V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
A. Kết luận
Cá bống cát (G. aureus) thuộc nhóm cá dữ với
thành phần thức ăn chủ yếu là cá nhỏ và giáp xác
(86,8%).
B. Đề xuất
Nghiên cứu về sự chọn lựa thức ăn của cá bống
cát, nhu cầu dinh dưỡng của cá ở các giai đoạn
khác nhau và nghiên cứu khả năng nuôi thương
phẩm loài cá này để có thể phát triển thêm đối
tượng nuôi mới.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 176 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tính ăn và phổ thức ăn cá bống cát Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018
63
NGHIÊN CỨU TÍNH ĂN VÀ PHỔ THỨC ĂN CÁ BỐNG CÁT
Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975
STUDY ON FEEDING HABIT AND FEED SPECTRUM OF
GOLDEN TANK GOBY Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975
Nguyễn Minh Tuấn1, Trần Đắc Định2
Tóm tắt – Cá bống cát Glossogobius aureus
Akihito & Meguro, 1975 (G. aureus) là loài cá
có thịt thơm ngon được nhiều người ưa thích và
có giá trị kinh tế. Nghiên cứu tính ăn và phổ thức
ăn của cá bống cát được thực hiện từ tháng 01
đến tháng 12 năm 2013 tại vùng ven biển tỉnh
Bến Tre. Kết quả nghiên cứu cho thấy cá bống
cát thuộc nhóm cá miệng trên, miệng rộng, lưỡi
phát triển, phần tự do của lưỡi dài, phần cuối
lưỡi xẻ thùy và chia làm đôi, răng lớn, nhọn, răng
hầu phát triển, lược mang có dạng núm hoặc gai
nhọn, thực quản và ruột ngắn, thành dạ dày và
thành ruột dày. Cá bống cát có tỉ lệ chiều dài
ruột/chiều dài cơ thể (RLG) < 1, thức ăn chủ
yếu là cá (46,3%) và giáp xác (40,5%). Kết quả
nghiên cứu đặc điểm hình thái cơ quan tiêu hóa
và phổ thức ăn cho thấy cá bống cát là cá dữ ăn
động vật.
Từ khóa: Cá bống cát, Glossogobius aureus,
phổ thức ăn, tính ăn.
Abstract – Glossogobius aureus Akihito &
Meguro, 1975 is a fish with good flesh, which
has brought about high economic value. The
study on feeding habit and feed spectrum of G.
aureus was conducted from January to December
2013 at the coastal area of Ben Tre province.
The results have showed that the mouth of this
fish is wide, tongue is bilobate, teeth on faws
develop well. The gill rakers are sparse, short and
hard. The esophagus and the intestine are short,
the stomach and intestinal walls are thick. The
Relative Length Gut index (RLG) of G. aureus
1Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bến Tre
Email: nmtuan.snn@bentre.gov.vn
2Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
Ngày nhận bài: 07/3/2018; Ngày nhận kết quả bình duyệt:
13/3/2018; Ngày chấp nhận đăng: 21/3/2018
was less than 1. The results also indicated that
G. Aureus are fed mainly on small fish (46.3%)
and crustaceans (40.5%). The result showed that
G. aureus is the carnivorous species
Keywords: Golden tank goby, Glossogobius
aureus, feed spectrum, feeding habit.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá bống cát Glossogobius aureus Akihito &
Meguro, 1975 thuộc giống Glossogobius, họ cá
bống trắng (Gobiidae), bộ cá vược (Perciformes)
[1]; phân bố vùng Tây Thái Bình Dương, Nam
Phi, Châu Á và Châu Đại Dương: Nhật Bản đến
Úc; sông Mekong và sông Chao Phraya [1], [2].
Loài này sống được ở cả 3 môi trường ngọt, lợ
và mặn. Cá bống cát có chiều dài thân đến 26,9
cm (chiều dài chuẩn) [2]. Cá có chiều dài thành
thục đầu tiên là 13,02 cm (chiều dài chuẩn) [3].
Cá bống cát G. aureus có thịt ngon, giá trị kinh
tế cao [4]. Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận
được 3 loài cá bống cát thuộc giống Glossogobius
là Glossogobius aureus, Glossogobius giuris và
Glossogobius sparsipappllus [2]. Về hình thái, ba
loài này rất giống nhau. Đặc điểm để phân biệt ba
loài này là các hàng nốt cảm giác của cá trên má
và nắp mang (Hình 1) [2], [5], [6]. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về đặc điểm dinh dưỡng, sinh trưởng
và sinh sản của cá bống cát đa số tập trung cho
loài G. giuris, còn loài G. aureus ở vùng bãi bồi
ven biển vùng ĐBSCL nói chung và ở Bến Tre
nói riêng cho đến nay vẫn còn hạn chế. Do đó,
việc xác định được tính ăn và phổ thức ăn của cá
bống cát G. aureus sẽ làm cơ sở cho sự phát triển
nghề nuôi và bảo vệ nguồn lợi của loài cá này.
Với lí do trên, đề tài “Nghiên cứu tính ăn và
phổ thức ăn cá bống cát Glossogobius aureus
Akihito & Meguro, 1975” đã được thực hiện.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Hình 1: Ba loài cá bống cát giống Glossogobius.
(Nguồn: Trần Đắc Định và ctv., 2013) [2]
(a) G. aureus, (b) G. sparsipappllus và
(c) G. giuris.
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Thức ăn của cá được chia làm 3 loại, thức ăn
chính (thức ăn tự nhiên) là loại thức ăn cá ưa
thích nhất, giúp cá sẽ phát triển tốt nhất; thức ăn
phụ được cá sử dụng một khi chúng xuất hiện;
thức ăn bắt buộc là loại thức ăn mà cá bắt buộc
sử dụng khi không có loại thức ăn khác [7]. Thức
ăn tự nhiên của cá được chia thành 4 nhóm: sinh
vật phù du, sinh vật tự bơi, sinh vật đáy và chất
vẩn. Có 2 loại chất vẩn là chất vẩn lơ lững và
chất vẩn lắng đọng dưới nền đáy [8].
Nikolsky [9] phân chia thức ăn của cá ra thành
4 loại: thức ăn cơ bản, thức ăn thứ cấp, thức ăn
ngẫu nhiên và thức ăn cưỡng bức. Tùy vào khối
lượng của các loại thức ăn được cá sử dụng, chia
tập tính dinh dưỡng của cá ra thành các nhóm
như: cá ăn đơn, chúng chỉ ăn một loại thức ăn
duy nhất; cá có phổ dinh dưỡng hẹp, chúng ăn
được một số loại thức ăn khác nhau; và cá có
phổ dinh dưỡng rộng, chúng ăn được nhiều loại
thức ăn khác nhau.
Tập tính dinh dưỡng của cá cũng có thể được
phân chia theo vị trí của chuỗi thức ăn (hay loại
thức ăn) sẵn có hoặc nơi mà loại thức ăn ưa thích
của cá xuất hiện nhiều nhất. Theo đó, cá được
chia thành: cá ăn tầng mặt (surface feeder), cá ăn
tầng giữa (mid feeder), cá ăn đáy (bottom feeder)
hoặc cá ăn ven bờ (marginal feeder).
Bên cạnh các cách phân chia như trên, Das
and Moitra [10] cho rằng có thể chia tính ăn của
cá dựa vào loại thức ăn tự nhiên mà cá ưa thích
như cá ăn sinh vật nổi hay cá ăn chất vẩn. Nhóm
cá ăn tạp được chia thành 2 nhóm phụ: cá ăn
tạp thiên về thực vật và cá ăn tạp thiên về động
vật. Riêng nhóm cá ăn động vật thì được chia:
cá ăn côn trùng (insectivorous), cá ăn giáp xác
(carciniphagus), cá ăn thân mềm (malacophagus),
cá ăn các loài cá nhỏ khác (piscivorous), cá ăn ấu
trùng của các loại côn trùng và cá (larvivorous),
cá ăn thịt lẫn nhau (cannibalistic).
Theo Nguyễn Bạch Loan [11], có thể dựa vào
đặc điểm hình thái ống tiêu hóa để dự đoán tính
ăn của cá. Cá hiền thường có miệng nhỏ, hẹp như
cá sặc rằn, cá linh. Cá dữ thường có miệng rộng
lớn như cá lóc, cá chẽm, cá bống tượng, cá bống
cát. Cá ăn lọc thường không có răng; cá ăn động
vật kích thước nhỏ có răng nhỏ, mịn; cá ăn động
vật kích thước lớn có răng to, bén, thường có
răng chó. Lược mang cũng khác nhau tùy theo
tính ăn của mỗi loại cá. Cá ăn lọc lược mang
dài, mảnh, xếp khít nhau; cá ăn động vật kích
thước nhỏ lược mang dài, mảnh, xếp thưa; cá ăn
mùn bã hoặc động vật đáy lược mang ngắn, to
thô, xếp thưa; cá ăn động vật kích thước lớn trên
cung mang có nhiều gai bén hoặc lược mang biến
thành những núm có nhiều gai. Độ dài của ruột
cũng quan hệ chặt chẽ với tính ăn: cá ăn động
vật thì ruột ngắn, cá ăn thực vật thì ruột dài, cá
ăn tạp thì ruột trung bình [12]. Trong thủy sản
thường chia tính ăn của cá làm 3 nhóm: nhóm cá
ăn động vật, nhóm cá ăn thực vật, nhóm cá ăn
tạp [10].
Hệ tiêu hóa của cá có chức năng lấy thức ăn từ
môi trường bên ngoài, chuyển hóa thức ăn thành
chất dinh dưỡng và hấp thụ chúng để cung cấp
cho các hoạt động sống của cơ thể cá. Mỗi loại
cá thích nghi với việc dinh dưỡng bằng những
loại thức ăn nhất định và phù hợp với đặc tính
dinh dưỡng của cá, các cơ quan mà cá dùng để
tìm thức ăn cũng khác nhau [13]. Theo Phạm
Thanh Liêm và Trần Đắc Định [7], nghiên cứu
cấu trúc của cơ thể cá như vị trí miệng, răng,
kích cỡ miệng,. . . sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về loại thức ăn tự nhiên và tập tính bắt mồi của
cá. Cá có miệng dưới hay miệng nằm ở mặt bụng
chính là loài cá ăn đáy.
64
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Cá bống cũng có loài có tính ăn thiên về thực
vật như cá bống kèo vảy nhỏ (Pseudapocryptes
elongatus), thức ăn chủ yếu là tảo khuê, tảo
lam và mùn bã hữu cơ. Các động vật phù du
(Copepoda, Cladocera) cũng thấy hiện diện trong
thức ăn của cá nhưng không nhiều [13].
Cá bống Pomatoschistus minutus và những loài
cá bống thường có chung mồi là động vật giáp
xác, copepoda và polychaeta [14]–[16]. Theo kết
quả phân tích tần số xuất hiện của thức ăn trong
dạ dày cá, cá Platichthys flesus ăn Polychaeta
trong những giờ buổi sáng và Neomysis integer
vào buổi tối [17].
Nghiên cứu của Borek et al. [18], trong tháng 8
năm 2001, ghi nhận tất cả các nhóm chiều dài của
cá bống Pomatoschistus minutus (Pallas, 1770)
đều có calanoida chiếm ưu thế trong chế độ ăn
của cá. Trứng của Copepoda, Chironomus và cá
bống P. minutus con thường được tìm thấy nhiều
nhất trong thành phần thức ăn của tất cả các nhóm
chiều dài của cá bống P. minutus. Trong chế độ
ăn của cá bống P. minutus ở nhóm chiều dài 30 –
49 mm, amphipoda trội về sinh khối, nhưng trong
dạ dày của nhóm cá có chiều dài lớn nhất thì con
mồi bao gồm cá con của chúng. Đối với cá bống
P. minutus nhỏ hơn (chiều dài các nhóm từ 30 –
39 và 40 – 49 mm), con mồi quan trọng nhất là
calanoida, trong khi những con lớn nhất (trên 50
mm) có các đối tượng con mồi quan trọng nhất
là P. minutus.
Ravi [19] cho rằng cá bống sao (B. boddarti) ở
rừng ngặp mặn Pichavaram, Ấn Độ là loài có tính
ăn thiên về thực vật và tảo khuê là thành phần chủ
yếu [20]. Nhìn chung, đa số các loài có hình thái
tương tự cá bống sao thuộc giống Periophthalmus
và Periophthalmodon là loài ăn động vật, trong
khi những loài thuộc giống Boleophthamus là loài
có tính ăn thiên về thực vật, đặc biệt tảo khuê là
thành phần chủ yếu [21], [22]. Cá bống sao lấy
thức ăn bằng cách di chuyển trên bãi bùn và cạp
một lớp bùn mỏng từ bề mặt [20]. Fenchel [23]
cho rằng tảo khuê đáy tạo thành một nguồn thức
ăn quan trọng cho sinh vật đáy, trong khi Heald
và Odum [24] giải thích rằng tảo khuê đóng vai
trò quan trọng trong việc thiết lập các chuỗi thức
ăn và mối quan hệ giữa các nhóm khác nhau của
các sinh vật trong các hệ sinh thái.
Họ cá bống trắng (Gobiidae) là nhóm cá rộng
muối và ăn động vật nhỏ; đồng thời cũng là loài
có giá trị kinh tế cao góp phần đáng kể vào sản
lượng khai thác và thu nhập của người dân trong
vùng đầm Ô Loan, tỉnh Bình Định [25].
Thức ăn của cá bống rất đa dạng, có nghĩa là
chúng cũng thích nghi với những thay đổi sinh
học trong môi trường và dễ dàng chuyển sang
các loại thức ăn phù hợp. Ngay cả trong điều
kiện thiếu thức ăn, chúng có một thời gian giới
hạn chờ có được nguồn thức ăn phong phú cung
cấp để đẻ trứng. Ngoài ra, còn có các giá trị
khác có tính linh động, chẳng hạn sinh sản giảm,
tăng trưởng giảm. Khi nguồn cung cấp thức ăn
có sự thay đổi lớn, như trong trường hợp vùng
ven biển, cá có thể bị buộc phải lưu trữ chất béo
để sử dụng sau. Vì vậy, tính ăn linh động dự kiến
sẽ tăng với môi trường biến đổi [26].
Một số nghiên cứu cho thấy thức ăn của các
loài cá bống rất đa dạng và tùy theo loài, có loài
ăn chủ yếu là thực vật như cá bống kèo, có loài
ăn chủ yếu là động vật như cá bống tượng và có
loài ăn cả động vật và thực vật. Do vậy, trong
quá trình nghiên cứu, tác giả luôn lưu ý điều này
để xác định thức ăn của đối tượng nghiên cứu.
Do không phải tất cả thành phần có trong dạ dày
của cá đều là thức ăn của cá, có thể trong quá
trình ăn mồi vô tình các thức ăn này theo nước
đi vào dạ dày của cá.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
A. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 1 năm
2013 đến tháng 12 năm 2013 tại vùng ven biển
tỉnh Bến Tre (Hình 2).
Địa điểm phân tích mẫu: phân tích hình thái
cơ quan tiêu hóa tại hiện trường khu vực thu mẫu
và phân tích phổ thức ăn tại Phòng Thí nghiệm
Nguồn lợi Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại
học Cần Thơ.
B. Phương pháp thu và cố định mẫu
Số mẫu phân tích tương quan chiều dài ruột
và chiều dài tổng của cá là 411 cá thể, phân tích
phổ thức ăn là 35 cá thể.
Mẫu cá được thu bằng lưới đáy (có kích thước
mắt lưới phần đục là 2a = 15mm) và thu định
kì hàng tháng trong suốt 12 tháng. Mẫu cá phân
tích phổ thức ăn sau khi thu được gây mê bằng
nước đá, sau đó cố định ngay trong dung dịch
65
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Hình 2: Bản đồ khu vực nghiên cứu
formol 10%, chọn cá thể no và tiến hành phân
tích tại Phòng Thí nghiệm Nguồn lợi Thủy sản,
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
C. Phương pháp phân tích đặc điểm hình thái
cấu tạo cơ quan tiêu hóa
Quan sát cấu tạo răng, miệng, lược mang, đo
chiều dài ruột và chiều dài tổng của cá. Tính
tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài tổng
của cá (RLG) theo Al-Hussainy [12].
RLG =
Chiều dài ruột (cm)
Chiều dài tổng (cm)
D. Phương pháp phân tích phổ thức ăn của cá
Cách lấy thức ăn ra khỏi ống tiêu hóa để phân
tích: mẫu dạ dày cá no được đặt trên khai mổ có
trải tấm nhựa mỏng, dùng kéo mổ dạ dày cá rồi
chuyển hết phần thức ăn có trong dạ dày ra tấm
nhựa để phân tích.
Cá bống cát có thành phần thức ăn là cá và
giáp xác có kích thước và khối lượng lớn nên
nghiên cứu này phân tích phổ thức ăn của cá
theo phương pháp tần số xuất hiện và phương
pháp khối lượng.
* Phương pháp tần số xuất hiện (TSXH)
Phương pháp này được tiến hành theo hai bước:
- Tất cả các loại thức ăn trong các mẫu quan
sát sẽ được liệt kê thành một danh sách, sau đó
ghi nhận lại sự hiện diện của mỗi loại thức ăn
trong từng dạ dày và tính ra % trên tổng số dạ
dày quan sát.
- Tính % xuất hiện của mỗi loại thức ăn:
T =
Số lượng dạ dày hiện diện thức ăn (a)
Tổng số cá thể quan sát
×100
T: TSXH thức ăn loại a (%)
Cách tính tương tự cho tất cả các loại thức ăn
khác còn lại.
* Phương pháp khối lượng
Trước tiên sử dụng cân điện tử (3 chữ số lẻ)
cân tổng khối lượng thức ăn có trong dạ dày cá,
sau đó cân khối lượng của từng loại thức ăn có
trong dạ dày cá. Khối lượng của mỗi loại thức ăn
được tính thành phần trăm trên tổng khối lượng
thức ăn có trong dạ dày cá.
Phổ thức ăn của cá được xác định bằng tích
số giữa tỉ lệ tần số xuất hiện và tỉ lệ khối
lượng thức ăn, sau đó tính ra tỉ lệ % trên tổng
tích số [8].
E. Phương pháp xử lí số liệu
Số liệu ghi nhận được phân tích giá trị trung
bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, tần số phần
trăm bởi phần mềm Excel 2007.
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
A. Đặc điểm hình thái cơ quan tiêu hóa của cá
bống cát G. aureus
Kết quả quan sát cấu tạo hệ tiêu hóa cá bống
cát được ghi nhận như sau:
Miệng: cá bống cát có hàm dưới nhô ra và dài
hơn hàm trên (Hình 3), rạch miệng kéo dài đến
bờ trước của ổ mắt. Như thế, chúng thuộc nhóm
cá miệng trên, miệng khá rộng.
Răng: cá có hai hàng răng trên mỗi hàm, cả
hai hàng răng bên trong và bên ngoài đều có răng
lớn và nhọn (Hình 3). Tuy nhiên, hàng răng ngoài
lớn và nhọn hơn so với hàng trong. Có răng hầu
nhỏ, nhọn và xếp thành đám hình bầu dục ở vùng
hầu (Hình 4 [1]). Kết quả quan sát răng của cá
bống cát ở nghiên cứu này cũng phù hợp với mô
tả của Akihito and Meguro [5]. Đối chiếu với tài
liệu Nguyễn Bạch Loan [11], cá bống cát có đặc
điểm về răng như thế thì có thể dự đoán được cá
bống cát là loài cá dữ.
Lưỡi: rất phát triển, phần tự do của lưỡi dài,
phần cuối xẻ thùy và chia làm đôi (Hình 3).
Mang: Cá bống cát có khe mang rộng, gồm
có 4 đôi cung mang kích thước lớn dần từ dưới
66
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Hình 3: Hình thái miệng, răng và lưỡi cá bống
cát G. aureus
lên trên (Hình 4). Lược mang cá bống cát nằm
trên xương cung mang và đối xứng với tia mang,
hướng vào xoang miệng hầu. Trên mỗi xương
cung mang, lược mang có màu trắng ngà xếp
thành một hàng thưa, dạng núm gai nhọn và bén.
Cấu tạo lược mang cá bống cát phù hợp với đặc
điểm của nhóm cá ăn động vật có kích thước lớn.
Mỗi cung mang có khoảng 7 đến 10 lược mang.
Hình 4: Hình thái cung mang của cá bống cát
(G. aureus) [1] Răng hầu; [2] Tia mang;
[3] Xương cung mang; [4] Lược mang.
Thực quản: tương đối ngắn, nằm tiếp xoang
hầu. Thực quản có thành dày, gấp nếp ở mặt
trong. Cấu tạo thực quản như trên chứng tỏ cá
bống cát thích hợp với thức ăn là các loài động
vật kích thước lớn (Hình 5-6).
Dạ dày cá bống cát rất phát triển, có dạng túi
hình chữ J phình to và vách dày (Hình 5-6), cấu
tạo của dạ dày vách dày đã thể hiện được thức
ăn của cá bống cát có kích thước lớn.
Ruột ngắn, thành ruột cá tương đối dày, bên
trong bề mặt gấp nếp để tăng diện tích hấp thu
chất dinh dưỡng.
Để xác định chính xác hơn tính ăn của cá bống
cát thì chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và
chiều dài cơ thể (RLG) được khảo sát. Tương
quan giữa chiều dài ruột (Lr) và chiều dài tổng
Hình 5: Hệ tiêu hóa cá bống cát (G. aureus)
[1] Thực quản; [2] Gan; [3] Mật; [4] Dạ dày;
[5] Ruột.
Hình 6: Cấu tạo ống tiêu hóa cá bống cát
(G. aureus) (a) Cấu tạo ngoài ống tiêu hóa.
(b) Cấu tạo mặt trong ống tiêu hóa.
(L) của cá bống cát được phân tích trên 411 mẫu,
chỉ số này dao động trong khoảng 0,08–0,57 với
giá trị trung bình 0,26 (Bảng 1).
Bảng 1: Các thông số về chiều dài ruột và chiều
dài tổng cá bống cát (G. aureus) (n = 411)
Các chỉ tiêu đo Trung bình Min Max
Chiều dài tổng (cm) 18,5 9,30 30,1
Chiều dài ruột (cm) 4,85 1,60 12,0
Tương quan chiều dài
ruột/chiều dài tổng (RLG)
0,26 0,08 0,57
Theo Nikolsky [9], khi chỉ số RLG < 1 cá
thuộc nhóm ăn động vật, cá bống cát có RLG
67
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
= 0,26 < 1 thì thức ăn của chúng là động vật.
Đồng thời, kết quả phân tích giải phẫu thể hiện
mối tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài
cơ thể cho thấy kích thước ruột rất ngắn so với
chiều dài cơ thể cá.
Qua kết quả phân tích đặc điểm hình thái cơ
quan tiêu hóa cá bống cát và chỉ số RLG, có thể
dự đoán đây là loài cá dữ.
B. Phổ thức ăn cá bống cát (G. aureus)
* Thành phần thức ăn trong dạ dày theo
phương pháp tần số xuất hiện
Kết quả phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa
của cá bống cát theo phương pháp tần số xuất
hiện với 35 mẫu cá cho thấy thành phần thức
ăn của cá có 4 nhóm thức ăn: mùn bã hữu cơ
(85,71%), giáp xác (51,43%), cá (57,14%) và
thức ăn khác (28,57%) (Bảng 2). Trong đó thức
ăn khác là các loại tảo như tảo khuê, tảo lam, tảo
lục, tảo mắt.
Bảng 2: Tần số xuất hiện các loại thức ăn trong
dạ dày cá bống cát (G. aureus) (n=35)
Loại thức ăn
Số lần
xuất hiện
Tần số
xuất hiện
(%)
Mùn bã hữu cơ 30 85,71
Giáp xác 18 51,43
Cá 20 57,14
Thức ăn khác 10 28,57
* Thành phần thức ăn trong dạ dày theo
phương pháp khối lượng.
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy cá chiếm tỉ lệ cao
nhất (46,04%), kế đến là giáp xác (44,70%), mùn
bã hữu cơ (8,53%) và thấp nhất là thức ăn khác
(0,73%). Điều này cho thấy cá và giáp xác là loại
thức ăn quan trọng của cá bống cát.
Bảng 3: Thành phần thức ăn trong dạ dày theo
phương pháp khối lượng
Loại thức ăn
Khối lượng
trung bình
% Khối lượng
Mùn bã hữu cơ 0,70 8,53
Giáp xác 3,67 44,70
Cá 3,78 46,04
Thức ăn khác 0,06 0,73
* Phổ thức ăn
Thành phần thức ăn của cá bống cát (n = 35
mẫu) theo phương pháp chỉ số ưu thế (phương
pháp tần số xuất hiện kết hợp với phương pháp
khối lượng) ghi nhận được kết quả như sau: cá
và giáp xác chiếm tỉ lệ cao (46,3% và 40,46%),
mùn bã hữu cơ chiếm tỉ lệ thấp hơn (12,87%)
và thức ăn khác chiếm tỉ lệ rất thấp (0,37%)
(Bảng 4).
Bảng 4: Phổ dinh dưỡng của cá bống cát
(G. aureus) (n = 35)
Loại thức ăn
TSXH
(%)
Khối
lượng
(%)
Tích số
%
Tích số
Mùn bã hữu cơ 85,71 8,53 731,1 12,87
Giáp xác 51,43 44,70 2298,9 40,46
Cá 57,14 46,04 2630,7 46,30
Thức ăn khác 28,57 0,73 20,9 0,37
Ghi chú: Thức ăn khác gồm tảo silic, tảo lục,
tảo mắt, tảo lam và các thành phần khác.
Hình 7: Phổ thức ăn cá bống cát G. aureus
68
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Das and Moitra [10] cho rằng cá ăn động vật
sẽ có thành phần thức ăn là động vật chiếm hơn
80%. Kết hợp thành phần thức ăn, cấu tạo hệ tiêu
hóa và RLG cung cấp thông tin về tính ăn của
cá bống cát là loài cá dữ ăn động vật, chủ yếu
là cá và giáp xác, hai thành phần này chiếm tỉ lệ
khá cao (86,76%) trong thành phần thức ăn ống
tiêu hóa.
Cá bống cát (G. giuris) có thành phần thức ăn
chính là cá và giáp xác [27]–[31], điều này cho
thấy thành phần thức ăn chính của hai loài cá
bống cát (G. giuris) và cá bống cát (G. aureus)
là giống nhau. Ngoài ra, trong thành phần thức
ăn của G. giuris còn có côn trùng thủy sinh [30],
[32] và thức ăn này được phát hiện trong dạ
dày của cá con. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa
phát hiện được côn trùng trong dạ dày của cá G.
aureus, có thể do chưa phân tích được dạ dày của
cá con. Mặc dù hai loài khác nhau nhưng chúng
cùng thuộc một giống, đều là cá dữ.
Tóm lại, kết quả phân tích đặc điểm hình thái
cơ quan tiêu hóa, xác định RLG và khảo sát thành
phần thức ăn cho thấy các đặc điểm dinh dưỡng
cơ bản của cá bống cát là cá dữ, ăn động vật
(RLG < 1), thức ăn chủ yếu là cá và giáp xác.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
A. Kết luận
Cá bống cát (G. aureus) thuộc nhóm cá dữ với
thành phần thức ăn chủ yếu là cá nhỏ và giáp xác
(86,8%).
B. Đề xuất
Nghiên cứu về sự chọn lựa thức ăn của cá bống
cát, nhu cầu dinh dưỡng của cá ở các giai đoạn
khác nhau và nghiên cứu khả năng nuôi thương
phẩm loài cá này để có thể phát triển thêm đối
tượng nuôi mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Froese R, D Pauly. FishBase; World Wide Web
electronic publication; 2018. Available from:
[Accessed 28th February
2018].
[2] Trần Đắc Định, Shibukawa Koichi, Nguyễn
Thanh Phương, Hà Phước Hùng, Trần Xuân Lợi,
Mai Văn Hiếu, et al. Mô tả định loại cá ĐBSCL,
Việt Nam. McGraw-Hill, New York, USA; 2013; tr.
174. Đại học Cần Thơ.
[3] Nguyễn Minh Tuấn, Huỳnh Thị Ngọc Lành, Nguyễn
Thanh Phương, Trần Đắc Định. Một số đặc điểm sinh
học sinh sản của cá bống cát (Glossogobius aureus
Akihito & amp; Meguro, 1975) phân bố ở vùng ven
biển tỉnh Bến Tre. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ. 2014;Số chuyên đề (2014):169–176.
[4] Nguyễn Minh Tuấn. Thành phần loài và đặc điểm
sinh học của một số loài cá kinh tế của hai họ cá
bống Gobiidae và Eleotridae phân bố ở vùng ven biển
tỉnh Bến Tre [Luận án Tiến sĩ]. Trường Đại học Cần
Thơ; 2015.
[5] Akihito P, K Meguro. Description of a New Gobiid
Fish Glossogobius aureus, with Notes on Related
Species of the Genus. Japanese Journal of Ichthy-
ology. 1975;22(3):127–142.
[6] Rainboth W J. Fishes of the Cambodian Mekong;
1996;p. 256. FAO species identification field guide
for fishery purposes. FAO. Rome.
[7] Phạm Thanh Liêm, Trần Đắc Định. Giáo trình
Phương pháp nghiên cứu sinh học cá; 2004;tr. 80.
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
[8] Biswas S P. Manual of Methods in Fish Biology.
Pvt Ltd., New Delhi: South Asian Publishers; 1993;p.
157.
[9] Nikolsky G V. Ecology of fishes. London: Academic
press; 1963;p. 352.
[10] Das S M, S K Moitra. Studies on the food and feeding
habits of some freshwater fisher of India. Ichthyolog-
ical. 1963;2(1-2):107–115. Part IV. A review on the
food and feeding habits with general conclusions.
[11] Nguyễn Bạch Loan. Giáo trình Ngư loại I; 2003;tr.
91. Đại học Cần Thơ.
[12] Al-Hussainy A H. On the Functional Morphology
of the Alimentary Tract of Some Fishes in Relation
to Differences in their Feeding Habits: Anatomy and
Histology. Ichthyological. 1949;90:109–139. Part IV.
A review on the food and feeding habits with general
conclusions.
[13] Phạm Minh Thành, Nguyễn Văn Kiểm. Cơ sở khoa
học và kỹ thuật sản xuất cá giống. Nhà xuất bản
nông nghiệp; 2009; tr.216.
[14] Aarnio K, E Bonsdorff. Seasonal variation in abun-
dance and diet of the sand goby Pomatoschistus
minutus (Pallas) in a northern Baltic archipelago.
Ophelia. 1993;37(1):19–30.
[15] Evans S. Production, predation and food niche seg-
regation in a marine shallow soft-bottom community.
Mar Ecol Prog. 1983;10:147–157.
[16] Hampel H, A Cattrijsse. Temporal variation in feeding
rhythms in a tidal marsh population of the common
goby Pomatoschistus microps (Kroyer, 1838). Aquat
Sci. 2004;66:315–326.
[17] Złoch I, S Mariusz, F Monikas. Diel food ompo-
sition and changes in the diel and seasonal feeding
activity of common goby, sand goby and young
flounder inhabiting the inshore waters of the gulf of
gdan´sk, poland. Oceanological and hydrobiological
69
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
studies. Institute of oceanography, University of
Gdan´sk. 2005;34(3):69–84.
[18] Borek K W, I Złoch, S R Mariusz, F Monika,
F Karolina. Does food quality affect the conditions
of the sand and common gobies from the gulf of
gdan´sk, poland. Oceanological and hydrobiological
studies. Insstitute of oceanography, University of
Gdan´sk. 2005;34(3):39–55.
[19] Ravi V. Food and Feeding Habits of the Mud-
skipper, Boleophthalmus boddarti (Pallas, 1770)
from Pichavaram Mangroves, Southeast Coast of
India. International Journal of Marine Science.
2013;3(12):98–104.
[20] Macnae W. A general account of the fauna and
flora of angroveswamps and forests in the Indo-
West Pacific region. Advances in MarineBiology.
1968;6:73–270.
[21] Clayton D A. Mudskippers. In: Oceanography and
Marine Biology: An Annual Review. vol. 31; 1993. p.
507–577.
[22] Rathod D Sudesh, N N Patil. Feeding habits of
Boleophthalmus Dussumieri (Cuv. and Val.) from
ulhas river estuary near Thane city, Maharashtra State.
J AquaBiol. 2009;24(2):1–7.
[23] Fenchel T. The ecology of marine microbenthos. IV.
Structure and function of the benthic ecosystem, its
chemical and physical factors and the microfaunal
communities with special reference to ciliated pro-
tozoa. Ophelia. 1969;6:1–182.
[24] Heald E J, W E Odum. The contribution of the man-
grove swamps to Florida fishes, Limnol. Oceanogr.
1970;3:353–361.
[25] Võ Văn Phúc, Nguyễn Thị Phi Loan, Hồ Thị Hồng.
Về đa dạng sinh học thành phần loài cá ở đầm Ô
Loan, tỉnh Phú Yên. Kỉ yếu những vấn đề cơ bản
trong khoa học sự sống, Trường đại học Khoa học,
Đại học Huế; 2003; tr. 702-705.
[26] Komers P E. Behavioural plasticity in variable
environments. Can J Zool. 1997;75:161–169.
[27] Phạm Thị Mỹ Xuân. Một số đặc điểm sinh sản của
cá bống cát (Glossogobius giuris Hamilton, 1822) ở
Thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại
học Cần Thơ. 2013;27:161–168.
[28] Achakzai W M, S Saddozai, W A Baloch, Z Mas-
sod, H U Rehman, Musarrat-ul Ain. Food and
Feeding Habits of Glossogobius giuris (Hamilton
and Buchannan, 1822) Collected from Manchar Lake
distt. Jamshoro, Sindh, Pakistan. Global Veterinaria.
2015;14(4):613–618.
[29] Rao L M, P S Rao. Food and feeding habits of
Glossogobius giuris from Gosthani estuary. Indian
J Fish. 2002;49(1):35–40.
[30] Hora S L. Ecology and bionomics of the gobioid
fishes of Gangetic delta. Comptes Rendus. DN 12 C
Congr. Inter National de Zoologie. 1935;p. 841–863.
[31] Mookerjee H K. On the food of Glossogobius giuris
(Hamilton). Science and Culture. 1935;13:162–163.
[32] Alikunhi K H, G L Rao, P K Jacob. Bionomics
and development of Glossogobius giuris (Hamlton).
J Madras Univ. 1951;21(B):238–248.
70
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_tinh_an_va_pho_thuc_an_ca_bong_cat_glossogobius_a.pdf