Thứ nhất, khi sử dụng rong Câu Chỉ trong xử lý đầu cuối của nước thải chế biến
thủy sản nhiễm mặn, độ mặn thích hợp nhất cho rong phát triển là 10‰. Ở độ mặn
thấp hơn 10‰, rong không phát triển. Độ mặn trên 10‰, khả năng xử lý các thành
phần ô nhiễm trong nước thải kém ổn định.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (Gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối nước thải nhiễm mặn và thu hồi sinh khối rong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
32
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG RONG CÂU CHỈ (Gracilatia tenuistipitata) XỬ LÝ
ĐẦU CUỐI NƢỚC THẢI NHIỄM MẶN VÀ THU HỒI SINH KHỐI RONG
Lê Hùng Anh
*
,
Nguyễn Thị Ngọc Bích**
TÓM TẮT
Rong Câu Chỉ (Gracilatia tenuistipitata) là loài rong biển phổ biến ở các vùng ven biển
Việt Nam, có giá trị sử dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế. Rong Câu Chỉ hấp thụ nhanh các
nguồn dinh dưỡng trong nước nhiễm mặn. Nghiên cứu đã sử dụng rong Câu Chỉ xử lý đầu cuối
thành phần N và P của nước thải chế biến thủy sản đồng thời thu được sinh khối rong để cung
cấp cho một số ngành chế biến khác. Rong Câu Chỉ có thể xử lý nước nhiễm mặn tối ưu ở nồng
độ 10‰ và đạt mức độ tăng trưởng sinh khối 10,22%/ngày.
Từ khóa: Gracilatia tenuistipitata, xử lý nước thải nhiễm mặn, sinh khối rong Câu.
USING GRACILATIA TENUISTIPITATA FOR TREATMENT OF SALINED
WASTE WATER AND PRODUCTION OF ALGAE BIOMASS
ABSTRACT
Gracilatia tenuistipitata is a common species of seaweed in coastal areas of Vietnam, with
values used in many economic sectors. They rapid absorption of nutrients in salined water and
contribute to improve, enhance environmental quality of polluted water caused by N and P.
Gracilatia tenuistipitata was used for treatment of seafood processing wastewater and
production of biomass for other processing industries. Gracilatia tenuistipitata can handle
salinity water optimum at a concentration of 10 ‰ and growth reached 10.22% biomass / day.
Keywords: Gracilatia tenuistipitata, salined waste water treatment, biomass of seaweed.
1. GIỚI THIỆU
Trên thế giới đã có một số công trình
nghiên cứu về việc sử dụng rong Câu trong xử
lý môi trường nước. So sánh kết quả nghiên
cứu của năm 1996 [1] và năm 2004 [2], Neori
và cộng sự đã đưa ra bằng chứng từ công trình
của mình rằng phương pháp sinh học xử lý
nước thải trong nuôi trồng thủy sản bằng tảo
phù du, vi sinh không cho hiệu quả kinh tế
cao, do hệ thống xử lý bằng vi sinh chỉ có
nhiệm vụ chuyển hoá đạm amôn thành dạng
nitrogen ít độc hơn hoặc nitrat, bằng quá trình
nitrat hoá mà không lấy dinh dưỡng ra khỏi
môi trường nước và chỉ dưới điều kiện kỵ khí
các vi khuẩn mới chuyển nitrat thành khí N2
giải phóng khỏi hệ thống (Neori et al., 1996)
và hệ thống xử lý bằng tảo tốn nhiều chi phí
khi lọc lấy tảo ra khỏi môi trường. Tuy nhiên,
khi thay các đối tượng tảo phù du hay vi sinh
vật bằng rong biển cho thấy tính kinh tế tốt
hơn, không những cho môi trường mà còn tăng
thêm lợi nhuận từ việc thu sinh khối rong biển
(Lobban and Harrison, 1994; Carmona et al.,
2001; Noeri,1996; Chopin and Wagey, 1999).
Ở Việt Nam, rong Câu bắt đầu được
nghiên cứu ứng dụng trong xử lý nước thải với
các đề tài của tác giả Ngô Quốc Bưu và cộng
sự (2000), Võ Duy Sơn và cộng sự (2004),
Nguyễn Hữu Khánh và các cộng sự (2005), Lê
Như Hậu (2006). Kết quả cho thấy rong Câu
có khả năng hấp thụ mạnh các muối dinh
dưỡng (N, P) trong nước thải ưu dưỡng, làm
*
Trường Đại học Công nghiệp TPHCM
Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ TPHCM
Tạp chí Đại học Công nghiệp
33
sạch nước và gia tăng chất lượng môi trường
nước. Tuy nhiên, các tác giả chưa quan tâm
đến vấn đề hàm lượng dinh dưỡng (N, P) còn
lại sau khi xử lý cũng như độ mặn của nước
thải chế biến thuỷ sản đầu vào cho thí nghiệm.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Vật liệu
- Rong Câu Chỉ (RCCh) (Gracilatia
tenuistipitata) được thu từ các ao nuôi ở
Khánh Hòa - Nha Trang và được nuôi ổn định
ở ba độ mặn 15‰, 10‰, 5‰ với nhiệt độ tự
nhiên theo ngày (khoảng 25oC - 28oC) trong
hai ngày rồi bố trí thí nghiệm (theo Lê Như
Hậu, 2006).
- Thùng xốp có kích thước lọt lòng: (Dài
x rộng x cao) 34,5 x 25,0 x 29,0 (cm).
- Bơm sục khí Trung Quốc hiệu ACO-
006, công suất 80W với lưu lượng đầu ra
88L/phút.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu mẫu nước thải: Với
mô hình thùng xốp, dùng lọ nhựa dung tích
200 ml, ban đầu úp ngược và nhấn xuống gần
đáy rồi từ từ xoay lọ lại để lấy mẫu phân tích.
Với mô hình pilot, dùng chai nhựa dung tích
500 ml lấy mẫu ở đầu ra của pilot.
- Đo độ mặn: Sử dụng khúc xạ kế (SA-
100, Singapore). Đo 2 lần/ngày vào đầu buổi
sáng ( lúc 7g) và cuối buổi chiều (lúc 4g30).
- Đo nhiệt độ và oxy hòa tan (DO): Sử
dụng máy đo DO cầm tay (HACH - SensION
6). Đo 2 lần/ngày và thực hiện song song với
đo độ mặn.
- Đo pH: Sử dụng máy đo pH để bàn
(Sartorius PY-P12, Đức). Đo 1 lần/ngày vào
10g sáng.
- Phân tích chỉ tiêu nhu cầu oxy hóa học
(COD): Xác định theo phương pháp TCVN
6491:1999.
- Phân tích chỉ tiêu nhu cầu oxy sinh hóa
(BOD): Xác định theo phương pháp SMEWW
5210 B: 2005 cho mô hình pilot. Đối với mô
hình thùng xốp, tiến hành theo phương pháp
nhân với hệ số 0,68 với lượng COD xác định
được ở mỗi thùng thí nghiệm.
- Phân tích amoni (N-NH4
+
): Áp dụng
phương pháp Nessler hóa trực tiếp. Amoni tác
dụng với thuốc thử Nessler trong môi trường
kiềm, sản phẩm có màu vàng được so màu ở
bước sóng λ = 430 nm bằng máy đo quang
phổ kế (Thermo Scientific, Senesys 20). Mẫu
nước được thêm NaOH và ZnSO4 để kết tủa
cặn và được lọc qua giấy lọc thủy tinh trước
khi thêm Nessler.
- Phân tích nitrat (N-NO3
+
): Phản ứng
giữa nitrat và brucine cho sản phẩm màu vàng
được áp dụng để xác định hàm lượng nitrat
bằng phương pháp so màu ở nước sóng λ =
410 nm bằng máy đo quang phổ kế (Thermo
Scientific, Senesys 20).
- Phân tích phosphat (PO4
3-
) trong nước:
Phosphat phản ứng với ammonium molybdate
để giải phóng axit molybdophosphoric, sau đó
axit này bị khử bởi SnCl2 cho molybdenum
màu xanh dương. Để tĩnh sau 10 phút (không
quá 12 phút) đo độ hấp thu bằng máy quang
phổ kế (Thermo Scientific, Senesys 20) ở
bước sóng λ = 690 nm.
- Xác định chất rắn lơ lửng (SS): Phương
pháp so màu quang phổ trên máy quang phổ
kế (Thermo Scientific, Senesys 20). Đo mẫu ở
chương trình 630 với bước sóng 810 nm sau
khi đã chuẩn zero bằng nước cất.
- Hàm lượng Nitơ tổng trong nước: xác
định theo phương pháp TCVN 5987-95 (phân
tích tại Trung tâm Sắc Ký Hải Đăng, do Hồ
Lương Thưởng thực hiện).
- Xác định hàm lượng các chất trong
rong câu được phân tích tại Trung tâm Sắc Ký
Hải Đăng, do Hồ Lương Thưởng thực hiện.
Cụ thể gồm các hàm lượng sau: hàm lượng
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
34
Nitơ tổng theo TCVN 8557 - 2010, hàm lượng
Photpho theo TCVN 8563 - 2010, hàm lượng
Kali theo TCVN 8562 - 2010, hàm lượng
Protein theo FAO 14/7 - 1986, hàm lượng chất
hữu cơ theo Ref AOAC 967.05.
Tính toán tốc độ hấp thụ chất dinh
dưỡng của rong
T (gam rong tƣơi/ngày) =
(CĐC – CR)/(m.t)
Trong đó: m : Lượng rong trong thùng thí
nghiệm (gam rong tươi/l)
t : Thời gian thí nghiệm (ngày)
CĐC : Hàm lượng chất dinh dưỡng ở
thùng đối chứng (mg/l N hoặc P)
CR : Hàm lượng chất dinh dưỡng ở
thùng có rong (mg/l N hoặc P)
Xác định tốc độ tăng trƣởng của rong
theo công thức Penniman et al (1986):
Trong đó: SGR : Tốc độ tăng trọng
tương đối ngày (%/ngày)
Wo : Trọng lượng ban đầu (gam).
Wt : Trọng lượng sau thời gian t
ngày (gam).
t : Thời gian giữa hai lần cân (ngày).
2.1 Khảo sát ảnh hƣởng của độ mặn
đến sự ổn định rong (Thí nghiệm 1)
Cách bố trí mô hình thí nghiệm: nước
thải chế biến thuỷ sản sau xử lý sinh học được
bổ sung muối hột để đạt các độ mặn lần lượt
là: 5‰, 10‰ và 15‰. Mỗi độ mặn bố trí ba
mẫu (1 mẫu đối chứng không thả rong và 2
mẫu có thả rong Câu Chỉ).
Điều kiện thí nghiệm
- Vị trí đặt mô hình: dưới mái hiên
phòng thí nghiệm để che chắn nắng buổi trưa,
chiều cao từ mái hiên xuống thềm hiên là 3 m.
Chiều cao cột nước trong mỗi thùng xốp: 28
cm.
- Nước thải được lọc qua hai lớp vải
thun để giảm bớt lượng cặn trước khi đưa vào
thùng xốp thí nghiệm.
- Sục khí vào ban ngày cho tất cả các
thùng nghiên cứu với thời gian từ 6 đến 7 giờ
mỗi ngày.
- Thí nghiệm lặp lại ba lần và lấy số liệu
trung bình. Thực hiệ ục
trong thời gian 7 ngày.
- Tiến hành lấy mẫu phân tích mỗi ngày/
lần vào khoảng 7g30 đến 8g sáng, đồng thời
quan sát sự thay đổi của mẫu nước và sự ổn
định của rong ở ba độ mặn nghiên cứu.
- Mật độ rong: 100g/thùng, tương ứng 5
kg rong/1 m
3
nước thải.
- Sự thay đổi các chất ô nhiễm (COD,
BOD, N tổng, N-NH4
+
, N-NO3
-
, P-PO4
3-
)
trong nước thải chế biến thuỷ sản ở các mức
độ mặn khác nhau được đo và xác định song
song mỗi ngày kể từ ngày bắt đầu thí nghiệm
đến ngày cuối của thí nghiệm ở tất cả các
thùng có rong và không rong.
2.2 Khảo sát mức độ giảm chất ô
nhiễm và khả năng thu hồi sinh khối rong
theo thời gian
a. Mô hình thùng xốp (Thí nghiệm 2)
Cách bố trí mô hình thí nghiệm: Nước
thải chế biến thuỷ sản sau được bổ sung
muối hột để đạt độ mặn 10‰. Tiến hành bố trí
ba lô thí nghiệm: lô A được sục khí ban ngày,
lô B được sục khí ban đêm và lô C không
được sục khí. M i lô gồm ba mẫu (1 mẫu đối
chứng không thả rong và 2 mẫu thả rong Câu
Chỉ).
Điều kiện thí nghiệm
- Công thức độ mặn tiếp tục nghiên cứu
được lựa chọn từ thí nghiệm 1.
Tạp chí Đại học Công nghiệp
35
- Các điều kiện thực hiện thí nghiệm 2
tương tự như thí nghiệm 1. Riêng điều kiện
sục khí có thay đổi là 10 – 12 giờ/ngày.
b. Mô hình động – Mô hình pilot (Thí
nghiệm 3)
Cách bố trí mô hình thí nghiệm:
Hình 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm pilot
Điều kiện thí nghiệm
- Công thức độ mặn tiếp tục nghiên cứu
được lựa chọn từ thí nghiệm 2.
- Vị trí đặt mô hình: Trước sân phòng thí
nghiệm có nhiều ánh sáng và có bố trí lưới che
chắn để giảm bớt ánh nắng lúc trưa.
- Nước thải cũng được lọc qua hai lớp
vải thun để giảm bớt lượng cặn trước khi đưa
vào thí nghiệm. Thời gian thí nghiệm từ 7 đến
10 ngày.
- Tốc độ dòng chảy vào các lô thí
nghiệm được chọn lựa lần lượt như sau: q1 =
47 ml/phút; q2 = 94 ml/phút; q3 = 141 ml/phút;
q4 = 188 ml/phút.
- Mật độ rong và các chỉ tiêu thí nghiệm
tương tự thí nghiệm 1 và 2.
- Lấy mẫu phân tích mỗi ngày/ lần vào
khoảng 11g đến 13g trưa, đồng thời quan sát
sự thay đổi của mẫu nước, đánh giá khả năng
thu hồi sinh khối rong, đánh giá tốc độ hấp thụ
dinh dưỡng và tốc độ tăng trưởng tương đối
ngày của rong sau khi kết thúc đợt thí nghiệm.
2.3 Khả năng thu hồi và sử dụng sinh
khối rong câu (Thí nghiệm 4)
Dựa vào các thí nghiệm trên và khảo sát
sự tăng trưởng của rong cũng như sự thay đổi
thành phần các dinh dưỡng của rong theo thời
gian thí nghiệm. Đánh giá số lượng và chất
lượng rong thu hồi trong thí nghiệm 3, từ đó
đề xuất hướng ứng dụng rong từ quá trình nuôi
rong trong nước thải chế biến thuỷ sản cho các
ngành công nghiệp sử dụng rong làm nguyên
liệu.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của độ mặn đến sự ổn
định rong (Thí nghiệm 1)
Theo quan sát, sau hai ngày thí nghiệm,
nước ở các thùng có rong trong hơn nước ở
các thùng đối chứng. Đến ngày thứ 5, rong ở
thùng có độ mặn 5‰ bắt đầu chết dần, có sự
phát triển của loài tảo xanh nước ngọt, nước
đục trở lại và có mùi hôi tanh. Độ mặn 15‰,
rong có xu hướng cứng cáp nhất, thân rong to
tròn hơn thùng có độ mặn 10‰. Ở hai độ mặn
này nước trong, không có tảo phù du, rong có
màu nâu sậm so với màu sắc ban đầu (màu
A B C D
1A 2B 3C 4D
Xả nước vào nguồn tiếp nhận
Bể lắng và ổn định nồng độ nước thải chế biến thuỷ sản
Bể pha trộn và ổn định độ mặn 10‰
q1 q2 q3 q4
Bổ sung
muối hột
RCCh
Lượng nước
xả vào
nguồn trong
ngày
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
36
vàng sáng xen kẽ nâu sáng, thân và nhánh rong
thanh mảnh) do sự hình thành thêm các sắc tố
phycoerythrin để thích nghi với cường độ ánh
sáng nghiên cứu khi bố trí mô hình dưới mái
hiên trước phòng thí nghiệm. Điều này phù
hợp với nghiên cứu của Lê Như Hậu (2006) là
rong phân bố càng sâu, ánh sáng càng yếu thì
hàm lượng sắc tố càng tăng. Ở hầu hết các
thùng đối chứng không có rong đều có sự phát
triển của rêu tảo làm cho nước có màu xanh.
- Về chỉ tiêu COD và BOD: Ở lô độ mặn
15‰, hiệu quả xử lý cao nhất là vào ngày thứ
6 và đạt 66,87% COD. Lô thí nghiệm ở độ
mặn 10‰ đạt hiệu quả xử lý nhanh ở ngày thứ
2 (74,23% COD). Còn ở lô độ mặn 5‰, kể từ
sau ngày đầu giảm mạnh thì những ngày tiếp
sau đó giá trị COD và BOD tiếp tục tăng nhẹ,
tương đối đều và kéo dài đến ngày cuối của
thời gian thí nghiệm. Ở độ mặn cao nhất thì
rong có khả năng ổn định tốt hơn nhưng hiệu
quả xử lý ở mức độ mặn này kém hơn mức độ
mặn 10‰.
độ mặn
Kết quả phân tích trên cho thấy tương
đối phù hợp với những hiện tượng xuất hiện
được quan sát bằng mắt. Hiện tượng giá trị
COD, BOD giảm là do các chất hữu cơ có
trong nước thải bị oxy hóa trong điều kiện hiếu
khí, đồng thời khi các chất hữu cơ được vô cơ
hóa thì chúng sẽ được rong hấp thụ vì vậy làm
giảm nhanh lượng COD, BOD.
- Về chỉ tiêu nitơ tổng: các giá trị Nitơ
tổng số có xu hướng giảm đều theo thời gian
thí nghiệm. Trong đó, mức giảm của lô thí
nghiệm ở độ mặn cao nhất (15‰) có khuynh
hướng giảm ít biến động nhất và đạt 82,5%
vào ngày cuối thí nghiệm. Độ mặn 10‰ có
hiệu quả xử lý đạt 80% vào ngày thứ 4 đến thứ
6 của thí nghiệm. Riêng lô thí nghiệm ở độ
mặn 5‰ có hiệu quả xử lý cao nhất vào ngày
thứ 5 và 6 của đợt thí nghiệm là 75% nhưng
sau đó thì hiệu quả xử lý này có giảm đi ở
ngày cuối của thí nghiệm. Có thể hiểu được
rằng độ mặn càng cao thì sự hấp thụ Nitơ tổng
số của rong nước mặn sẽ càng cao. Mức giảm
này đồng nghĩa với việc rong câu hấp thụ
mạnh nitơ để hình thành cấu trúc của hệ sắc tố
và protein trong tế bào rong vì vậy mà nhận
thấy rong có màu nâu xen lẫn đen sậm trong
quá trình thực hiện thí nghiệm, khác hoàn toàn
với màu sắc ban đầu khi lấy rong giống thí
nghiệm.
Tạp chí Đại học Công nghiệp
37
3. Biến thiên ộ mặn
- Về chỉ tiêu amoni: Kết quả thể hiện
trên sơ đồ cho thấy trong hai ngày đầu thí
nghiệm, nồng độ Amoni (NH4
+
) ở các lô thí
nghiệm đều giảm nhanh và tăng khá lớn vào
ngày thứ 3 rồi sau đó tiếp tục giảm vào các
ngày cuối của đợt thí nghiệm, trong đó giảm
nhiều nhất là hai lô thí nghiệm có độ mặn cao
nhất ứng với hiệu quả xử lý 95,21% cho lô thí
nghiệm độ mặn 15‰ và 98,40% cho lô thí
nghiệm 10‰. Khi sục khí, N-NH3 sẽ được giải
phóng một phần ra ngoài. Đồng thời, sự tồn tại
của các vi sinh vật sống bám ở gốc rong có tác
dụng chuyển hóa N-NH4
+
thành dạng N-NO3
-
trong điều kiện hiếu khí thông qua quá trình
nitrat hóa làm giảm nồng độ NH4
+
. Ngoài ra,
tảo nước lợ xuất hiện cũng góp phần tiêu thụ
NH4
+
trong nước. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ
yếu làm giảm NH4
+
trong các thí nghiệm là do
hoạt động sống của rong. Trong quá trình
quang tổng hợp, rong sử dụng ánh sáng, nguồn
carbon vô cơ và chất dinh dưỡng để sinh
trưởng. Nitơ tồn tại ở dạng NH4
+
chủ yếu trong
nước thải cũng là nguồn dinh dưỡng rong dễ
hấp thụ hơn so với NO3
-
để đồng hóa axit amin
tự do trong tế bào rong làm tăng sinh khối
(Kartik Baruah et al).
4. Biế c độ mặn
- Về chỉ tiêu nitrat: sự thay đổi nitrat
theo thời gian thí nghiệm có nhiều biến động
lớn trong ba ngày đầu thí nghiệm với xu
hướng tăng rồi giảm bất thường ở hai lô thí
nghiệm có độ mặn cao nhất và thấp nhất.
Riêng lô thí nghiệm có độ mặn còn lại có mức
giảm nitrat tương đối ổn định và không có
nhiều thay đổi lớn, đạt hiệu quả xử lý 73,23%
ở ngày thứ 5. Lô thí nghiệm độ mặn cao nhất
đạt hiệu quả xử lý 49,63% và lô thí nghiệm ở
độ mặn thấp nhất có hiệu quả xử lý 45,16%
vào ngày thứ 6 của đợt thí nghiệm.
Sự biến đổi các giá trị cho thấy rong câu
hấp thụ amoni tốt hơn nitrat do phụ thuộc vào
đặc tính sinh học của loài. Kết quả này hoàn
toàn phù hợp với những thí nghiệm đã được
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
38
thực hiện. Các loài rong thuộc bộ rong Đỏ hấp
thụ NH4
+
tốt hơn NO3
-
do góp phần hình thành
các sắc tố phycoerythrin (Deboer và CS, 1978;
Jones và CS, 1996; Lê Như Hậu và CS, 2006).
H 5. Biế ộ mặn
- Về chỉ tiêu phosphat: hiệu quả xử lý
phosphat thấp hơn so với các chỉ tiêu khác
trong thí nghiệm này. Hiệu suất đạt cao nhất
34,87% thuộc về lô thí nghiệm có độ mặn
10‰ vào ngày thứ 2 trong thời gian thí
nghiệm. Khả năng hấp phụ phosphat trong
nước thấp có thể do rong câu chưa thực sự
thích nghi với môi trường sống mới nên hạn
chế về mặt hấp thụ PO4
3-
. Tuy nhiên, nếu
không có phosphat thì khả hấp thụ nitơ của
rong trong nước cũng giảm (Lapointe và CS,
1978).
6. Biến t phos ộ mặn
Tóm lại, nước có độ mặn 10‰ là thích
hợp nhất cho sự phát triển của rong Câu Chỉ,
hiệu quả xử lý các chất ô nhiễm tốt và rong
phát triển ổn định hơn so với độ mặn 5‰ và
15‰.
3.2 Mức độ giảm chất ô nhiễm và khả
năng thu hồi sinh khối rong theo thời gian
3.2.1 Mô hình thùng xốp (Thí nghiệm 2)
- Về chỉ tiêu COD và BOD: Hiệu quả xử
lý COD cao nhất ở lô thí nghiệm sục khí đêm
đạt 71,58% vào ngày thứ 2 của đợt thí nghiệm.
Hiệu quả xử lý 68,32% COD thuộc về lô thí
nghiệm sục khí ban ngày và lô không sục khí
đạt hiệu quả xử lý 69,9% COD vào ngày thứ 5.
Tạp chí Đại học Công nghiệp
39
7. Biế
8. Biế
- Về chỉ tiêu nitơ tổng: Các giá trị Nitơ tổng số ở cả ba lô thí nghiệm đều có xu hướng
giảm đều theo thời gian thí nghiệm. Trong đó, mức giảm của lô thí nghiệm sục khí đêm là ổn
định nhất và cho hiệu quả xử lý ở ngày cuối thí nghiệm đạt 71,46% cao nhất so với lô sục khí
ngày (69,64%) và lô không sục khí (64,57%).
9. Biế
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
40
- Về chỉ tiêu amoni: sau 7 ngày thí nghiệm, cả ba lô đều cho thấy mức giảm rất ổn định từ
ngày đầu cho đến ngày cuối của đợt thí nghiệm. Các mức giảm đều đạt hiệu quả xử lý cao nhất
vào ngày cuối của thí nghiệm và mức đạt cao nhất là 88,73% (lô thí nghiệm sục khí đêm), mức
thứ hai là 85,82% (lô thí nghiệm sục khí ngày) và 83,28% (lô thí nghiệm không sục khí).
0. Biế
- Về chỉ tiêu nitrat: mặc dù có biến động lớn ở ngày đầu thí nghiệm nhưng hiệu quả xử lý ở
cả ba lô thí nghiệm đều đạt trên 98,8%.
1. Biế
- Về chỉ tiêu phosphat: Sự biến động của PO4
3-
tương đối giống với sự biến động của NO3
-
,
mức giảm nhiều nhất vào ngày đầu thí nghiệm ở cả ba lô và hiệu quả cao nhất là 65,88% (lô sục
khí đêm), 63,12 % (lô sục khí ngày), 62,34% (lô không sục khí) và đạt hiệu quả cao hơn 78% ở
ngày cuối của đợt thí nghiệm cho cả ba lô.
2. Biế
Tạp chí Đại học Công nghiệp
41
Qua thí nghiệm, ta xác định được rong
Câu có khả năng hấp thụ dinh dưỡng để tăng
trưởng sinh khối và đồng thời đã làm giảm các
chất ô nhiễm có trong nước, thể hiện rõ nhất ở
lô thí nghiệm sục khí đêm.
3.2.2 Mô hình động – Mô hình pilot (thí
nghiệm 3)
- Về chỉ tiêu COD và BOD: ta thấy, khi
tốc độ nước càng nhỏ thì mức giảm chất ô
nhiễm, hiệu quả xử lý chất ô nhiễm sẽ càng
tăng và ngược lại. Trong thí nghiệm, lô A có
hiệu quả xử lý cao nhất (75,6%). Mức hiệu quả
đạt được này chủ yếu là do tốc độ nước được
khống chế ở mức thấp nhất nên khi nước đi
qua bể rong thì sẽ được giữ lâu hơn để rong
được tiếp xúc với nguồn chất dinh dưỡng trong
nước và có đủ thời gian để các chất chuyển
hóa thành nguồn dinh dưỡng dễ hấp thụ hơn
cho rong. Nhờ điều này mà giá trị COD hay
BOD cũng đồng thời được xử lý khá tốt.
Hình 13. Biế
4. Biế
- Về chỉ tiêu nitơ tổng: Có xu hướng giảm đáng kể ở cả bốn lô thí nghiệm. Mức giảm chất
ô nhiễm cao nhất vẫn chiếm ưu thế cho lô thí nghiệm A có tốc độ nước chảy chậm nhất, hiệu
quả xử lý đạt mức cao ở những ngày cuối (79%).
5. Biế
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
42
- Về chỉ tiêu amoni: Lô A có hiệu quả xử lý đạt giá trị cao nhất ở ngày cuối là 81,38%, lô
B đạt 69,22%, lô C đạt 50,27% và lô D đạt 31,68%.
6. Biế
- Về chỉ tiêu nitrat: hiêu quả xử lý chất ô nhiễm đạt cao nhất của lô A trong đợt thí nghiệm
là 75,1% và 60,1% là hiệu quả xử lý của lô B, lô C chỉ đạt 21% thấp hơn nhiều so với lô A và lô
B ở ngày cuối thí nghiệm.
7. Biến thiên trat
- Về chỉ tiêu phosphat: Hiệu quả xử lý cao nhất của lô A là 67,5% (ngày thứ 4) và 82,8%
(ngày thứ 8); của lô B là 70% (ngày thứ 4); của lô C là 70,6% (ngày thứ 5); của lô D là 71,2%
(ngày thứ 4).
8. Biến thiên
Tạp chí Đại học Công nghiệp
43
Sự hấp thụ dinh dưỡng của rong câu ở thí nghiệm này cho thấy tốc độ tăng trưởng tương
đối ngày của lô A là cao nhất (13,13%) và xếp theo thứ tự tiếp theo là lô B (12,71%), lô C
(8,95%), lô D (5,35%). Vậy tốc độ dòng chảy càng thấp, hiệu quả xử lý chất ô nhiễm và tốc độ
tăng trưởng của rong càng tốt.
3.3 Khả năng thu hồi và đề xuất sử dụng sinh khối rong Câu (Thí nghiệm 4)
Kết quả phân tích mẫu rong Câu Chỉ trước và sau khi thí nghiệm
TT
Chỉ tiêu
Chất lƣợng
rong ban đầu
Kết quả ệm
Mô hình
tĩnh
(TN2)
Tỷ trọng so
với đầu vào
(%)
Mô hình
động
(TN3)
Tỷ trọng so
với đầu vào
(%)
1 Nitơ tổng (%) 4,31 2,02 46,87 3,07 71,23
2 Photpho tổng
(mg/kg)
864,47 227,87 26,36 253,02 29,27
3 Kali tổng (%) 3,60 5,14 143,00 5,72 159,00
4 Protein (%) 26,93 12,63 46,90 17,66 65,57
5 Hàm lượng
CHC (%)
52,46 51,64 98,43 51,85 98,83
Từ kết quả phân tích mẫu rong trên cho
thấy khả năng thu hồi các dưỡng chất từ rong
câu sau hai đợt thí nghiệm phần lớn đều chiếm
tỷ trọng trên 45%. Riêng chỉ tiêu photpho tổng
chiếm tỷ trọng dưới 30% ở cả hai đợt thí
nghiệm so với mẫu ban đầu. Đặc biệt, chỉ tiêu
kali tổng ở cả hai thí nghiệm cho tỷ trọng vượt
từ 147.8% (thí nghiệm 1) lên 159% (thí
nghiệm 2), chứng tỏ kali chiếm ưu thế lớn
nhất trên mẫu rong thí nghiệm và tiếp đến là
phải kể đến hàm lượng chất hữu cơ chiếm tỷ
trọng gần 100% trong các mẫu rong ở hai thí
nghiệm.
Với kết quả phân tích này, nhận thấy
các thành phần của rong sau khi thu hồi khá
lớn so với mẫu rong câu giống ban đầu và rất
phù hợp cho một số ngành công nghiệp sử
dụng rong nguyên liệu cho sản xuất ra các sản
phẩm có cung cấp các thành phần chính như
nitơ, protein, hàm lượng chất hữu cơ và đặc
biệt là thành phần kali.
4. KẾT LUẬN
Thứ nhất, khi sử dụng rong Câu Chỉ
trong xử lý đầu cuối của nước thải chế biến
thủy sản nhiễm mặn, độ mặn thích hợp nhất
cho rong phát triển là 10‰. Ở độ mặn
thấp hơn 10‰, rong không phát triển.
Độ mặn trên 10‰, khả năng xử lý các thành
phần ô nhiễm trong nước thải kém ổn định.
Thứ hai, khi được nuôi trong mô hình
tĩnh (thùng xốp) rong phát triển và cho hiệu
quả xử lý các chất ô nhiễm tốt nhất khi được
sục khí vào ban đêm. Với mô hình động, nước
thải trong lô có tốc độ nước chậm nhất (47
ml/phút) được xử lý tốt nhất, tốc độ tăng
trưởng tương đối ngày của rong đạt cao nhất
(10,22
Thứ ba, hàm lượng các chất khô trong
rong tăng 71,23% (N), tăng 159% (K), tăng
65,57% (protein), tăng 98,83% (hàm lượng
Nghiên cứu sử dụng rong câu chỉ (gracilatia tenuistipitata) xử lý đầu cuối
44
chất hữu cơ) so với đối chứng đầu vào, điều
này cho thấy sử dụng rong Câu để xử lý
hàm lượng dinh dưỡng trong nước thải vừa có
lợi về môi trường, vừa có lợi về kinh tế. Rong
sau khi được nuôi trong nước thải nhiễm mặn
đã qua xử lý có thành phần dinh dưỡng cao
hơn rất nhiều so với cây giống ban đầu, là
nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp
khác.
Tuy n
trong
S
ển
mở rộng nuôi trồng rong Câu ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Như Hậu (2004), "Thành phần loài và phân bố rong Câu (Gracilaria) ven biển Việt
Nam", Tuyển Tập các Báo cáo Khoa học, Hội thảo khoa học tại Hải Phòng, tr. 183-201.
[2] Lê Như Hậu (2006),
Luận án tiến sĩ sinh học, Viện Hải dương học.
[3] Lê Như Hậu, Nguyễn Hữu Đại (2006), “Contribution to stydy of Gracilaria and relative
Genera (Gracilariales, Rhodophyta) from Vietnam”, Coastal Marine Science. 30 (1), pp.
214-221.
[4] Lê Như Hậu, Nguyễn Hữu Đại (2008), “Rong Câu Việt Nam - Nguồn lợi và sử dụng”,
NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ.
[5] (2004), “
- , Nha Trang, Tr.17.
[6] Ngô Quố "Nghiên cứu sử dụng rong biển để xử lý nhiễm bẩn
dinh dưỡng trong nước thải ao nuôi tôm",Tạp Chí Hóa Học, T.38, số 3: 19-21.
[7] Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ (1985-2007), Viện nghiên cứu và
ứng dụng công nghệ Nha Trang, năm 2007.
[8] Penniman C.A., Mathieson A.C., Penniman C.E. (1986), “Reproductive phenology and
growth of Gracilaria tikvahiae McLachlan (Gigartinales, Rhodophyta) in the Great Bay
Estuary”, New Hampshire, Bot. Mar., 29: 147-154.
[9] Chopin, T & Wagey, B. T. (1999), “Factorial stuydy of the effects of phosphorus and
nitrogen enrichments on nutrient and carrageenan content in Chondrus crispus
(Rhodophyceae) and on residual nutrient concentration in seawater”, Botanica, Marina,
42:23-31.
[10] Lobban C.S & Harrison P.J. (1994), “Seawead Ecology and physiology”, Cambridge
University Press: New York. 366 pp.
[11] Kartik Baruah, et al (2006), “Seaweeds : an ideal conponent for wastewater treatment for
use in aquaculture”.
Tạp chí Đại học Công nghiệp
45
[12] Deboer J. A., Harry J. G., Thomas L. I. and Christophe F. D. (1978), "Nutrionnal Studies
of two red Algae.1. Growth rate as a function of nitrogen source and concentration",
Collected Prints, Woods Hole ocean. Inst. 2, pp. 261-265.
[13] Jones A. B., Stewart G. R. and Denninson W. C. (1996), "Macroalgal responses to nitrogen
source and availability: amino acid metabolic profiling as a bioindicator using Gracilaria
edulis (Rhodophyta)", J. Phycol., 32, pp. 757-766.
[14] Lapointe B. E. and Ryther J. H. (1978), "Some aspects of the growth and yield of
Gracilaria tikvahiae in culture", Collected prints, pp. 185-193.
[15] Neori A., Krom M. D., Ellner S.P., Boyd C. E., Popper D., Rabinovitch R., Davison P.J.,
Dvir O., Zuber D., Ucko M., Angel D., Gordin H. (1996), "Seaweed biofilters as regulators
of water quality in integrated fish-seaweed culture units), Aquaculture, 141, pp. 183-199.
[16] Neori A., Chopin T, Troel M., (2004), “Integrated aquaculture; rationale, evolution and
state of the art emphasizing seaweed biofiltration in modern mariculture”, Aquaculture
231: 361-391.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cnsinhhoc_14_768.pdf