Điều kiện thích hợp cho quá trình thủy phân
đầu cá ngừ vây vàng bằng enzyme Alcalase để
thu hồi dầu là: tỷ lệ nước so với nguyên liệu 0%,
tỷ lệ enzyme so với nguyên liệu 0,5%, nhiệt độ
6000C và thời gian thuỷ phân 3 giờ. Với các thông
số thích hợp này, dầu cá thu được từ sự thuỷ
phân đầu cá ngừ vây vàng đạt tiêu chuẩn chất
lượng đối với dầu cá thô theo tiêu chuẩn CODEX
Stan 210 (2005).
Dầu cá thô thu được từ đầu cá ngừ vây vàng
có thể sử dụng trong sản xuất thức ăn cho nuôi
trồng thuỷ sản. Cần tiếp tục nghiên cứu tinh chế dầu
để có thể ứng dụng trong lĩnh vực thực phẩm cho
con người.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu thu hồi dầu thô từ đầu cá ngừ vây vàng bằng phương pháp thủy phân sử dụng enzyme Alcalase, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 123
NGHIÊN CỨU THU HỒI DẦU THÔ TỪ ĐẦU CÁ NGỪ VÂY VÀNG
BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỦY PHÂN SỬ DỤNG ENZYME ALCALASE
STUDY ON RECOVERY OF CRUDE OIL FROM YELLOWFIN TUNA HEAD
BY THE ENZYMATIC HYDROLYSIS METHOD USING ALCALASE
Bùi Trường Bích Ngân1, Nguyễn Thị Mỹ Hương2
Ngày nhận bài: 26/11/2012; Ngày phản biện thông qua: 28/3/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện để xác định các thông số thích hợp cho quá trình thủy phân thu hồi dầu thô từ đầu cá ngừ
vây vàng khi sử dụng enzyme Alcalase, bao gồm: tỷ lệ nước, tỷ lệ enzyme, nhiệt độ và thời gian thủy phân. Các chỉ tiêu hoá
học của dầu cá thô thu được từ sự thủy phân đầu cá ngừ với các thông số thích hợp đã được xác định. Kết quả nghiên cứu
cho thấy điều kiện thích hợp cho quá trình thủy phân thu hồi dầu là tỉ lệ enzyme 0,5% so với nguyên liệu, ở nhiệt độ 6000C,
thời gian thủy phân trong 3 giờ và không bổ sung thêm nước. Dầu thô từ đầu cá ngừ vây vàng có chỉ số axit 3,21 mg KOH/g
và chỉ số peroxyt 2,33 meq O2/kg đạt yêu cầu chất lượng theo tiêu chuẩn CODEX Stan 210 (2005).
Từ khóa: dầu cá thô, đầu cá ngừ vây vàng, enzyme, thủy phân
ABSTRACT
The study was carried out to determine the optimal parameters of the enzymatic hydrolysis process for recovering
crude oil from yellowfi n tuna head using Alcalase, including: water ratio, enzyme ratio, hydrolysis time and temperature.
Chemical criteria of crude fi sh oil obtained from tuna head hydrolysis with the optimal parameters was determined. The
study results showed that the optimal conditions of enzymatic hydrolysis process for recovering crude oil were ratio of
enzyme to material of 0,3%, at temperature of 6000C, hydrolysis time of 3h and without adding the water. The crude oil from
yellowfi n tuna head had acid value of 3,21 mg KOH/g and peroxide value of 2,33 meq O2/kg, which met the requirements
of CODEX Stan 210 (2005).
Key words: crude fi sh oil, yellowfi n tuna head, enzyme, hydrolysis
1 Bùi Trường Bích Ngân: Cao học Công nghệ sau thu hoạch 2010 - Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Nguyễn Thị Mỹ Hương: Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá ngừ nói chung, trong đó có cá ngừ đại
dương, là nguồn lợi thủy sản quý giá, là mặt hàng
thực phẩm rất được ưa chuộng ở nhiều nước trên
thế giới. Xét về cơ cấu sản phẩm, giá trị xuất khẩu
cá ngừ chiếm 9,9% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy
sản Việt Nam. Giá trị xuất khẩu cá ngừ của nước ta
trong năm 2012 đạt 569,406 triệu USD, tăng 50,1%
so với năm 2011 (VASEP, 2013).
Theo Tạp chí Thông tin khoa học công nghệ
kinh tế thủy sản (7/2006), phế liệu trong chế biến cá
ngừ lên đến 40-60% (Lan Hương, 2006). Trong khi
đó, dầu từ đầu cá ngừ là một trong những loại dầu
cá có chứa nhiều DHA và EPA cần thiết cho cơ thể
con người. Dầu mắt cá ngừ chứa hàm lượng lipid
tổng là 22,4%, trong đó các axit béo không bão hòa
đa nối đôi (PUFA) chiếm 26,4g/100g dầu chiết xuất,
DHA chiếm 19,7g /100g và EPA 3,9g/100g và các axit
béo không bão hòa đơn (MUFA) chiếm 23,3g/100g.
Số liệu này cho thấy dầu cá ngừ là nguồn cung cấp
rất tốt PUFA và MUFA - hai chất vô cùng quan trọng
đối với sức khỏe con người (Lan Hương, 2006).
Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đang rất được quan
tâm là hiện nay các trại nuôi cá tiêu thụ tới 81%
lượng cung cấp dầu cá thế giới và dự báo cho thấy
trong vòng 10 năm tới sẽ xảy ra tình trạng thiếu dầu
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
124 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
cá (Lan Hương, 2006). Vì thế, việc tận dụng phế liệu
đầu cá ngừ đại dương ở nước ta để sản xuất ra dầu
cá là rất triển vọng, có tính bền vững, ổn định cao do
nguồn nguyên liệu dồi dào và ngày càng phát triển.
Thế nhưng, phế liệu đầu cá ngừ đại dương hiện nay
lại chỉ mới được tận dụng để sản xuất bột cá phục
vụ chăn nuôi nên hiệu quả kinh tế không cao và
gây nên một sự lãng phí dầu cá rất lớn. Vì vậy, việc
nghiên cứu thu hồi dầu từ đầu cá ngừ là hết sức
cần thiết. Có một số phương pháp khác nhau để
trích ly dầu từ phế liệu như phương pháp ép, thủy
phân bằng kiềm, bằng enzyme và tách chiết bằng
dung môi. Trong đó, phương pháp thủy phân bằng
enzyme có nhiều ưu điểm vì điều kiện thực hiện nhẹ
nhàng, nhiệt độ thấp nên hạn chế đến mức tối thiểu
sự oxy hóa các axit béo không bão hòa đa nối đôi
(PUFA), không sử dụng dung môi hữu cơ và quá
trình thủy phân tiến hành trong một khoảng thời gian
ngắn (Mbatia, 2011). Trong số các enzyme thương
mại thường được sử dụng, Alcalase là enzyme tốt
nhất để thủy phân cá hồi giải phóng dầu (Mahmoud
và cộng sự, 2008).
Mục đích của nghiên cứu này là chọn các thông
số thủy phân thích hợp cho quá trình thu hồi dầu
bằng enzyme Alcalase nhằm tận dụng phế liệu đầu
cá ngừ đại dương để sản xuất ra dầu cá phục vụ
cho chăn nuôi, tiến đến tinh chế để dùng làm thực
phẩm cho người.
II. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Nguyên vật liệu nghiên cứu
1.1. Đầu cá ngừ
Đầu cá ngừ vây vàng được thu mua từ Công
ty TNHH Thịnh Hưng - KCN Suối Dầu - Cam Lâm -
Khánh Hòa. Đầu cá ngừ sau khi mua được đựng
trong thùng xốp cách nhiệt có bảo quản nước đá,
nhiệt độ từ 0 - 40C và được vận chuyển ngay về
phòng thí nghiệm. Tiếp đó, nguyên liệu được rửa
sạch, xay nhỏ bằng máy nghiền trục vít có đường
kính mắt sàng d = 3 - 4mm, rồi được trộn đều và cho
vào mỗi túi nhựa 400g đầu cá đã xay (khối lượng
cho một mẫu thí nghiệm). Nguyên liệu sau đó được
bao gói hút chân không và bảo quản đông ở nhiệt độ
-200C cho đến khi sử dụng để tiến hành thí nghiệm.
1.2. Enzyme
Chế phẩm enzyme Alcalase thương mại sử
dụng thuộc hãng Novozymes (Denmark). Đây là
enzyme endoprotease có nguồn gốc từ vi khuẩn
Bacillus lichenformis. Hoạt độ của Alcalase là 2,4
AU/g. Điều kiện hoạt động tối ưu của enzyme
Alcalase là nhiệt độ từ 55 - 7000C, pH từ 6,5 - 8,5.
Alcalase được bảo quản ở nhiệt độ lạnh 3 - 400C
cho đến khi sử dụng để tiến hành thí nghiệm.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Sự thủy phân đầu cá ngừ
Đầu cá ngừ xay nhỏ ở trạng thái đông lạnh
được đem rã đông sau đó thủy phân bằng enzyme
Alcalase ở pH tự nhiên (pH xấp xỉ 6,5) với tỷ lệ
nước, tỷ lệ enzyme, nhiệt độ và thời gian nhất định.
Các thí nghiệm được bố trí như sau:
Để xác định tỷ lệ nước thích hợp cho việc thu hồi
dầu, tiến hành thuỷ phân 5 mẫu đầu cá ngừ với các
thông số cố định sau: tỷ lệ enzyme là 0,5% so với
nguyên liệu, nhiệt độ thủy phân 600C, pH tự nhiên,
thời gian thủy phân 2 giờ. Tỷ lệ nước so với nguyên
liệu ở 5 mẫu là 0%, 25%, 50%, 75% và 100%. Sau
khi kết thúc quá trình thủy phân, enzyme được ức
chế ở 900C trong 15 phút. Hỗn hợp thủy phân thu
được cho qua rây để tách riêng phần rắn (xương)
và phần dịch lọc. Phần dịch lọc thủy phân này được
ly tâm bằng máy ly tâm lạnh với tốc độ 10.000 vòng/
phút trong 30 phút. Sau khi ly tâm, hồn hợp phân
thành 4 lớp: lớp trên cùng là dầu cá thô, tiếp theo
là lớp nhũ tương, lớp giữa là dịch thủy phân và lớp
ở đáy là cặn ly tâm. Chế phẩm dầu thô ở trên cùng
được thu hồi, sau đó đem xác định hàm lượng lipid
trong chế phẩm dầu thô này, chỉ số axit và chỉ số
peroxyt. Từ đó chọn tỉ lệ nước thích hợp.
Sau khi xác định được tỷ lệ nước thích hợp, cố
định thông số này và tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng
của tỷ lệ enzyme. Tiến hành thí nghiệm 5 mẫu với
các thông số cố định sau: tỷ lệ nước thích hợp đã
xác định được ở thí nghiệm trước, nhiệt độ 600C, pH
tự nhiên, thời gian thủy phân 2 giờ. Tỷ lệ enzyme so
với nguyên liệu ở 5 mẫu là 0,1%, 0,3%, 0,5%, 0,7%
và 0,9% (v/w). Sau khi kết thúc quá trình thủy phân,
tiến hành các bước tương tự như trên, từ đó chọn tỷ
lệ enzyme thích hợp.
Sau khi xác định được tỉ lệ thích hợp, cố định
thông số này và tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng
của nhiệt độ thủy phân. Tiến hành thí nghiệm 5
mẫu với các thông số cố định sau: tỷ lệ nước và
tỷ lệ enzyme thích hợp đã xác định được ở 2 thí
nghiệm trước, pH tự nhiên, thời gian thủy phân
2 giờ. Nhiệt độ ở 5 mẫu là 5000C, 5500C, 6000C,
6500C và 7000C. Sau khi kết thúc quá trình thủy
phân, tiến hành các bước tương tự như trên, từ đó
chọn nhiệt độ thích hợp.
Sau khi xác định được nhiệt độ thích hợp, cố
định thông số này và tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng
của thời gian thủy phân. Tiến hành thí nghiệm 5
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 125
mẫu với các thông số cố định sau: tỷ lệ nước, tỷ lệ
enzyme và nhiệt độ thích hợp đã xác định được ở 3
thí nghiệm trước, pH tự nhiên. Thời gian thủy phân
ở 5 mẫu là 0,5 giờ, 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ và 4 giờ. Sau
khi kết thúc quá trình thuỷ phân, tiến hành các bước
tương tự như trên, từ đó chọn thời gian thuỷ phân
thích hợp.
2.2. Các phương pháp phân tích
Phân tích các thành phần hóa học cơ bản của
nguyên liệu: độ ẩm theo AOAC 950.46 (2000), hàm
lượng tro theo AOAC 923.03 (2000), hàm lượng nitơ
tổng số và protein thô theo AOAC 987.04 (2000),
hàm lượng lipid được xác định theo phương pháp
Folch (1957).
Phân tích các chỉ tiêu chất lượng của dầu:
Độ ẩm theo AOCS Ca 2b - 38 (1998), hàm lượng
axit béo tự do và chỉ số axit theo AOCS Ca 5a - 40
(1998), chỉ số peroxyt theo AOCS Cd 8b - 90 (1998),
chỉ số iod theo AOCS Cd 1d - 92 (1998), chỉ số xà
phòng hóa theo AOCS Cd 3c - 91 (1998).
Hiệu suất thu hồi lipid trong chế phẩm dầu thô
được tính theo công thức:
H (%) =
Lượng chế phẩm dầu thô thu được (g) . Hàm lượng lipid trong chế phẩm (%) . 100
Lượng nguyên liệu đem thủy phân (g) . Hàm lượng lipid trong nguyên liệu (%)
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê trên phần mềm
SPSS 15.0 (Statistical Package for the Social
Sciences). Việc kiểm định sự khác biệt giữa các giá
trị trung bình được phân tích bằng ANOVA với phép
kiểm định Duncan. Sự khác biệt được đánh giá có ý
nghĩa khi P<0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Thành phần hóa học cơ bản của đầu cá ngừ
vây vàng
Sau 3 lần phân tích, mỗi lần 3 mẫu nguyên
liệu, ta thu được kết quả về thành phần hóa học
cơ bản của đầu cá ngừ vây vàng như sau: độ ẩm
63,61%, hàm lượng tro 5,66%, protein 17,65% và
lipid 12,34%. Kết quả phân tích cho thấy ngoài hàm
lượng protein cao (17,65%), đầu cá ngừ cũng có
hàm lượng lipid cao (12,34%) vì vậy cần tận dụng
đầu cá ngừ để thu hồi dầu. Có thể thấy, hàm lượng
lipid của đầu cá ngừ vây cao hơn so với cá ngừ ồ
(8,2%) (Aberoumand, 2010), cá ngừ chấm (7,01%)
(Khoddami và cộng sự, 2012).
2. Xác định các thông số thích hợp cho quá trình
thủy phân đầu cá ngừ thu hồi dầu
2.1 Xác định tỷ lệ nước thích hợp
Ảnh hưởng của tỷ lệ nước đến hiệu suất thu hồi
lipid, chỉ số axit (AV) và chỉ số peroxyt (PV) của dầu
cá được thể hiện ở hình 1.
Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình thủy
phân bằng enzyme Alcalase không bổ sung nước
đem lại hiệu suất thu hồi lipid cao nhất (72,65%). Khi
càng tăng tỷ lệ nước lên 25-100% thì hiệu suất thu
hồi lipid lại giảm. Kết quả này tương tự với kết quả
nghiên cứu của Slizyté và cộng sự (2005), Mbatia
và cộng sự (2010). Sự giảm hiệu suất thu hồi lipid
khi tăng tỷ lệ nước có thể do sự hình thành nhũ
tương (Slizyté và cộng sự, 2005; Mbatia và cộng
sự, 2010).
Hình 1. Ảnh hưởng của tỷ lệ nước đến hiệu suất thu hồi lipid (A), chỉ số axit (B)
và chỉ số peroxyt (C) của dầu cá
Giá trị được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05)
Đối với chỉ số axit, kết quả nghiên cứu cho thấy
khi tăng tỷ lệ nước bổ sung trong khi thuỷ phân đầu
cá ngừ thì chỉ số axit của dầu thu được có xu hướng
tăng dần nhưng không rõ rệt, từ 3,14 đến 3,54mg
KOH/g. Chỉ số axit của các mẫu dầu với tỷ lệ nước
bổ sung 0%, 25%, 50% không có sự khác nhau có ý
nghĩa. Chỉ số axit của mẫu ứng với tỷ lệ nước 100%
cao hơn so với các mẫu có tỷ lệ nước 0%, 25% và
50%, nhưng không khác nhau có ý nghĩa so với mẫu
có tỷ lệ nước 75%. Một số công trình nghiên cứu
khác cho thấy chỉ số axit của dầu cá ngừ ồ là 4,28mg
KOH/g (Aberoumand, 2010), chỉ số axit của dầu cá
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
126 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
ngừ chấm là 8,12mg KOH/g (Khoddami và cộng sự,
2012). Sự khác nhau về chỉ số axit này có thể là do
phương pháp và điều kiện tách chiết dầu khác nhau.
Phương pháp ép cùng với điều kiện tách chiết tiến
hành ở nhiệt độ cao thúc đẩy quá trình thủy phân
dầu, dẫn đến dầu thu được có chỉ số axit cao hơn.
Đối với chỉ số peroxyt của dầu cá, kết quả
nghiên cứu cho thấy khi tỷ lệ nước tăng từ 25% đến
100% thì chỉ số peroxyt của dầu thu được cũng có
xu hướng tăng lên từ 2,07 đến 2,64 meq O2/kg. Tuy
nhiên sự khác biệt của chỉ số này giữa các mẫu thí
nghiệm là tương đối nhỏ. Chỉ số peroxyt của mẫu
ứng với tỷ lệ nước 100% cao hơn so với các mẫu
có tỷ lệ nước 0%, 25% nhưng không khác nhau có ý
nghĩa so với mẫu có tỷ lệ nước 50% và 75%.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy việc không bổ
sung nước khi thuỷ phân cho hiệu suất thu hồi lipid
cao nhất, vì vậy chọn tỷ lệ nước thích hợp cho quá
trình thu hồi dầu là 0%.
2.2. Xác định tỷ lệ enzyme so với nguyên liệu thích hợp
Ảnh hưởng của tỷ lệ enzyme đến hiệu suất thu
hồi lipid, chỉ số axit và chỉ số peroxyt của dầu cá
được thể hiện ở hình 2.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi tăng tỷ lệ
enzyme từ 0,1% đến 0,5% thì hiệu suất thu hồi lipid
tăng lên. Tuy nhiên, khi tiếp tục tăng tỷ lệ enzyme
lên 0,7 và 0,9% thì hiệu suất thu hồi lipid không
tăng lên mà lại giảm xuống. Kết quả này tương tự
như nghiên cứu của Mbatia và cộng sự (2010). Sự
tăng tỷ lệ enzyme có thể dẫn đến việc tăng quá
trình thủy phân, nhưng điều này không luôn luôn
dẫn đến việc tăng hiệu suất thu hồi lipid. Điều này
có thể là do sau khi thủy phân lượng peptide hình
thành càng nhiều, lúc này lượng lipid bị giữ lại
trong lớp nhũ tương càng lớn và khả năng ổn định
của lớp nhũ tương này càng cao (Slizyté và cộng
sự, 2005).
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ enzyme
không ảnh hưởng đáng kể đến chỉ số axit và chỉ
số peroxyt của dầu thu hồi. Chỉ số axit của 5 mẫu
dầu với tỷ lệ enzyme khác nhau trong khoảng 3,17 -
3,23mg KOH/g. Chỉ số peroxyt của 5 mẫu dầu trong
khoảng 2,08 - 2,14 meq O2/kg.
Từ nghiên cứu cho thấy với tỷ lệ enzyme 0,5%
cho hiệu suất thu hồi lipid cao nhất, nên chọn tỷ lệ
enzyme 0,5% là thích hợp.
Hình 2. Ảnh hưởng của tỷ lệ enzyme đến hiệu suất thu hồi lipid (A), chỉ số axit (B)
và chỉ số peroxyt (C) của dầu cá
Giá trị được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05)
2.3. Xác định nhiệt độ thủy phân thích hợp
Từ kết quả hình 3 cho thấy trong khoảng nhiệt
độ từ 50 - 6000C, hiệu suất thu hồi lipid tăng lên.
Ở nhiệt độ 6000C, hiệu suất thu hồi lipid cao nhất
(72,51%). Tuy nhiên, khi tiếp tục tăng nhiệt độ thủy
phân lên 6500C và 7000C thì hiệu suất thu hồi lipid
lại không tăng nữa. Không có sự khác nhau có ý
nghĩa về hiệu suất thu hồi lipid giữa các mẫu thủy
phân ở nhiệt độ 60, 65 và 7000C.
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi nhiệt độ thủy
phân càng cao thì chỉ số axit và chỉ số peroxyt của
dầu cá thu được càng tăng. Khi nhiệt độ thủy phân
tăng từ 5000C đến 7000C thì chỉ số axit của dầu cá
tăng từ 2,98 đến 3,41 mg KOH/g, chỉ số peroxyt từ
1,86 đến 2,48 meq O2/kg. Điều này là do nhiệt độ
cao làm tăng nhanh quá trình thủy phân và oxy hóa
dầu dẫn đến làm tăng chỉ số axit và chỉ số peroxyt.
Dầu tách chiết ở nhiệt độ thấp luôn có chỉ số axit
thấp hơn vì sự thủy phân các liên kết ester của
triglyceride được giảm xuống so với các quá trình
tách chiết ở nhiệt độ cao (Chantachum và cộng sự,
2000). Mức độ thủy phân dầu tăng lên khi tăng nhiệt
độ, dẫn đến lượng axit béo tự do tạo thành nhiều,
làm tăng nhanh quá trình oxy hóa.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 127
Từ kết quả phân tích ở trên chọn nhiệt độ thủy
phân thích hợp cho việc thu hồi dầu là 6000C.
2.4. Xác định thời gian thủy phân thích hợp
Ảnh hưởng của thời gian thuỷ phân đến hiệu
suất thu hồi lipid, chỉ số axit (AV) và chỉ số peroxyt
(PV) của dầu cá được thể hiện ở hình 4.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, thời gian thủy
phân có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất thu hồi
lipid. Khi kéo dài thời gian thủy phân từ 0,5 giờ lên
3 giờ thì hiệu suất thu hồi lipid tăng lên đáng kể (từ
49,92% đến 76,03%). Nếu tiếp tục kéo dài thời gian
thủy phân lên 4 giờ thì hiệu suất thu hồi lipid lại có xu
hướng giảm đi. Kết quả này tương tự như kết quả
nghiên cứu của Mbatia và cộng sự (2010), việc kéo
dài thời gian thủy phân (4 - 14 giờ) không làm tăng
mà còn làm giảm lượng dầu thu được. Điều này có
thể được giải thích như sau: Khi lượng dầu trong
nguyên liệu đã được giải phóng ra gần như triệt để
mà thời gian thủy phân vẫn kéo dài, thì lúc này có
thể xảy ra sự tương tác giữa lipid được giải phóng
với protein đã được thuỷ phân, dẫn đến lượng dầu
thu được ít hơn (Mbatia và cộng sự, 2010).
Hình 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ thuỷ phân đến hiệu suất thu hồi lipid (A), chỉ số axit (B)
và chỉ số peroxyt (C) của dầu cá
Giá trị được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
Hình 4. Ảnh hưởng của thời gian thuỷ phân đến hiệu suất thu hồi lipid (A), chỉ số axit (B)
và chỉ số peroxyt (C) của dầu cá
Giá trị được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05)
Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ số axit của dầu
cá ở 5 mẫu không có sự khác nhau có ý nghĩa về
mặt thống kê. Đối với chỉ số peroxyt, có thể thấy
rằng trong khoảng thời gian thủy phân từ 0,5 giờ
đến 3 giờ, chỉ số peroxyt của dầu cá thu được không
có sự khác nhau có ý nghĩa. Khi kéo dài thời gian
thủy phân đến 4 giờ thì chỉ số peroxyt tăng lên do
quá trình oxy hóa diễn ra nhiều hơn. Từ kết quả
nghiên cứu cho thấy hiệu suất thu hồi dầu cao nhất
khi thời gian thuỷ phân là 3 giờ. Do đó chọn thời
gian thủy phân thích hợp là 3 giờ.
3. Chỉ tiêu hoá học của dầu cá thô thu được từ
đầu cá ngừ vây vàng
Thuỷ phân đầu cá ngừ vây vàng bằng enzyme
Alcalase với các thông số thích hợp đã chọn: tỷ lệ
nước so với nguyên liệu 0%, tỷ lệ enzyme so với
nguyên liệu 0,5%, nhiệt độ 6000C và thời gian 3 giờ.
Dầu cá ngừ thô thu được đem phân tích một số
chỉ tiêu hóa học. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1. Chỉ tiêu hoá học của dầu cá thô từ đầu
ngừ vây vàng
Chỉ tiêu hoá học Hàm lượng
Hàm lượng nước 0,12%
Hàm lượng các axit béo tự do 1,61%
Chỉ số iod 178,2 g I2/100g
Chỉ số xà phòng 186,89 mg KOH/g
Chỉ số axit 3,21 mg KOH/g
Chỉ số peroxyt 2,33 meqO2/kg
Kết quả nghiên cứu cho thấy dầu đầu cá ngừ có
hàm lượng nước thấp (0,11%), hàm lượng các axit
béo tự do 1,63%, giá trị này nằm trong khoảng từ
1 - 7% theo Bimbo (1998). Chỉ số iot và chỉ số xà
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
128 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
phòng lần lượt là 178,2g I2/100g và 186,89 mg
KOH/g. Chỉ số axit của dầu đầu cá ngừ là 3,21
mg KOH/g, thấp hơn so với giới hạn 4 mg KOH/g
đối với dầu thô theo tiêu chuẩn CODEX Stan 210
(2005). Chỉ số peroxyt của dầu đầu cá ngừ là 2,33
meq O2/kg, cũng thấp hơn so với giới hạn 15 meq
O2/kg đối với dầu thô theo tiêu chuẩn CODEX Stan
210 (2005).
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Điều kiện thích hợp cho quá trình thủy phân
đầu cá ngừ vây vàng bằng enzyme Alcalase để
thu hồi dầu là: tỷ lệ nước so với nguyên liệu 0%,
tỷ lệ enzyme so với nguyên liệu 0,5%, nhiệt độ
6000C và thời gian thuỷ phân 3 giờ. Với các thông
số thích hợp này, dầu cá thu được từ sự thuỷ
phân đầu cá ngừ vây vàng đạt tiêu chuẩn chất
lượng đối với dầu cá thô theo tiêu chuẩn CODEX
Stan 210 (2005).
Dầu cá thô thu được từ đầu cá ngừ vây vàng
có thể sử dụng trong sản xuất thức ăn cho nuôi
trồng thuỷ sản. Cần tiếp tục nghiên cứu tinh chế dầu
để có thể ứng dụng trong lĩnh vực thực phẩm cho
con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lan Hương, 2006. Phế liệu trong chế biến cá ngừ - nguồn tài nguyên chưa được tận dụng. Thông tin khoa học công nghệ -
Kinh tế thủy sản 7/2006, 26 - 28.
2. VASEP, 2013. Xuất khẩu cá ngừ năm 2012. Bản tin TMTS Số 03 - 2013, 20.
Tiếng Anh
3. Aberoumand, A., 2010. Identifi cation and Quantifi cation of Some Iranian Fishes Oils Properties. World Journal of Fish and
Marine Sciences 2 (2): 78-81.
4. AOAC, 2000. Offi cial Methods of analysis. 17th ed. Gaithersberg, Md.: AOAC International.
5. AOCS, 1998. Offi cial methods and recommended practices of American Oil Chemist’s Society. In. Firestone, D. (Ed.), fi fth
ed., Champaign, III.
6. Bimbo, A. P., 1998. Guidelines for characterizing food-grade fi sh oils, Inform 9, 473-483.
7. Chantachum, S., Benjakul, S., Sriwirat, N., 2000. Separation and quality of fi sh oil from precooked and non - precooked tuna
heads. Food Chemistry 69, 289-294.
8. Codex Alimentarius Commission, 2005. CODEX Standard for named vegetable oils, CODEX Stan 210, fats, oils and related
products. Food and Agriculture Organisation of the United Nations, Rome, Italy.
9. Folch, J., Lees, N., Sloane-Stanley, G. H., 1957. A simple method for the isolation and purifi cation of total lipids from animal
tissues. J. Biol. Chem. 226 (1957): 497-509.
10. Khoddami, A., Ariffi n, A. A., Bakar, J., and Ghazali, H. M., 2012. Quality and fatty acid profi le of the oil extracted from fi sh
waste (head, intestine and liver) (Euthynnus afi nis), African Journal of Biotechnology Vol. 11(7), 1683-1689.
11. 11. Mahmoud, A.K., Linder, M., Fanni, J., Parmentier, M., 2008. Charaterisation of the lipid fractions obtained by proteolytic
and chemical extractions from rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) roe, Process Biochemistry 43, 376-383.
12. 12. Mbatia, B., Adlercreutz, D., Adlercreutz, P., Mahadhy, A., 2010. Enzymatic oil extraction and positional analysis of w-3
fatty acids in Nile perch and salmon heads. Process Biochemistry 45, 815-819.
13. 13. Slizyté, R., Dauksas, E., Falch, E., Rustad, T., Storro, I., 2005. Yield and composition of different fractions obtained after
enzymatic hydrolysis of cod (Gardus morhua) by-products. Process Biochemistry, 40, 1415-1424.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_thu_hoi_dau_tho_tu_dau_ca_ngu_vay_vang_bang_phuon.pdf