc lợi) của dân chúng trong quốc gia nhưng nó là thước đo không hoàn hảo về phúc lợi xã hội, vì nó không phản ánh được những vấn đề sau:
Khi sản xuất nhiều GDP hơn, chúng ta phải hy sinh một phần nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. Vì nghỉ ngơi là một phần của phúc lợi kinh tế, nên khi coi toàn bộ mức tăng GDP là sự tăng phúc lợi kinh tế, chúng ta đã tính cả phần tổn thất về phúc lợi kinh tế do được nghỉ ngơi ít hơn. Rõ ràng, cách làm này làm cho GDP phản ánh không chính sách phúc lợi kinh tế.
Chất lượng và sự phong phú về chủng loại mặt hàng của sản phẩm dịch vụ trong GDP (GNP)và sự phân phối GDP (GNP) giữa các nhóm thành viên xã hội (mức độ chênh lệch thu nhập của các tầng lớp dân cư) cũng không được đề cập đến.
Số lượng trái phẩm (sản phẩm dịch vụ có hại) tạo ra cho xã hội trong quá trình sản xuất GDP. Việc gia tăng GDP hơn có thể làm giảm chất lượng môi trường, cả môi trường tự nhiên và xã hội. Nghĩa là mọi người phải chịu bầu khí ô nhiễm hơn, nguồn nước bẩn hơn và cảnh quan bị xâm hại. Sự gia tăng GDP cũng có thể làm tăng tệ nạn xã hội. Thực tế ở nước ta và nhiều nước khác trên thế giới cho thấy tình trạng trộm cắp, mất an ninh xã hội thường đi kèm với sự gia tăng của GDP
Hoạt động phạm pháp: như buôn lậu, sản xuất, kinh doanh những mặt hàng quốc cấm và các hoạt động phạm pháp khác. Đây là những hoạt động mang lại doanh thu rất lớn cho các tổ chức và các quốc gia có liên quan, nhưng không được tính vào GDP vì nó là hoạt động tội phạm, gây nguy hiểm cho cộng đồng.
Hoạt động “kinh tế ngầm”: đây là những hoạt động hợp pháp nhưng không báo cáo với cơ quan thuế, như những hoạt động, hành vi thông đồng, móc ngoặc giữa người quản lí với người thừa hành để bớt xén tiền của, tài sản của nhà nước, lập quỹ đen, chia nhau, các hành vi hối lộ cá nhân hoặc tập thể …
Hoạt động phi thương mại: GDP chỉ quan tâm đến những hoạt động nào có thể tính bằng tiền nên những như hoạt động từ thiện hay tình nguyện, những việc ta tự làm như giặt quần áo, sửa sang nhà cửa, những việc mà các bậc cha mẹ ở nhà vẫn làm cho con, những đóng góp tích cực vào chất lượng sinh môi do ngành trồng rừng mang lại cho xã hội mà không được trả tiền… đây là các hoạt động cần thiết cho XH, nhưng không phải vì lý do thương mại nên không có giá cả, không được thông báo hay hạch toán vào GDP. Các hoạt động của các tổ chức nhân đạo, bảo vệ môi trường,… chắc chắn có đóng góp vào sự phồn thịnh quốc gia nhưng do không được định giá và mua bán trên thị trường nên cũng không được tính vào GDP. Điều nguy hiểm là chính sách kinh tế - xã hội có thể bị méo mó nếu chỉ chú trọng hoạt động tính được bằng tiền để “góp phần tăng GDP”.
Quan trọng hơn cả, các nhà kinh tế phản đối sử dụng GDP làm thước đo vì nó xem việc hủy hoại tài nguyên thiên nhiên là tăng trưởng. Giả sử một cánh rừng bị phá, gỗ đem bán, thế là GDP tăng.
Những thiếu sót của việc tính toán GDP có đặt ra vấn đề gì không?
Có 3 lí do của việc tính toán GDP:
Để xác định nền kinh tế đang ở giai đoạn nào của chu kì kinh tế
Để so sánh mức sống giữa các nước
Để so sánh mức sống của dân cư trong nước giữa các thời kì khác nhau
Đối với lí do thứ nhất, những thiếu sót trong việc tính toán GDP không đặt ra vấn đề gì nghiêm trọng. Chúng ta có thể giả thiết rằng những dao động trong kết quả của 3 loại hoạt động bị bỏ sót khi tính GDP theo cùng một hướng với những dao động của GDP.
Tuy nhiên đối với lí do thứ hai, những thiếu sót khi tính GDP có đặt ra vấn đề phải xem xét khi sử dụng GDP để so sánh mức sống giữa các nước. Đối với các nước đang phát triển thì các hoạt động kinh tế ngầm”, các hoạt động phi thương mại cũng như những hoạt động không khai báo thường chiếm tỉ trọng lớn hơn so với các nước công nghiệp hóa. Do đó nếu so sánh mức sống dân cư của 2 nhóm nước này mà chỉ dựa vào sự so sánh của GDP giữa 2 nhóm nước sẽ không phản ánh đúng thực chất.
Nếu mức sống tùy thuộc vào giá trị sản lượng (GDP) thì đồng thời nó cũng tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác như giáo dục, y tế, an ninh, điều kiện nhà ở, môi trường…Như vậy để đánh giá và so sánh mức sống thì phải sử dụng một tập hợp các chỉ tiêu gồm nhiều yếu tố hơn là chỉ căn cứ vào GDP.
1.2.2. Chỉ số thay thế GDP
1.2.2.1. GPI (Genuine Progress Indicator - chỉ số phát triển thực).
GPI được tính dựa trên GDP làm mức ban đầu, sau đó điều chỉnh bằng cách cộng thêm những yếu tố ảnh hưởng tích cực (công việc tình nguyện, chăm sóc trẻ em, kinh tế gia đình…) trừ đi những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực (khắc phục ô nhiễm môi trường, chi phí thuốc men, chi phí an ninh và tòa án cho các tội phạm, trớ trêu thay, những chi phí có thể làm tăng GDP nhưng rõ ràng không phải là chỉ thị của sự phát triển tốt) đến hạnh phúc con người và phúc lợi xã hội.
Và phạm vi, phương pháp tính GPI cũng còn cần được hoàn thiện hơn nữa, để có thể được nhiều nước chấp nhận và tính toán như một chỉ tiêu thống kê quốc gia. Chính vì thế OECD cũng như tổ chức thống kê Liên Hợp Quốc vẫn tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh cách tính chỉ tiêu này.
1.2.2.2. ISEW (Index of Sustainable Economic Welfare - chỉ số phúc lợi kinh tế bền vững).
Sau khi được đề xướng năm 1989, chỉ số này được bổ sung, hoàn thiện, từng bước ứng dụng ở Mỹ và một số nước công nghiệp châu Âu. Đây thực chất là một cách chỉnh lý lại số liệu thống kê GDP thông thường lâu nay. Căn cứ để chỉnh lý là dựa trên tính chất của các hoạt động kinh tế: chỉ những lợi ích kinh tế thực sự mới được cộng vào, kể cả lợi ích từ các hoạt động không phát sinh tiền như công việc nội trợ. Trong khi đó, những chi phí phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế, kể cả chi phí về mặt xã hội và môi trường, mà không đóng góp gì vào chất lượng cuộc sống sẽ được trừ ra. Đồng thời, trong khi tính toán chỉ số ISEW, người ta không dựa trên giá trị làm ra mà căn cứ vào chi tiêu do người dân trong nước bỏ ra để thụ hưởng hàng hóa và dịch vụ. Điều đó đòi hỏi chỉ số ISEW phải được điều chỉnh giảm tương ứng với mức mất cân đối trong phân phối thu nhập.
1.2.2.3. SNBI (Sustainable Net Benefit Index - chỉ số lợi tức ròng và bền vững)
Chỉ số bền vững = Tỷ lệ lợi ích tổng hợp / Tỷ lệ chất thải vào môi trường
(Sustainability Index = Emergy Yield Ratio / Environmental Loading Ratio).
Nhận dạng phát triển bền vững có một số nguyên tắc như:
Đảm bảo đúng sự đánh giá, sự yêu thích và hiểu biết và khả năng phục hồi lại thiên nhiên.
Đảm bảo sự đa dạng sinh học và sự bảo toàn sinh thái.
Tạo cơ hội bình đẳng và sự tham gia của mọi thành viên trong cộng đồng.
Đảm bảo được sự công bằng giữa các thế hệ trong việc tiếp cận với các nguồn tài nguyên và tiện ích cơ bản.
Nhận thức được tính toàn cầu và cam kết thực hiện những sự lựa chọn tốt nhất.
Quá trình liên tục cải thiện các quá trình và có một Chính phủ minh bạch, có khả năng giải trình.
1.2.2.4. NEW (Net Economic Welfare): Phúc lợi kinh tế ròng.
NEW = GDP + Những giá trị cái lợi chưa tính - Những giá trị cái hại chưa trừ.
Lợi chưa tính là những khoản làm tăng chất lượng cuộc sống, có lợi cho mọi người nhưng chưa được tính trong GDP như hoạt động phi thương mại hoặc giá trị của sự nhàn rỗi.
Hại chưa trừ là những khoản gây thiệt hại cho đời sống nhưng không được trừ ra khi tính GDP, đó là những thiệt hại do sự ô nhiễm môi trường, vấn đề XH phát sinh trong những vùng đô thị hóa.
Tuy chưa tìm được “tiếng nói chung” và chưa được sử dụng rộng rãi, nhưng các chỉ số mới này đều chung mục đích là phản ánh tính chất “thực” và “bền vững” của sự phát triển kinh tế.
1.2.3. Nguyên tắc tính các chỉ số mới
1.2.3.1. Căn cứ trên mức chi tiêu dùng cá nhân
Tổng sản phẩm quốc nội là GDP tăng lên không đồng nghĩa với đời sống của người dân được tăng theo. Do đó, nhằm phản ánh sự phát triển kinh tế một cách trung thực hơn, các chỉ số GPI, ISEW, SNBI và NEW đều không dựa trên giá trị sản phẩm làm ra mà căn cứ vào mức chi tiêu mà người dân trong nước bỏ ra để thụ hưởng các sản phẩm và dịch vụ.
Nhưng lại nảy sinh một vấn đề khác là tổng tiêu dùng của người dân cả nước tăng lên cũng chưa chắc đại đa số dân chúng được thụ hưởng nhiều hơn, có khi số tăng lên chỉ do một ít những người giàu thụ hưởng nhiều hơn. Để giải quyết vấn đề này, các chỉ số GPI, ISEW ,SNBI và NEW sẽ được điều chỉnh giảm tương ứng với mức mất cân đối trong phân phối thu nhập bằng cách sử dụng các hệ số điều chỉnh. GDP hiện hành hoàn toàn không đề cập đến vấn đề này.
1.2.3.2. Căn cứ trên tính chất của các hoạt động kinh tế
Theo cách tính của các chỉ số mới, không phải mọi hoạt động làm phát sinh tiền đều được cộng vào và mọi hoạt động không phát sinh tiền thực hiện trong gia đình và cộng đồng đều bị bỏ qua như trong GDP. Các chỉ số GPI, ISEW ,SNBI và NEW cũng phân định rõ tính chất tốt, xấu của các hoạt động kinh tế. Trong cách tính của các chỉ số này, chỉ có những lợi ích kinh tế thực sự từ các hoạt động mới được cộng vào, kể cả lợi ích từ các hoạt động không phát sinh tiền. Những chi phí do phát triển kinh tế, kể cả chi phí về mặt xã hội và môi trường, sẽ được trừ ra. Ví dụ một cách cụ thể hơn, so với GDP, các chỉ số thay thế cộng thêm và trừ ra các giá trị sau:
Cộng thêm: giá trị của các hoạt động không phát sinh tiền trong gia đình và cộng đồng. Các hoạt động như nuôi dạy con cái, làm việc trong nhà và công ích bên ngoài là nền tảng của mọi xã hội và cũng là các nhân tố quan trọng cho phát triển kinh tế. Giá trị của các hoạt động này sẽ được tính dựa trên số tiền phải bỏ ra để mua các sản phẩm và dịch vụ tương đương trên thị trường và sẽ được cộng thêm vào các chỉ số phát triển nêu trên.
Trừ ra: ngoài việc trừ những chi phí rất rõ ràng như môi trường ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên bị hủy hoại, các chỉ số GPI, ISEW và SNBI còn tính đến những tác động tiêu cực khác của phát triển kinh tế và các hoạt động không đóng góp cho sự phát triển bền vững. Ví dụ kinh tế phát triển có thể dẫn đến các hệ quả như tai nạn giao thông tăng, có ít thời gian rảnh hơn nên mệt mỏi và căng thẳng hơn, hạnh phúc gia đình dễ đổ vỡ hơn…
Chi phí dùng để khắc phục những hệ quả này được cộng vào GDP nhưng lại được trừ ra trong các chỉ số GPI, ISEW,SNBI và NEW. Và các chi tiêu khác mang mầm mống của sự bất ổn như chi để chống tội phạm, chi cho các hoạt động thanh tra, giải quyết tranh chấp, tòa án… cũng được trừ ra trong các chỉ số mới vì những chi tiêu này làm gia tăng GDP nhưng không hề nói lên hay đóng góp gì cho sự phát triển và bền vững của nền kinh tế.
CHƯƠNG II THỰC TRẠNH GDP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng GDP năm 2007-2008
2.1.1. Năm 2007:
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nên có nhiều tác động tích cực và nhiều thách thức với thị trường trong nước. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 chữ số, CPI ở mức 12,61% so với tháng 12 năm 2006 (cao nhất trong vòng 12 năm qua) nhưng nhiều chỉ tiêu đặt ra đều đạt và vượt mức kế hoạch. Kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh, Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 đạt 461.189 tỷ đồng, tăng 8,48% so với cùng kỳ, cao nhất trong hơn một thập kỷ qua và đứng thứ hai khu vực, chỉ sau Trung Quốc, GDP tính theo giá thực tế ước đạt 1.141 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng. Nếu tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái hiện tại; GDP đạt khoảng 71,3 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 835 USD. Kết quả này tạo tín hiệu khả quan để thực hiện sớm mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển. Nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung.
Tăng trưởng kinh tế cao. Ở đầu vào, vốn đầu tư phát triển tăng 16,4% và bằng 40,6% GDP, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 44% của Trung Quốc; một tỷ lệ đã góp phần đưa tăng trưởng kinh tế của nước này đạt hai chữ số trong nhiều năm liền. Trong tổng vốn đầu tư phát triển, khu vực dân doanh tăng cao nhất (19,4%) và đã đóng góp trên một phần ba. Vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục mới ở cả 3 nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp đăng ký mới và bổ sung đạt 20,3 tỷ USD, tăng tới 68,8% so với mức kỷ lục đạt được trong năm trước, vốn thực hiện ước đạt 4,6 tỷ USD, tăng khoảng 0,6% tỷ USD so với năm trước. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức cam kết và giải ngân đạt kỷ lục (4,4 tỷ USD và 2 tỷ USD), cam kết cho năm 2008 đạt kỷ lục mới (5,4 tỷ USD). Nguồn vốn đầu tư gián tiếp ước đạt 5,6 tỷ USD, lớn gấp 4,3 lần năm trước.
Như vậy, kết qủa GĐP đạt được đã vượt chỉ tiêu đề ra của Quốc Hội. Có được kết quả như vậy đầu tiên là do có sự đóng góp tích cực của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương, các Bộ trưởng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, triển khai quyết liệt các giải pháp điều hành do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo.
2.1.2. Năm 2008
Năm 2008 là năm cơ bản để hoàn thành kế hoạch giai đoạn 2006- 2010. Vì vậy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh Tập thể Chính phủ cần phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết, nhất trí, quyết tâm, chủ động xử lý tốt những vấn đề phát sinh từ thực tiễn, khắc phục yếu kém, vướng mắc, đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội cao hơn năm 2007; phát triển nền kinh tế nhanh bền vững; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP đạt 9%; kiểm soát chỉ số tăng giá tiêu dùng thấp hơn mức tăng trưởng GDP; cải thiện tốt hơn nữa đời sống nhân dân; GDP bình quân theo đầu người tăng lên khoảng 960 USD; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 567,3 nghìn tỉ đồng bằng 42% GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 7,6 - 58,6 tỉ USD, tăng 20 - 22% so với năm 2007; tạo việc làm cho khoảng 1,7 triệu lượt người lao động, trong đó xuất khẩu lao động 8,5 vạn người; giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống 11- 12%.
Tuy nhiên theo dự báo thì kinh tế thế giới năm 2008 tăng trưởng chậm hơn đáng kể so với năm 2007. Những biến động khó lường của kinh tế thế giới, kéo theo sức ép lạm phát và nhiều rủi ro đi kèm cũng là những nhân tố có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam. Đây chính là những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và trong các năm tiếp theo. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,5 – 9% và kiềm chế lạm phát ở mức 11-12% cho năm 2008 là rất khó thực hiện và điều quan trọng hơn là cần có những biện pháp chính sách xử lý thích hợp nhằm hạn chế rủi ro tài chính, dần trở lại ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền móng vững chắc hơn cho tăng trưởng bền vững.
Kết quả dự báo của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho thấy, GDP năm 2008 tăng 7,2%, mức lạm phát trung bình là 19,4%, xuất khẩu tăng 26,2% và cán cân thương mại thâm hụt ở mức tương đương 17,3% GDP. Đáng chú ý, tăng trưởng kinh tế theo 3 khu vực chính (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng và dịch vụ) tương ứng là 3,2%; 8,2%; và 7,9%.
Nhưng kết quả đạt được lại hết sức bất ngờ và kinh tế Việt Nam 2008 đã không còn nằm ngoài dòng chảy của kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997. Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái. GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,18%, chỉ số lạm phát ở mức 19,9%.
2.1.3. Những hạn chế và bất cập trong tăng trưởng GDP ở Việt Nam hai năm qua
Như vậy, trong 2 năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được GDP khá cao. Tuy nhiên, đằng sau kết quả này vẫn còn nhiều điều phải xem xét. Đó là sự tăng trưởng chủ yếu vẫn dựa vào chiều rộng và vãn chưa đảm bảo được an sinh xã hội.
? Bên cạnh những kết quả ngoạn mục của GDP và một số chỉ số thì đời sống của nhân dân có thực sự được cải thiện?
Nền kinh tế đang tăng trưởng tương đối cao nhưng cuộc sống của nhiều người dân lại trở nên vất vả hơn. Điều ấy có nghĩa là trái ngọt và cả quả đắng do tăng trưởng cao đem lại đang được chia không đều cho các nhóm người khác nhau trong xã hội. Khi lạm phát cao thì những người hưởng lương cố định, công chức, công nhân, nông dân, người về hưu... chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Tình trạng này càng nghiêm trọng ở những vùng chịu nhiều thiên tai.
Nếu lấy con số GDP theo giá thực tế của năm 2008 là hơn 1.487 nghìn tỷ đồng, chia cho dân số là 86,16 triệu người thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam là cỡ khoảng trên 17 triệu đồng/năm. Sau đó chia cho tỷ giá là 16.700 đồng/USD thì GDP bình quân đầu người một năm của Việt Nam vào khoảng 1.024 USD.
Nhưng đó chưa thể đáng vui mừng, bởi vì chỉ số giá bình quân 12 tháng năm ngoái tăng 8,3% thì năm nay tăng tới gần 23%. Đó là đồng tiền Việt Nam, còn đồng USD cũng mất giá nữa. Cho nên không thể khẳng định rằng chúng ta đạt được GDP bình quân đầu người 1.024 USD mà đã vượt qua ngưỡng nước "nghèo".
? Tăng trưởng GDP có tạo nên sự bền vững?
Một điều dáng nói ở đây nữa là với tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên đến 43,1% GDP và GDP tăng trưởng ở mức 6,18%, thì hệ số Icor sơ bộ nhất cũng đã lên đến 7, một mức rất cao (Năm 2008). Câu hỏi đặt ra là, với hệ số Icor ngày càng cao như vậy, thì tăng trưởng sẽ còn nhiều ý nghĩa hay không?
Đấy là những dấu hiệu cho thấy chúng ta đã và đang dùng quá nhiều vốn để đạt được một đơn vị tăng trưởng, tức là nền kinh tế vận hành kém hiệu quả, và đây là một nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát.
Tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư, đặc biệt là đầu tư công rất nghiêm trọng. Nếu chúng ta có thể tiết kiệm được 20-30% lãng phí đó thì ICOR của chúng ta sẽ trở về mức bình thường, đồng thời nền kinh tế có thể tăng trưởng được thêm khoảng 2%.
Điều quan trọng là khi tăng đầu tư thì phải tăng năng suất lao động. Nếu không, khả năng tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế không được cải thiện một cách tương xứng với tốc độ tăng cung tiền và đầu tư. Khi ấy trong nền kinh tế tiền nhiều hơn hàng, hệ quả tất yếu là lạm phát. Như vậy, nếu như chính sách tiền tệ là nguyên nhân trước mắt của tình trạng lạm phát hiện tại thì nguồn gốc sâu xa hơn của lạm phát chính là tình trạng thất thoát, lãng phí trong nền kinh tế, và kém hiệu quả trong việc tăng năng suất lao động. Không giải quyết triệt để được những căn nguyên cơ bản thì sớm muộn lạm phát cũng sẽ xuất hiện.
Tăng trưởng cao đạt được dựa trên cơ sở phát huy vốn và sử dụng lao động là chính chứ yếu tố năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, chất lượng, hàm lượng giá trị tăng thêm, sức cạnh tranh của hàng hóa… vẫn còn rất hạn chế.
Lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2007 lên tới 12,6%, cũng là mức cao nhất kể từ năm 1997. Mức tăng GDP của khu vực nông nghiệp chỉ đạt 3,5% mà giá cả tăng tới 8% thì người dân khu vực này sẽ bị tụt hậu và khoảng cách giữa các khu vực ngày càng lớn. Sự tăng giá cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến chính sách của Nhà nước khiến nhiều chính sách không còn thích hợp.
Tăng trưởng là phương tiện để duy trì an sinh xã hội chứ không phải là mục tiêu. Tăng trưởng của Việt Nam dựa nhiều vào vốn nên chỉ cần đổ tiền vào đầu tư là tăng trưởng ngay. Chúng ta phải rất quan tâm tới chủ nghĩa thành tích, trong khi điều quan trọng nhất hiện nay là phải giữ và tạo việc làm cho người lao động.
Trong các năm qua, với tốc độ tăng đầu tư phát triển nhiều doanh nghiệp mới đã tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Đặc biệt trong năm 2007 đã đạt được chỉ tiêu giải quyết hơn 1,6 triệu việc làm. Tuy nhiên, tình trạng “bán thất nghiệp” ở đô thị và nông thôn đang còn rất phổ biến. Tạo việc làm mới chủ yếu diễn ra ở khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước chiếm lượng vốn đầu tư rất lớn. Chưa có chính sách rõ nét về mối quan hệ giữa đầu tư và giải quyết việc làm cho từng lĩnh vực, từng địa bàn kinh tế. Thị trường lao động đang phát triển tự phát và không cân đối về cung – cầu. Tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp đang tồn tại song song với tình trạng thiếu lao động có kỹ năng trong hầu hết các ngành kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động không chuyển dịch tương ứng với cơ cấu giá trị, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự phát triển thị trường lao động không gắn liền với chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nên dẫn đến tình trạng vừa thừa và thiếu trong quan hệ cung – cầu. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nghịch lý: Thừa vốn, thiếu lao động (lao động có kỹ năng, được đào tạo), mà đúng ra phải là ngược lại.
GDP và chỉ tiêu tăng trưởng của chỉ số này là thước đo tổng quát nhất sự phát triển của kinh tế. Nhưng việc đặt ra chỉ tiêu cho GDP trong sự tách biệt với các chỉ số kinh tế khác, đặc biệt là chỉ số lạm phát, có thể đưa đến những “ảnh hưởng tiêu cực rất nguy hiểm.
Khi đặt ra con số, thì phải chạy theo chỉ tiêu. Cuối năm, nếu không đạt được chỉ tiêu, người ta chi tiêu bằng mọi cách, chi tiêu từ ngân sách nhà nước, tăng tín dụng đầu tư vào khu vực nhà nước.
Về nguyên tắc kinh tế mà nói, xây một cây cầu rồi phá cây cầu ấy đi đều làm tăng GDP. Đầu tư như vậy là phí phạm mà GDP vẫn tăng. Trong tương lai, nền kinh tế sẽ mang nợ và phải trả giá.
2.2. Thực trạng GDP năm 2009
2.2.1. Phân tích tình hình kinh tế năm 2009
Theo tổng cục thống kê, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm 2009 đạt 5,32%, vượt kế hoạch đề ra (5%). Trong đó, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 7,6%. Đây là kết quả được Tổng cục Thống kê công bố sáng 31/12/2009.
Cụ thể, Tổng cục Thống kê cho biết, theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý 1/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý 2, quý 3 và quý 4 của năm nay đã nâng dần lên, lần lượt là 4,46%, 6,04% và 6,9%. Và tính chung cả năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, vượt mục tiêu kế hoạch là 5% đã điều chỉnh trước đó.
Tính theo khu vực kinh tế, năm 2009, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng trưởng 1,83%; công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,23% của năm 2008 nhưng đã vượt mục tiêu 5% của kế hoạch đề ra trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm, và kết quả trên là một thành công lớn.
Mặt khác, tốc độ tăng trưởng GDP quý 1 và 2 của năm 2009 thấp hơn quý 1 và 2 của năm 2008, nhưng quý 3/2009 đã tăng cao hơn tốc độ của quý 3/2008 (6,04% so với 5,98%); tương tự quý 4/2009 cũng tăng cao hơn quý 4/2008 (6,9% so với 5,89%).
“Điều này cho thấy kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tăng trưởng, chứng tỏ các giải pháp ngắn chặn suy giảm kinh tế triển khai trong năm qua đã phù hợp với tình hình thực thế, đã và đang phát huy hiệu quả tích cực”, Tổng cục Thống kê nhận định.
Trong cuộc chất vấn tại Quốc hội, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư nói GDP quý đầu 2009 của Việt Nam là 3,1%. Ông nói thêm lạm phát trong ba tháng đầu năm ở mức 1,47%.
Ba ngày trước đây Quỹ tiền tệ Quốc tế, IMF, điều chỉnh dự báo tăng trưởng cho Việt Nam xuống 4,8% thay vì 5% họ đưa ra hồi tháng 12.Theo IMF các yếu tố chính như vốn đầu tư suy giảm, xuất khẩu yếu, lượng kiều hối gửi về ít đi đã khiến họ phải điều chỉnh mức tăng GDP của Việt Nam.
« Nguyên nhân
Đầu tiên là do xuất khẩu: Việt Nam đã rất thành công trong việc phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, nhưng trong năm nay nhu cầu đối với các mặt háng xuất khẩu đã giảm mạnh. Việc xuất khẩu của các nước khu vực châu Á đã rơi xuống mức đáng báo động do người tiêu dùng ở Mỹ, châu Âu và các thị trường khác cắt giảm chỉ tiêu.
Thứ hai là do tiêu dùng. Với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng (vì những vấn đề phát sinh trong các khu vực sản xuất hàng xuất khẩu) và thu nhập bị giảm do lạm phát cao trong năm 2008, tiêu dùng cá nhân sẽ bi cắt giảm.
Thứ ba là vì đầu tư. Đầu tư phát triển mạnh trong những năm qua nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam. Tuy nhiên với khủng hoảng tín dụng và sự suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, dòng vốn này sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Các công ty nước ngoài có nhiều tiền mặt sẽ hết sức thận trọng, trong khi những công ty thiếu tiền mặt sẽ phải xoay sở để huy động vốn.
Ngoài ra, rất nhiều khoản đầu tư đã được dành vào việc xây dựng các cơ sở mới phục vụ cho xuất khẩu, do vậy ý định xây dựng các nhà máy mới giảm đi nhiều. Thị trường bất động sản đang đi xuống cũng làm ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư.
2.2.2. Bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
Năm 2009 kết thúc với toàn cảnh kinh tế Việt Nam khá sáng sủa. Nhiều chỉ tiêu vĩ mô đã xoay chuyển từ suy giảm sang tăng trưởng ở mức khá: GDP tăng vượt mục tiêu, lạm phát được kiềm chế, sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh chóng, đầu tư trong nước khơi thông, tỷ lệ hộ nghèo giảm…
Tuy nhiên, nổi lên trong năm qua là 4 hạn chế yếu kém, tồn tại ngay trong những kết quả đạt được. Tổng cục Thống kê đã làm rõ những vấn đề này tại buổi họp báo công bố số liệu kinh tế - xã hội năm 2009, tổ chức ngày 31/12.
Thứ nhất, nhận xét về kết quả tăng trưởng 5,32% trong năm nay, Tổng cục Thống kê cho rằng GDP tuy đã tăng lên, vượt qua giai đoạn suy giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thật sự dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả.
Năm 2009, vốn đầu tư phát triển đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008. với kết quả này, tỷ lệ đầu tư so với GDP đã tăng từ mức 41% trong năm 2008 lên 42% năm 2009. Tuy nhiên, tăng trưởng lại sụt giảm từ mức tăng 6,23% xuống 5,32%.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế tuy bước đầu có chuyển dịch nhưng vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất.
Năm 2009, cơ cấu tổng sản phẩm 3 khu vực kinh tế chủ chốt bao gồm nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ lần lượt là 20,66%; 40,24%; và 39,1%. Tổng cục Thống kê cho rằng tỷ trọng này không khác nhiều so với năm 2008 và những năm gần đây.
Thứ ba, Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Cụ thể, nhập siêu hàng hóa năm 2009 tuy giảm 32,1% so với năm 2008 nhưng vẫn bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; nhập siêu dịch vụ bằng 18,6% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và tăng 17% so với năm 2008. Trong khi đó, kiều hối được dự báo sẽ giảm khoảng từ 1 đến 1,2 tỷ USD trong năm nay; dòng vốn FDI giảm lượng vốn chảy vào và tăng lượng tiền rút ra…
Một số chuyên gia cho rằng thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể năm nay sẽ nghiêm trọng hơn so với nhiều năm trở lại đây.
Một điểm đáng chú ý khác, lạm phát trong năm 2009 tuy đã được khống chế nhưng nhìn chung giá cả ngày càng tăng và đang tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể gây tái lạm phát cao. Tăng trưởng cung tiền M2 đã đạt gần 29%; trong khi đó, tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng gần 38%. Trong tương quan so sánh tiền - hàng, tăng trưởng GDP thực tế chỉ 11,4% trong năm nay không thể tạo vị thế cân bằng. Thêm vào đó, mức thâm hụt ngân sách tuy đã được khống chế nhưng đã lên tới 7% GDP trong năm nay.
Trong khi đó, lãi suất cơ bản đã được điều chỉnh tăng lên, chưa kể phụ phí đươc có xu hướng gia tăng trong hoạt động ngân hàng. Trong khi đó, chi phí tiền lương cũng sẽ tăng trong năm 2010. Nhưng ngược lại, nhiều chính sách hỗ trợ đã được cắt giảm vào cuối năm 2009 vừa qua. Có nghĩa rằng, doanh nghiệp phải thêm chi phí.
Thêm nữa, xu hướng tăng giá của thế giới là rõ ràng trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có dấu hiệu phục hồi. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tăng trưởng sắp tới sẽ phải tăng nhập khẩu nguyên, nhiên liệu đầu vào.
Thứ tư: Tổng cục thống kê cho rằng một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục: đời sông nhân dân, nhất là người có thu nhập thấp, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng dân tộc ít người và vùng bị ảnh hưởng của thiên tai vẫn còn nhiều khó khăn.
Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp là 2,9%, cao hơn mức 2,38% của năm 2008; tỷ lệ hộ nghèo tuy đã giảm nhưng vẫn còn 12,3% (năm 2008 là 13,4%).
2.3. Dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010
2.3.1. Dự đoán tình hình kinh tế thế giới năm 2010
Nhiều chuyên gia dự đoán tình hình kinh tế thế giới sẽ phục hồi mạnh mẽ hơn trong năm 2010. Đầu tàu của sự phục hồi đó vẫn phải là các nền kinh tế lớn. Các chỉ báo sớm như chỉ số phát triển công nghiệp, số lượng giấy phép xây nhà mới, chỉ số thất nghiệp, chỉ số tồn kho... của các nền kinh tế Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc nhìn chung đều diễn biến theo hướng tích cực. Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) mới đây dự báo rằng, năm 2010, thương mại quốc tế sẽ tăng trưởng 2%, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ổn định ở cả nhóm nước đã phát triển (2%) lẫn đang phát triển (4%), và tăng trưởng GDP của thế giới đạt 3% - xấp xỉ với mức tăng trưởng trung bình dài hạn.
2.3.2. Dự đoán tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010
Phụ thuộc rất nhiều vào kinh tế thế giới, nền kinh tế VN sẽ có cơ hội từ sự phục hồi chung này. Cụ thể là xuất khẩu và FDI sau khi suy giảm khá mạnh năm 2009 có thể dần hồi phục trong năm 2010. Mặc dù sẽ có nhiều cơ hội hơn, nhưng việc hiện thực hóa những cơ hội này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách vĩ mô của Chính phủ:
2.3.2.1. Thách thức của nền kinh tế việt nam trong năm 2010
Thách thức thứ nhất là Việt Nam có thế đối mặt với những áp lực lạm phát có chiều hướng tăng lên đồng thời bất ổn vĩ mô, tăng trưởng kém bền vững, thậm chí suy giảm trong dài hạn.
Thách thức thứ hai là tình hình thâm hụt cán cân thanh toán của Việt Nam. Đây là vấn đề đáng lo ngại trong trung hạn và dài hạn. Và vấn đề không chỉ nằm ở tình trạng thâm hụt ngân sách mà còn ở nguyên nhân và cách tài trợ thâm hụt.
2.3.2.2. Dự đoán của các chuyên gia kinh tế thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế của việt năm 2010
Goldman Sachs dự báo một cách lạc quan tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2010 chỉ số GDP tăng 8,2%.Bloomberg đánh giá nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ phát triển mạnh nhất trong quý IV/2009 và dự đoán mức tăng trưởng 7% trong năm 2010 là hoàn toàn có thể đạt được.
Đồng thời phục hồi tăng trưởng của kinh tế Việt Nam từ quý II/2009 tới nay do kết quả của nhu cầu nội địa. Hơn thế nữa là “Nhờ chương trình kích cầu và chính sách tiền tệ nới lỏng, nền kinh tế Việt Nam đã chống chọi tương đối tốt với những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong quý III/2009, GDP của Việt Nam tăng trưởng 5,2% so với cùng kỳ năm ngoái, gần bằng mức tăng trưởng bình quân 5,3% của khu vực châu Á
Đây là những nhận định và dự đoán từ các chuyên gia kinh tế về tốc độ kinh trưởng kinh tế của việt nam trong năm 2010.
Nhiều chuyên gia kinh tế cả trong và ngoài nước tin tưởng vào khả năng đạt mức tăng trưởng GDP của Việt Nam 6,5% trong năm 2010, đúng như mục tiêu kế hoạch mà Chính phủ đặt ra cho năm cuối cùng của kế hoạch 2006-2010 dù nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều thách thức.
Các mục tiêu của năm 2010 có thể đạt được thông qua các biện pháp không mang tính cấp bách, tình thế như gói kích thích kinh tế năm 2009 mà sẽ gắn với chiến lược phát triển tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả hơn.
Cụ thể là xuất khẩu và FDI sau khi suy giảm khá mạnh năm 2009 có thể dần hồi phục trong năm 2010. Đồng USD đang tiếp tục xu thế giảm giá. Điều này góp phần giảm bớt áp lực giảm giá VND và đối với chính sách điều hành tỷ giá – một bài toán khó khăn với nhiều tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm 2008 và 2009. Và Trong tháng 12/2009, thâm hụt thương mại của Việt Nam giảm 38% xuống còn 1,3 tỷ USD so với tháng trước. Thâm hụt thương mại cả năm đã giảm 32% so với năm ngoái, xuống còn 12,25 tỷ USD.
Với việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch khác, như tăng trưởng xuất khẩu 6%; vốn đầu tư phát triển ở mức 41,5% GDP; CPI kiềm chế dưới 7%; giải quyết việc làm cho 1,6 lao động... là hoàn toàn có thể. Theo nhiều chuyên gia, triển vọng sáng sủa hơn của nền kinh tế trong năm tới là điều có thể kỳ vọng.
Điều này khẳng định một kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng ổn định và bền vững trong năm 2010, GDP dự kiến đạt trên mức 6,5% nếu Chính phủ đưa ra những giải pháp hợp lý.
2.4. Giải pháp - kiến nghị
Nhằm xây dựng mục tiêu gia tăng GDP cần kể đến các vấn đề sau:
Một là, thực hiện các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, đi đôi với giảm chi phí sản xuất để nâng cao giá trị tăng thêm, nhất là đối với ngành công nghiệp.
Cụ thể, cần khuyến khích các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp cải tiến công nghệ, tiết kiệm chi phí nguyên nhiên vật liệu, đặc biệt có giải pháp tiết kiệm điện, xăng dầu để giảm chi phí sản xuất, khắc phục tăng giá đầu vào nhằm hạ giá thành sản phẩm; các Bộ, ngành, địa phương cần sâu sát, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến đất đai, bảo đảm cho sản xuất, kinh doanh thông suốt; đẩy mạnh hoạt động của các ngành dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ có giá trị cao.
Phát triển mạnh du lịch, bưu chính viễn thông, các ngành vận tải, đặc biệt là vận tải đường hàng không; đẩy mạnh các hình thức xúc tiến du lịch, mở rộng các tour; tuyến du lịch, đa dạng hoá các sản phẩm du lịch với giá cả hợp lý nhằm thu hút cao nhất lượng khách du lịch quốc tế trong những tháng cuối năm; thực hiện các biện pháp phòng chống thiên tai.
Hai là, Giải phóng các nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng. Có thể kể đến các chính sách về xã hội hóa trong nhiều lĩnh vực, về cổ phần hóa, giải quyết hàng loạt vấn đề rất cụ thể: vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ, cơ sở hạ tầng bao gồm cả phần cứng (đường, điện, viễn thông...) và phần mềm (chất xám, chính sách...).
Đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư xây dựng bằng các giải pháp nhằm huy động tối đa các nguồn lực phục vụ đầu tư phát triển; khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi ngay những điểm chưa hợp lý trong các văn bản hướng dẫn Luật nhằm tháo gỡ các khó khăn vướng mắc về thủ tục trong việc khởi công các dự án đầu tư mới.
Xây dựng và triển khai nhanh các chương trình khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước; đẩy nhanh việc giải ngân tín dụng đầu tư thuộc kế hoạch nhà nước, đặc biệt đối với các dự án lớn.
Ba là, phải kiềm chế tốc độ tăng giá; ngăn chặn xử lý nghiêm hiện tượng lợi dụng việc biến động giá thế giới để tăng các sản phẩm không hợp lý, hạn chế tác động dây truyền của việc tăng giá xăng.
Kịp thời dự báo tình hình diễn biến giá cả, nhất là ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu, tăng giá điện đối với những vật tư, hàng hoá quan trọng là đầu vào của sản xuất và nhu yếu phẩm của đời sống nhân dân để chủ động đề ra các giải pháp ứng phó thích hợp.
Bốn là, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với các giải pháp đồng bộ, hướng mạnh cho xuất khẩu.
Phần KẾT LUẬN
Tuy còn nhiều khiếm khuyết, GDP vẫn là một phát kiến quan trọng của kinh tế học hiện đại và là một trong những chỉ số then chốt giúp ta hình dung về thực trạng nền kinh tế để có biện pháp thích hợp điều khiển nó. Điều quan trọng là bên cạnh cái chỉ số rất dễ đánh lạc hướng chúng ta đến mức từng bị kết tội là "lá chắn che chở cho hành vi hủy hoại sinh môi" này, và là một chỉ số không hoàn hảo, cần phải xây dựng và sử dụng những chỉ số an ninh kinh tế, chỉ số an sinh xã hội, chỉ số bảo vệ môi trường, chỉ số năng suất lao động, v.v... Và ở một nước đang phát triển như Việt Nam, trong khi dùng chỉ số GDP cho tương đồng với các nước đã phát triển, chỉ số GNP vẫn còn cần thiết và nhất thiết phải được nhắc đến trong những báo cáo vĩ mô về nền kinh tế đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Vĩ mô. ĐH Công nghiệp TPHCM. NXB Lao Động Xã Hội. Năm 2009
Giáo trình Kinh tế Vĩ mô. ĐH Kinh Tế TP HCM. NXB Thống kê. Năm 2007
Ts Dương Tấn Diệp. Kinh tế Vĩ mô. NXB Thống Kê. Năm 2007
Ts Huỳnh Đại Ngô. Nguyên lý Kinh tế Vĩ mô. NXB Thanh Niên. Năm 2005
Ý nghĩa và thước đo sự phát triển kinh tế. www.kinhtehoc.com
GDP là chỉ số không hoàn hảo. Diễn đàn VnEcon.com. Nhiều tác giả www.vnecon.com
Cổng thông tin kinh tế Việt Nam. www.vnep.org.vn
Kinh tế Việt Nam 2007 trong tầm nhìn của các chuyên gia. Nhiều tác giả. www.laodong.com
Tổng cục thống kê. www.gso.gov.vn
Mục lục
CHƯƠNG I: GDP LÀ CHỈ SỐ KHÔNG HOÀN HẢO
1.1. Tổng quan về GDP 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. GDP là gì 4
1.1.2.1. GDP danh nghĩa 4
1.1.2.2. GDP thực tế 4
1.1.2.3. Chỉ số điều chỉnh GDP 5
1.1.3. Phương pháp xác định GDP 5
1.1.3.1. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng 5
1.1.3.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập hoặc chi phí 8
1.1.3.3. Xác định GDP theo phương pháp giá trị gia tăng 9
1.2. GDP là chỉ số không hoàn hảo 9
1.2.1. Vì sao GDP là chỉ số không hoàn hảo 9
1.2.2. Chỉ số thay thế GDP 12
1.2.2.1. GPI 12
1.2.2.2. ISEW 12
1.2.2.3. SNBI 13
1.2.2.4. NEW 13
1.2.3. Nguyên tắc tính các chỉ số mới 14
1.2.3.1. Căn cứ trên mức chi tiêu dùng cá nhân 14
1.2.3.2. Căn cứ trên tính chất của các hoạt động kinh tế 14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GDP Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng GDP năm 2007-2008 16
2.1.1. Năm 2007 16
2.1.2. Năm 2008 17
2.1.3. Những hạn chế và bất cập 18
2.2. Thực trạng GDP năm 2009 21
2.2.1. Phân tích tình hình kinh tế năm 2009 21
2.2.2. Bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê 23
2.3. Dự đoán tốc độ tăng trưởng 25
2.3.1. Dự đoán tình hình kinh tế thế giới năm 2010 25
2.3.2. Dự đoán tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010 26
2.3.2.1. Thách thức của nền kinh tế việt nam trong năm 2010 26
2.3.2.2. Dự đoán 26
2.4. Giải pháp - kiến nghị 28
MỨC TĂNG GDP TRÊN ĐẦU NGƯỜI
VÒNG CHU CHUYỂN TIỀN TỆ
Phụ lục
CHỈ TIÊU ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG
TĂNG GDP VÀ LẠM PHÁT
LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Trần Nguyễn Minh Ái và các bạn đã giúp đỡ chúng em, cũng như trường ĐH Công Nghiệp đã tạo điều kiện cơ sở vật chất cho chúng em hoàn thành tiểu luận này. Chắc chắc trong quá trình làm không thể tránh khỏi sai xót mong cô và các bạn thông cảm. Chúng em xin chân thành cảm ơn!!!
Nhóm MaE_06
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu về chỉ số GDP ở Việt Nam.doc