PTTC là chế phẩm được bào chế từ hai cây Tô
Mộc và Mộc Hương có thêm thành phần mật
ong và tá dược vừa đủ được bào chế trong phòng
thí nghiệm đạt tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam
cả về cảm quan và tính chất lý hóa. Đã điều trị
thử nghiệm 66 lợn con mắc bệnh phân trắng cho
thấy tỷ lệ khỏi bệnh lần 1 đạt 93,93 %, thời gian
khỏi bệnh từ 3 - 4 ngày. Tỷ lệ khỏi bệnh sau 2
lần điều trị 100 %. Kết quả phòng bệnh cho lợn
con cho thấy tỷ lệ mắc tiêu chảy giảm xuống rõ
rệt. Cụ thể chỉ mắc với tỷ lệ 4,65% so với không
phòng là 17,07% và thấp hơn so với sử dụng
thuốc Coli-norgent là 9,75%. Khi so sánh tác
dụng điều trị của chế phẩm phòng, trị PTTC với
thuốc Coli-norgent thấy tác dụng điều trị của chế
phẩm phòng, trị PTLC là 93,93% cao hơn thuốc
Coli-norgent là 89,2%
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bào chế thử nghiệm, đánh giá độ an toàn và tác dụng của chế phẩm thảo dược trong phòng trị bệnh phân trắng lợn con, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Quang Tính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 57 - 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57
NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ THỬ NGHIỆM, ĐÁNH GIÁ ĐỘ AN TOÀN
VÀ TÁC DỤNG CỦA CHẾ PHẨM THẢO DƯỢC TRONG PHÒNG TRỊ BỆNH
PHÂN TRẮNG LỢN CON
Nguyễn Quang Tính*
Trường ĐH Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Chế phẩm thảo dƣợc phòng trị tiêu chảy (PTTC) đƣợc bào chế trên cơ sở sự kết hợp hài hòa của 2
loại thảo dƣợc là Mộc hƣơng và Tô mộc cùng với bổ sung chất mật ong và tá dƣợc vừa đủ. Đã thử
tính kháng khuẩn của chế phẩm thảo dƣợc PTTC đối với vi khuẩn E. coli cũng nhƣ những vi
khuẩn gây bệnh khác cho kết quả tốt nhƣ không bị vi khuẩn kháng lại, trong khi 2 loại kháng sinh
Kanamycin và Amoxillin mặc dù dựa vào tác dụng dƣợc lý và phổ kháng sinh khá rộng nhƣng qua
nhiều lần sử dụng đã bị các loại vi khuẩn trên kháng lại hay nói cách khác thuốc đã bị nhờn. Ở liều
0,3 ml/con và 0,5 ml/con thì tỷ lệ khỏi thấp chỉ là 20% và 60%. Trong khi liều 1 ml/con; 1,5
ml/con, và 3 ml/con thì tỷ lệ khỏi đều đạt 100%.
Đã sử dụng chế phẩm PTTC điều trị 66 lợn bị bệnh, khỏi là 62 con chiếm tỷ lệ 93,93%, t hời
gian khỏi trung bình điều trị là 3,08 ± 0,3 ngày, số tái nhiễm lần 2 là 4 con, tỷ lệ tái nhiễm là
6,45% và thời gian điều trị khỏi trung bình lần 2 là 2,5 ngày và chế an có độ an toàn cao. Số
con khỏi sau 2 lần điều trị là 66 với tỷ lệ 100%. Khi dùng thuốc Coli-norgent của công ty
Vemedim cho kết quả kém hơn
Từ khóa: Lợn con, tiêu chảy, chế phẩm thảo dược, kháng sinh, điều trị.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tiêu chảy là hội chứng xảy ra ở hầu hết các
loài vật nuôi và do nhiều nguyên nhân khác
nhau gây ra có tính lây lan mạnh, tính kháng
thuốc mạnh nên khó điều trị dứt điểm, gây tổn
thất lớn cho ngƣời chăn nuôi và cũng là một
trong những nguyên nhân làm tồn dƣ kháng
sinh trong sản phẩm gây hậu quả xấu. Để
khắc phục sự tồn dƣ kháng sinh này, thuốc
Đông dƣợc có nhiều ƣu điểm hơn và có thể
khắc phục đƣợc bằng các dƣợc liệu có khả
năng kháng khuẩn, làm săn se niêm mạc ruột.
Sử dụng dƣợc liệu tăng khả năng đào thải các
chất độc sau khi khỏi bệnh, thông qua đó sẽ
làm giảm đƣợc sự tồn dƣ kháng sinh trong
sản phẩm động vật là việc làm cần thiết đáp
ứng đƣợc nhu cầu sản xuất và của ngƣời tiêu
dùng. Việc sử dụng các sản phẩm có nguồn
gốc thảo dƣợc để khắc phục sự tồn dƣ hoá
dƣợc trong các sản phẩm động vật đã và đang
tập trung sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học
trên thế giới nhất là các nƣớc Châu Á nhƣ
Trung Quốc, Ấn Độ... Mặc dù ngày càng có
nhiều loại thuốc mới ra đời, nhƣng thuốc có
nguồn gốc từ thiên nhiên vẫn có giá trị rất lớn
trong phòng trị bệnh cho động vật.
*
Tel: 0988 675651
Trong những năm gần đây khi dƣợc lý phân
tử phát triển, khoa học lại chứng minh đƣợc
một hợp chất thiên nhiên đã tồn tại nhiều năm
trong tế bào sống (động vật hoặc thực vật),
khi đƣợc phân lập và sử dụng để điều trị bệnh
nghĩa là lại chuyển nó vào tế bào sống, nó có
khả năng dung nạp tốt và ít có tác dụng phụ
hơn các chất tổng hợp hoá học có bản chất
tƣơng tự. Từ xa xƣa nhân dân ta đã áp dụng
các bài thuốc thảo mộc để chữa trị bệnh cho
vật nuôi. Và có thể nói, lịch sử của quá trình
sử dụng thuốc thảo mộc trong thú y trƣớc đây
là lịch sử kinh nghiệm mang tính truyền
miệng (Phạm Khắc Hiếu, 1995). Thuốc có
nguồn gốc từ thảo mộc thƣờng dễ kiếm, quy
trình bào chế đơn giản, giá thành rẻ, dễ sử
dụng, ít gây độc hại, có hiệu quả cao. Ƣu
điểm nổi bật của thuốc Đông dƣợc là không
để lại chất tồn dƣ có hại trong các sản phẩm
động vật nuôi. Trong số các dƣợc liệu quý để
điều trị tiêu chảy phải kể tới Mộc Hƣơng và
Tô Mộc, đó là những cây thảo mộc có nhiều
tác dụng tốt. Từ những vấn đề trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu bào
chế thử nghiệm, đánh giá độ an toàn và tác
dụng của chế phẩm thảo dược trong phòng
trị bệnh phân trắng lợn con”.
Nguyễn Quang Tính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 57 - 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
THÍ NGHIỆM
Nguyên liệu
Chế phẩm thảo dƣợc PTLC đƣợc bào chế từ
hai cây Tô Mộc và Mộc Hƣơng có thêm mật
ong và tá dƣợc vừa đủ; Kháng sinh và hoá
dƣợc: Thuốc Coli-norgent của công ty
Vemedim, thành phần gồm 12.500,00 UI
colistin, 2g norfloxacin, 1g gentamicin và 1g
trimethioprin trong 100g bột; Đối tƣợng động
vật điều trị: Lợn con theo mẹ từ sơ sinh đến
21 ngày tuổi bị bệnh PTLC, chuột nhắt trắng
có khối lƣợng từ 18 -20g khỏe mạnh, đủ điều
kiện thí nghiệm
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu theo dõi tác dụng phòng trị bệnh
của chế phẩm từ cây Tô Mộc và cây Mộc
Hƣơng theo phƣơng pháp dƣợc lý thực
nghiệm trong từ điển Bách khoa dƣợc học,
1999 và Dƣợc điển Việt Nam, 2002; Phƣơng
pháp bào chế thuốc theo giáo trình “Bào chế
đông dƣợc, 2002”, giáo trình “Dƣợc học cổ
truyền, 2002” của trƣờng ĐH Dƣợc Hà Nội,
Thuốc đông y về cách sử dụng - bào chế - bảo
quản (Nguyễn Đức Toàn, 2002) và Kỹ thuật
chế biến và bào chế thuốc cổ truyền (Phạm
Xuân Sinh, 2006).
Chế phẩm thảo dƣợc PTTC là chế phẩm đƣợc
bào chế từ 2 cây Mộc Hƣơng và Tô Mộc có
thêm thành phần là mật ong và tá dƣợc vừa đủ
dƣới dạng siro. Thử nghiệm độ an toàn trên
chuột thí nghiệm tại khoa Chăn nuôi -Thú y,
Trƣờng ĐH Nông Lâm Thái Nguyên; Phòng
và điều trị cho lợn con theo mẹ từ sơ sinh đến
21 ngày tuổi bị PTTC tại trang trại Trần Thị
Nga - Hiệp Hoà - Bắc Giang; Phân tích thành
phần định tính của Tô mộc và Mộc hƣơng có
nguồn gốc từ Thái Nguyên và Cao Bằng tại
Bộ môn Dƣợc liệu - Trƣờng Đại học Y Dƣợc
– ĐH Thái Nguyên.
Phương pháp sử dụng thống kê toán học
Các số liệu thu đƣợc từ thí nghiệm và thực tế
phòng trị đƣợc xử lý thống kê theo phƣơng
pháp thí nghiệm trong chăn nuôi của Nguyễn
Văn Thiện (2000) và phần mềm Microsft
office Exel 2003.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Kết quả bào chế thử nghiệm chế phẩm
PTTC
Chế phẩm PTTC đƣợc chúng tôi bào chế tại
phòng thí nghiệm Khoa Chăn nuôi - Thú y
của Trƣờng Đại học Nông Lâm – ĐH Thái
Nguyên với các thành phần và khối lƣợng
đƣợc thể hiện trong bảng 2.
Bảng 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Số Lợn TN
(con)
Giai đoạn
(ngày tuổi)
Thuốc
Liều: ml/kgP/lần
(2lần/ngày)
Lô TN
Thí nghiệm 1
25
1 - 7
Siro thảo dƣợc 1
Lô 1
25 Coli-norgent 1
Thí nghiệm 2
32
8 - 14
Siro thảo dƣợc 1
Lô 2
23 Coli-norgent 1
Thí nghiệm 3
19
15- 21
Siro thảo dƣợc 1
Lô 3
17 Coli-norgent 1
Bảng 2. Thành phần chính của chế phẩm thảo mộc PTTC
STT Vị thuốc Đơn vị tính Thể tích hoặc khối lượng
1 Tô Mộc Kg 1
2 Mộc Hƣơng Kg 1
3 Mật ong + tá dƣợc Lít 0.25
4 Chế phẩm PTTC Lít 1
Nguyễn Quang Tính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 57 - 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59
Nhận xét: Cứ sử dụng: 1kg Tô Mộc + 1kg Mộc
Hƣơng + 0.25 lít Mật Ong + Tá dƣợc sẽ tạo ra
đƣợc 1 lít chế phẩm PTTC. Vậy giá thành của mỗi
lít chế phẩm PTTC sẽ là: 155.000 đ tại thời điểm
nghiên cứu.
Kết quả thử nghiệm độ an toàn của chế phẩm PTTC trên chuột thí nghiệm
Bảng 2. Kết quả theo dõi độ an toàn của thuốc trên chuột thí nghiệm
Lô thí nghiệm
Chỉ tiêu
Lô 1 Lô 2 Lô 3
Số con trong đàn (con) 3 3 3
Liều lƣợng (ml) 0.2 0.5 1
Số liều thuốc dùng 5 5 5
Phản ứng trƣớc dùng
thuốc
Khỏe mạnh,
nhanh nhẹn
Khỏe mạnh,
nhanh nhẹn
Khỏe mạnh,
nhanh nhẹn
Phản ứng sau dùng thuốc Khỏe mạnh,
nhanh nhẹn
Khỏe mạnh,
nhanh nhẹn, béo lên
Khỏe mạnh,
nhanh nhẹn, béo lên
Tác dụng phụ Không Không Không
Nhận xét: Khi tăng dần liều lƣợng thuốc PTTC ở
các liều 0,2; 0,5; 0,1 lên chuột thì thấy rằng: Ở liều
0,2ml chuột hoàn toàn khỏe mạnh và không biểu
hiện triệu chứng gì so với chuột ban đầu trƣớc khi
dùng thuốc. Ở liều 0,5ml chuột khỏe mạnh, nhanh
nhẹn, không xuất hiện phản ứng phụ, chuột béo
hơn so với ban đầu. Ở liều 1ml chuột vẫn khỏe
mạnh, phản ứng hơi chậm hơn do béo lên rõ ràng
và không xuất hiện phản ứng phụ. Vậy qua tổng
kết ở các liều 0,2ml; 0,5ml; 1ml để thử nghiệm độ
an toàn của chế phẩm PTTC ta thấy; Chuột hoàn
toàn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có sự béo lên và
tăng cân, không xuất hiện phản ứng phụ. Vì vậy
có thể thấy chế phẩm PTTC có sự tin cậy về độ an
toàn.
Kết quả thử tính kháng khuẩn của chế phẩm thảo dược PTTC, Kanamycin và Amoxicilin
Bảng 3. Nồng độ kháng khuẩn tối thiểu của chế phẩm PTTC, Kanamycin và Amoxicilin (µg/ml)
Ký hiệu chủng vi khuẩn thử Chế phẩm PTLC
Kháng sinh & hoá dƣợc
Kanamycin Amoxicilin
E. coli chủng TCLC 813 8 55
E. coli chủng PT 813 813 412
E. coli chủng 205 813 813 412
Salmonella chủng PTH 813 813 412
Nhận xét: Chế phẩm thảo dƣợc PTTC đối với vi
khuẩn E. coli TCLC cũng nhƣ những vi khuẩn gây
bệnh khác đƣợc chúng tôi phân lập từ thực địa đều
có nồng độ kháng khuẩn tối thiểu nhƣ nhau (MIC
= 813 µg/ml) trong khi đó đối với kháng sinh
Cotrimoxazol có tác dụng rất mạnh với vi khuẩn
E. coli chuẩn (MIC = 8 µg/ml) nhƣng lại giảm đi
với những vi khuẩn ở thực địa (813µg/ml). Đối
Amoxicilin cũng gần nhƣ tƣơng tự tác dụng mạnh
với vi khuẩn E. coli chuẩn (MIC = 55 µg/ml)
nhƣng lại giảm đi với những vi khuẩn ở thực địa
(412µg/ml). Nhƣ vậy chế phẩm thảo dƣợc PTTC
đã không bị vi khuẩn kháng lại, trong khi 2 loại
kháng sinh trên mặc dù dựa vào tác dụng dƣợc lý
và phổ kháng sinh khá rộng nhƣng qua nhiều lần
sử dụng đã bị các loại vi khuẩn trên kháng lại hay
nói cách khác thuốc đã bị nhờn.
Kết quả điều tra lợn mắc bệnh tiêu chảy
Bảng 4. Kết điều tra lợn con bị mắc tiêu chảy tại trại theo lứa tuổi
STT Chỉ tiêu ĐVT
Số lô theo dõi
Lô 1 Lô 2 Lô 3
1 Số lợn con điều tra con 316 432 398
Nguyễn Quang Tính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 57 - 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60
2 Số lợn con mắc bệnh con 50 55 36
3 Tỷ lệ mắc bệnh % 15,8 12,7 9.04
4 Số lợn chết con 4 3 1
5 Tỷ lệ lợn con chết % 1,26 0,7 0,25
Kết quả điều tra lợn con mắc bệnh phân trắng theo các tháng trong năm
Bảng 5. Kết quả điều tra lợn con tiêu chảy ở các tháng
Tháng
Tuổi lợn (ngày)
01 - 07 08 - 14 14 – 21
Số lợn
điều
tra
(con)
Số lợn
mắc
bệnh
(con)
Tỷ lệ
(% )
Số lợn
điều
tra
(con)
Số lợn
mắc
bệnh
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số lợn
điều
tra
(con)
Số lợn
mắc
bệnh
(con)
Tỷ lệ
(% )
Tháng 9 83 10 12,04 102 12 11,76 89 8 8,98
Tháng 10 76 13 17,1 112 14 12,5 95 9 9,47
Tháng 11 81 9 11,11 109 13 10,92 91 8 8,79
Tháng 12 76 18 23,68 100 16 16 133 11 8,27
Tổng 316 50 15.82 432 55 12,7 398 36 9.04
Nhận xét: Trong 1146 lợn con điều tra trong 4
tháng và qua 3 giai đoạn tuổi ở cuối năm cho thấy:
Ở giai đoạn 1-7 ngày tuổi tỷ lệ nhiễm ở các tháng
9; 10; 11; 12 lần lƣợt là 12,04%; 17,1%; 11,11%;
23,68% và trung bình của 4 tháng là 15,82%. Ở
giai đoạn 8-14 ngày tuổi tỷ lệ nhiễm ở các tháng 9;
10; 11; 12 lần lƣợt là 11,76%; 12,50%; 10,92%;
16% và trung bình của 4 tháng là 12,70%. Ở giai
đoạn 15-21 ngày tuổi tỷ lệ nhiễm ở các tháng 9;
10; 11; 12 lần lƣợt là 8,98%; 9,47%; 7,790%;
8,27% và trung bình của 4 tháng là 9,04%. Nhƣ
vậy có thể thấy ở các tháng không thể hiện rõ các
tỷ lệ mắc bệnh khác nhau mà lại có sự thể hiện rõ
ở các giai đoạn tuổi cụ thể. Ở giai đoan 1-7 ngày
tuổi tỷ lệ mác là cao nhất 15,82%, tiếp theo là giai
đoạn 8-14 ngày tuổi với tỷ lệ 12,7% và thấp nhất ở
giai đoạn 15-21 ngày tuổi với tỷ lệ 9,04%.
Xác định liều lượng thuốc phòng trị
Bảng 6. Kết quả xác định liều lƣợng thích hợp trong phòng, trị bệnh của chế phẩm PTTC
Liều lượng
(ml)
Số lợn thử
nghiệm
Số lợn khỏi
(con)
Tỷ lệ khỏi
(%)
Đánh giá hiệu quả
0,3 5 1 20 Kém
0,5 5 3 60 Trung bình, yếu
1 5 5 100 Tốt
1,5 5 5 100 Tốt
3 5 5 100 Tốt
Nhận xét: Ở liều lƣợng 0,3 ml/con và 0,5 ml/con
thì tỷ lệ khỏi thấp chỉ là 20% và 60%. Nhƣng ở
các liều lƣợng 1 ml/con; 1,5 ml/con, và 3 ml/con
thì tỷ lệ khỏi đều đạt 100%. Nhƣng do hiệu quả
kinh tế trong sử dụng thuốc mà ta sẽ chon ở liều
lƣợng 1 ml/con.
Kết quả phòng bệnh phân trắng lợn con bằng chế phẩm PTTC
Bảng 7. Kết quả phòng bệnh PTLC bằng chế phẩm PTLC (liều =1/2 so trị)
Diễn giải Lô 1 Lô 2 Lô 3
Số con theo dõi (con) 43 41 41
Số con phòng bệnh (con) 43 41 0
Số con mắc bệnh (con) 2 4 7
Tỉ lệ mắc bệnh (%) 4,65 9,75 17,07
Nguyễn Quang Tính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 57 - 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61
Nhận xét: Khi sử dụng chế phẩm phòng, trị PTTC
để phòng bệnh cho 43 lợn con thì có 2 con mắc
bệnh chiếm tỷ lệ 4,65%. Khi sử dụng thuốc Coli-
norgent để phòng bệnh cho 41 lợn con thì có 4 con
mắc bệnh chiếm tỷ lệ 9,75%. Và không phòng
bệnh cho lợn con thì ở 41 con theo dõi có 7 con bị
bệnh chiếm tỷ lệ 17,07%. Qua đây có thể kết luận
rằng việc sử dụng chế phẩm phòng, trị PTLC để
phòng bệnh cho lợn con là rất tốt, tốt hơn cả khi
dùng thuốc Coli-norgent để phòng bệnh.
So sánh tác dụng điều trị của chế phẩm PTTC với Nor-coligent
Bảng 8. Kết quả điều trị bệnh PTLC bằng chế phẩm PTLC và thuốc Coli-Norgent
STT Chỉ tiêu theo dõi ĐVT PTLC Coli-Norgent
1 Tổng số con điều trị Con 66 65
2 Số con khỏi lần 1 Con 62 58
3 Tỷ lệ khỏi lần 1 % 93,93 89,2
4 Thời gian khỏi lần 1 Ngày 3,25 ± 0,3 3,08± 0,3
5 Số lợn mắc lần 2 Con 4 6
6 Tỷ lệ mắc lần 2 % 6,45 10,34
7 Số con khỏi lần 2 Con 4 6
8 Tỷ lệ khỏi lần 2 % 100 100
9 Thời gian khỏi lần 2 Ngày 2,75 2,5
10 Số lợn khỏi sau 2 lần điều trị con 66 65
11 Tỷ lệ khỏi sau 2 lần điều trị % 100 100
Nhận xét: Khi dùng chế phẩm phòng, trị PTLC điều
trị 66 con bị bệnh thì số khỏi là 62 con với tỷ lệ khỏi
93,93%, thời gian khỏi trung bình điều trị là 3,08 ± 0,3
ngày. Sau đó số con tái nhiễm lần 2 là 4 con, tỷ lệ
tái nhiễm là 6,45% và thời gian điều trị khỏi trung
bình lần 2 là 2,5 ngày. Số con khỏi sau 2 lần điều
trị là 66 với tỷ lệ 100%. Khi dùng thuốc Coli-
norgent của công ty Vemedim điều trị 65 con bị
bệnh bị bệnh thì số khỏi là 58 con với tỷ lệ khỏi
89,2%, thời gian khỏi trung bình điều trị là 3,25 ±
0,3 ngày. Sau đó số con tái nhiễm lần 2 là 6 con,
tỷ lệ tái nhiễm là 10,34% và thời gian điều trị khỏi
trung bình lần 2 là 2,75 ngày. Số con khỏi sau 2
lần điều trị là 66 với tỷ lệ 100%. Từ đó có thể kết
luận rằng: Sử dụng chế phẩm phòng, trị PTLC cho
hiệu quả tốt hơn nhƣng thời gian khỏi chậm hơn
sử dụng thuốc Coli-norgent của công ty Vemedim.
Nguyễn Quang Tính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 57 - 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62
KẾT LUẬN
PTTC là chế phẩm đƣợc bào chế từ hai cây Tô
Mộc và Mộc Hƣơng có thêm thành phần mật
ong và tá dƣợc vừa đủ đƣợc bào chế trong phòng
thí nghiệm đạt tiêu chuẩn Dƣợc điển Việt Nam
cả về cảm quan và tính chất lý hóa. Đã điều trị
thử nghiệm 66 lợn con mắc bệnh phân trắng cho
thấy tỷ lệ khỏi bệnh lần 1 đạt 93,93 %, thời gian
khỏi bệnh từ 3 - 4 ngày. Tỷ lệ khỏi bệnh sau 2
lần điều trị 100 %. Kết quả phòng bệnh cho lợn
con cho thấy tỷ lệ mắc tiêu chảy giảm xuống rõ
rệt. Cụ thể chỉ mắc với tỷ lệ 4,65% so với không
phòng là 17,07% và thấp hơn so với sử dụng
thuốc Coli-norgent là 9,75%. Khi so sánh tác
dụng điều trị của chế phẩm phòng, trị PTTC với
thuốc Coli-norgent thấy tác dụng điều trị của chế
phẩm phòng, trị PTLC là 93,93% cao hơn thuốc
Coli-norgent là 89,2%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đỗ Huy Bích và cs, (2004) Cây thuốc và động
vật làm thuốc ở Việt Nam tập I- II, Viện dƣợc liệu.
Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật.
[2]. Bộ môn Dƣợc học cổ truyền Trƣờng Đại học
Dƣợc Hà Nội, (2000), Dược học cổ truyền, Nhà xuất
bản Y học, Hà Nội,.
[3]. Phạm Ngọc Bùng, Hoàng Đức Chƣớc,
Nguyễn Đăng Hoà, Võ Xuân Minh, Nguyễn Thị
Nga, (2004), Kỹ thuật bào chế và sinh dược học
các dạng thuốc - Tập I, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội.
[4]. Phạm Ngọc Bùng, Phạm Thị Minh Huệ, Nguyễn
Văn Long, Võ Xuân Minh, Vũ Văn Thảo, (2004), Kỹ
thuật bào chế và sinh dược học các dạng thuốc - Tập
II, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
[5]. Đào Duy Cần, (2001), Thuốc nam, thuốc bắc và các
phương thang chữa bệnh, Nhà xuất bản Khoa học
kỹ thuật.
[6]. Huỳnh Kim Diệu, (2007) “Hiệu quả điều trị bệnh
tiêu chảy ở heo con của chất chiết lá cây xuân hoa so
với kháng sinh”, Tạp chí KHKT thú y.
[7]. Lê Trần Đức, (1997), Cây thuốc Việt Nam,
trồng hái chế biến trị bệnh ban đầu, Nxb Nông
nghiệp.
[8]. Phạm Hoàng Hộ, (2006), Cây có vị thuốc ở Việt
Nam, Nxb Trẻ.
[9]. Đỗ Tất Lợi, (1999), Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam, Nxb Y học,.
10. Viện dƣợc liệu, Tạp chí dược liệu tập 6, (2001),
trang 2, 3, 5.
SUMMARY
STUDY ON TRAIL PRODUCTION, EVALUATION OF SAFETY AND EFFICIENCY
OF HERBAL EXTRACTS IN PIGLET E.COLI DIARRHEA TREATMENT-
PREVENTION
Nguyen Quang Tinh
*
College of Agriculture and Forestry - TNU
PTTC herbal product is basically made from two herbal varieties including Aristolochiaceae and
Caesalpinia sappan with suitable supplements of honey and other needs. The anti-bacteria activity of this
PTLC product on E.coli as well as other bacterial strains was evaluated, the results of the present study
showed that PTLC product had a good antibacteria potential, especially without any side effects. That of
kanamycin, amoxilin the common antibiotic with large spectrum of antibiotic at the dose of 0.5ml/head
produced a low efficiency (20 – 60 % in the total of experimental piglets showed good influences);
however, the treatment efficiency increased with dose rising up to 1ml/head (100% experimental piglets
showed good influences). The treatment of 66 inrected piglets using PTTC product produced a treatment
efficiency of 62 heads (93.93%), the treatment duration was 3.08± 0,3 days. The rate of re-infected piglets
after the first treatment was 4 heads (6.45%) and the secondly treatment duration was 2.5 days. The
treatment efficiency of Coli-norgent from Vemedim Company was lesser as compared with PCTC product
with the same experimental conditions.
Key words: Piglet, diarrhea, herbal extract, antibiotics, treatment.
*
Tel: 0988 675651
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_bao_che_thu_nghiem_danh_gia_do_an_toan_va_tac_dun.pdf