Một số suy nghĩ về sự phát triển của lực lượng tàu thuyền khai thác trên vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam

Tổ chức lại khai thác hải sản là một đòi hỏi mang tính cấp thiết, có lẽ không một ai nghi ngờ về cơ sở khoa học của nó. Vấn đề còn lại là tổ chức lại như thế nào, số lượng tàu thuyền bao nhiêu với cơ cấu ra sao là hợp lý. Và vấn đề cốt lõi là quan điểm phát triển, chính sách đầu tư chuyển đổi nghề nghiệp và tính pháp lệnh đối với những chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ trong lĩnh vực này.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 14/03/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số suy nghĩ về sự phát triển của lực lượng tàu thuyền khai thác trên vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG TÀU THUYỀN KHAI THÁC TRÊN VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM SOME THOUGHTS OF THE DEVELOPMENT OF FISHING VESSEL FORCE IN THE EXCLUSIVE ECONOMIC ZONE OF VIETNAM Trần Đình Chất1 Ngày nhận bài: 08/5/2014; Ngày phản biện thông qua: 13/10/2014; Ngày duyệt đăng: 10/2/2015 TÓM TẮT Sự phát triển gần như tự phát của lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản trên vùng biển Việt nam gây ra nhiều hệ lụy khôn lường. Trong hơn 3 thập kỷ qua số lượng đơn vị đánh bắt hải sản tăng hơn 4 lần, tổng công suất tàu khai thác tăng 15 lần tạo ra một sức ép khổng lồ đối với nguồn lợi vốn dĩ đã cạn kiệt trong vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta. Hơn nữa cơ cấu đội tàu khai thác lại bất hợp lý, những tàu có công suất nhỏ đánh bắt ven bờ chiếm tỷ trọng quá lớn làm cho tình hình càng trầm trọng hơn. Đứng trước tình hình đó, vấn đề đặt ra vô cùng cấp thiết là phải tổ chức lại ngành khai thác hải sản Việt nam như thế nào cho hợp lý để bảo đảm sự phát triển bền vững với hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Từ khóa: Số lượng, cơ cấu, tự phát, sức ép, cạn kiệt, bất hợp lý, tỷ trọng, trầm trọng hơn, cấp thiết, tổ chức lại, phát triển bền vững. ABSTRACT The spontaneous increase of the number of fi shing vessels in Exclusive Economic Zone of Vietnam has created serious consequences. Over last three decades, the number of fi shing boats has increased more than 4 times, or equivalence to 15 times of harvesting capacity. The situation has created a huge pressure on fi shery resources that are believed to be exhausted. In addition, the structure of fi shing vessels is unreasonable, with a high density of small boats exploiting inshore have made the state worsen. In that situation, there is an urgent necessitate to reorganize the fi shing industry so that it becomes sustainable and has the most effi cient social-economic results. Keywords: Spontaneous, number of fi shing vessels, serious consequences, pressure, serious consequences, unreasonable, high density, inshore, state worsen, urgent necessitate I. MỞ ĐẦU đất nước. Trong những năm trước mắt cũng như Trong vài thập kỷ gần đây, khai thác hải sản về lâu dài, vị trí đặc biệt của nó là không thể thay của nước ta ghi nhận sự tăng trưởng liên tục. thế được. Sản lượng khai thác năm 2011 đạt 2.226.600 tấn, Thực trạng số lượng cũng như tổng công suất tăng hơn gấp 3 lần so với năm 1990; trong đó giá tàu thuyền hiện có là quá lớn so với quy định, dẫn trị kim ngạch xuất khẩu từ khai thác hải sản đạt tới sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa năng lực gần 2 tỷ USD, chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khai thác và trữ lượng nguồn lợi cho phép đánh bắt. khẩu thủy sản (6,1 tỷ USD), cung cấp một nguồn Xét về cơ cấu tàu thuyền cũng hết sức bất hợp lý, thực phẩm vô cùng quan trọng cho tiêu dùng nội điều đó tạo ra sức ép toàn diện cho nguồn lợi trên địa, tạo công ăn việc làm cho khoản 700.000 lao toàn bộ vùng biển đặc quyền kinh tế và đặc biệt là động trực tiếp trên biển. Có thể nói, ngành khai vùng biển ven bờ. Trong khi đó, sự phát triển gần thác hải sản đã có những đóng góp to lớn cho sự như tự phát của lực lượng tàu thuyền vẫn tiếp tục phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của diễn ra. 1 TS. Trần Đình Chất: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang 220 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 Trong bối cảnh đó, việc đánh giá năng lực khai trong năm 1992 thống kê được 54.612 chiếc, điều thác của các đơn vị tàu thuyền trong mối tương quan đó có nghĩa là so với năm trước đã tăng lên 10.672 với trữ lượng của nguồn lợi là hết sức cần thiết. Đây chiếc hay 24,3%. Trong năm 1993, số lượng tàu là một trong những cơ sở quan trọng nhất để tiến thuyền lại tăng tiếp 7.143 chiếc, hay tăng 13,2% so hành tổ chức lại sản xuất ngành khai thác hải sản với năm 1992. Tốc độ tăng trưởng còn cao hơn nữa nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành vào năm 2008, bởi lẽ so với năm trước số đơn vị này, trên cơ sở hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. khai thác trên vùng biển Việt nam tăng thêm 37.109 (42,9%). Đó là sự tăng trưởng cao nhất ghi nhận II. NỘI DUNG được trong kỳ phân tích. Nguyên nhân của sự biến 1. Tình hình biến động của lực lượng tàu thyền động bất thường này là do chính vào năm này Nhà khai thác hải sản trên vùng biển nước ta nước thực hiện trợ giá xăng dầu cho bà con ngư Số lượng tàu thuyền khai thác trên vùng biển Việt dân và để được hưởng sự ưu đãi này ngư dân đã kê nam đã tăng gần 4 lần trong vòng 3 thập kỷ (1981 - khai tàu thuyền khai thác của mình, vốn dĩ trước đó 2013), từ 29.584 lên tới 117.998 chiếc (bảng 1). nằm ngoài số liệu thống kê của cơ quan chức năng. Trong thời kỳ này, chỉ có nửa đầu thập niên 80 Qua đây, chúng ta có thể thấy rằng nhờ có chính của thế kỷ trước số lượng tàu thuyền có giảm chút sách trợ giá xăng dầu của Nhà nước, số lượng tàu ít; thời gian còn lại ghi nhận sự tăng trưởng. Đặc thuyền thực tế mới được làm rõ. Mặt khác, phần biệt số lượng tàu thuyền tăng lên nhanh chóng. nào ta cũng có thể kết luận số liệu thống kê được diễn ra trong các năm 1991 - 1994. Chẳng hạn, công bố có độ chính xác không cao. Bảng 1. Số lượng và công suất bình quân của lực lượng tàu thuyền thời kỳ 1981–2008 Năm Số lượng tàu Tốc độ tăng [%] Công suất b/q [CV] Tốc độ tăng [%] 1981 29.584 − 16,2 − 1982 29.429 -0,5 16,0 -1,3 1983 29.117 -1,1 16,3 1,8 1984 29.549 1,5 16,4 0,6 1985 29.323 -1,8 16,9 3,0 1986 31.680 8,0 17,0 0,6 1987 35.406 11,7 16,9 -0,6 1988 35.774 1,0 17,0 0,6 1989 37.035 3,5 17,8 4,7 1990 41.266 11,4 17,6 -1,1 1991 43.940 6,5 18,8 6,8 1992 54612 24,3 18,1 -3,7 1993 61.805 13,2 20,9 15,5 1994 67.254 8,8 21,5 2,9 1995 69.000 2,6 21,7 0,9 1996 69.953 1,4 22,0 1,4 1997 71.500 2,2 25,9 17,7 1998 71.779 0,4 33,8 30,5 1999 73.397 2,3 34,3 1,5 2000 75.928 3,4 42,0 22,2 2001 78.978 4,0 47,1 12,4 2002 81.800 3,6 49,4 4,9 2003 83.122 1,6 49,3 -0,2 2004 83.300 0,2 50,4 2,2 2005 84.080 0,9 50,0 -0,8 2006 85.530 1,7 53,5 7,0 2007 86.500 1,1 64 19,6 2008 123.609 42,9 55 -16,4 2009 131.000 6,0 57 3,6 2010 128.449 -2,0 65 14,0 2011 126.458 -1,6 72 10,8 2012 125.000 -11,6 77,6 7,7 2013 117.998 -5,9 85 9,5 Nguồn: Bộ Thủy sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2014. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 221 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 Công suất tàu thuyền bình quân trong kỳ ở vùng biển Đông Nam Bộ với 2.283 chiếc và kế nghiên cứu cũng chứng tỏ xu hướng tăng trưởng đến là Vịnh Thái Lan với 1.731 chiếc. Nhóm tàu có hàng năm. Vào năm 2007, công suất bình quân của số lượng còn ít hơn có công suất từ 150 đến dưới một đơn vị tàu khai thác hải sản lớn gấp 3,7 lần so 250 CV chỉ chiếm 3,5% tổng số tàu thuyền. Còn với năm 1981; cụ thể tăng từ 16,2 CV đến 59,9 CV. nhóm tàu có công suất từ 400 CV trở lên chiếm tỷ Sự tăng trưởng này là kết quả của chiến lược tái cơ trọng nhỏ nhất với 2,2% trong tổng số. cấu lực lượng tàu thuyền theo hướng tăng tỷ trọng Có thể nói, qua số liệu của bảng 2 ta thấy càng của những tàu có công suất lớn hơn, có khả năng về phía nam kích cỡ tàu khai thác hải sản càng lớn. khai thác xa bờ nhằm giảm sức ép đối với nguồn lợi Có thể nói, số lượng tàu thuyền quá lớn là một gần bờ vốn dĩ đã khai thác đến ngưỡng cho phép, vấn đề hệ trọng của nghề cá biển Việt nam. Theo thậm chí cạn kiệt, một só loài khó có khả năng phục số liệu của bảng 1, đến cuối năm 2008 toàn bộ số hồi. Tuy nhiên, trong năm 2008 công suất bình lượng tàu thuyền của cả nước lên tới 113.500 chiếc quân của một đơn vị tàu thuyền đột ngột giảm 9 CV với tổng công suất 5.710.000 CV. Nếu so với mục (16,4%). Song đây không phải là một hiện tượng tiêu đề ra theo tinh thần của Nghị định 10/2006/QĐ- bất thường trong quá trình phát triển, mà là do thời TTg, trong đó số lượng tàu thuyền hợp lý được xác kỳ trước chưa thống kê được số lượng tàu thuyền định là 50.000 chiếc con số này vượt quá 2 lần. Đây chính xác, trong năm này nhờ có sự kê khai của thực sự là một mối hiểm họa đối với nguồn lợi hải chính ngư dân để hưởng trợ giá xăng dầu mới biết sản. Điều này đã được phản ánh rất rõ qua năng được con số sát với thực tế như đã nói ở trên. suất bình quân trong thời kỳ này đã giảm gần như Trong những năm 90 của thế kỷ XX, Nhà nước 3 lần và điều tất yếu là hiệu quản kinh tế của hoạt đã có chương trình cho ngư dân vay với lãi suất ưu động khai thác cũng suy giảm nghiêm trọng. Theo các chuyên gia, các nhà khoa học, nguồn lợi đã bị đãi để đóng tàu có công suất lớn khai thác xa bờ khai thác gần như cạn kiệt, ở một số khu vực được nhằm bảo vệ nguồn lợi gần bờ đang có nguy cơ coi là giảm hơn 90% chỉ trong vòng 10 năm (1988 - cạn kiệt. 1998). Tình hình này đặt các nhà quản lý vào tình Từ thời điểm này cơ cấu tàu thuyền khai thác thế khó khăn, một mặt cần giải quyết nhu cầu công trên các vùng biển nước ta có sự thay đổi nhanh ăn việc làm cho ngư dân, mặt khác phải bảo vệ chóng, khi các tàu có công suất trên 90 CV chiếm nguồn lợi trước hoạt động đánh bắt gần như mang tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong tổng số các đơn tính tự phát và có tính chất hủy diệt của họ. vị đánh bắt. Trước tình hình đó, Nhà nước đã thực hiện việc 2. Cơ cấu tàu theo công suất và khu vực khai thác hạn chế việc đóng mới các loại tàu khai thác hải sản Tuy nhiên, một vấn đề mà các nhà quản lý cần đặc biệt là loại có công suất nhỏ hoạt động ven bờ đặc biệt quan tâm là số tàu thuyền có công suất nhỏ nhằm giảm sức ép lên nguồn lợi. Tuy nhiên, trong (<20 CV) đánh bắt gần bờ không hề suy giảm, ngược thực tế số lượng tàu thuyền vẫn tăng lên hàng năm. lại còn có xu hướng tăng lên. Nhóm tàu thuyền này, 3. Một vài suy nghĩ về sự phát triển của đội tàu theo thống kê vào năm 2008 vẫn có số lượng lớn khai thác hải sản trên vùng biển Việt nam nhất với 43.606 chiếc hay 42,7% (bảng 2). Số lượng tàu khai thác mà Bộ Nông nghiệp và Số lượng lớn nhất của nhóm này đánh bắt ở Phát triển Nông thôn tổng hợp trên cơ sở báo cáo Khu vực 1 (Vịnh Bắc bộ) có 18.418 chiếc. Trên 28% của sở thủy sản các tỉnh thường là không đầy đủ, lực lượng tàu thuyền (29.101 chiếc) là các đơn vị thiếu chính xác. Trong báo cáo: "Sự biến động số khai thác có công suất từ 20 đến <50 CV. Các loại lượng tàu cá từ tháng 1 đến tháng 11” năm 2009 tàu này tiến hành hoạt động đánh bắt chủ yếu ở của Phòng Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi trực thuộc Khu vực 2 (Miền Trung Việt nam), nơi có tới 11.928 Bộ, toàn bộ số lượng tàu cá trong thực tế lớn hơn so chiếc. Số lượng tàu nhỏ hơn nhiều thuộc nhóm có với con số đăng ký từ 10% đến 15%. công suất 50 - <90 CV với 10.933 chiếc; chúng cũng Khi Chính phủ ban hành Quyết định 289/QĐ -TTg được phân bố chủ yếu ở vùng biển miền Trung. ngày 18 tháng 3 năm 2008, theo tinh thần của quyết Nhóm tàu với công suất 90 - <150 CV có 7.656 định này ngư dân được trợ giá xăng dầu, trong vòng chiếc chiếm 7,5% toàn bộ tàu thuyền khai thác; 6 tháng (từ tháng 3 đến tháng 11), số lượng tàu cá trong đó gần một nửa (3.650 chiếc) đánh bắt ở vịnh kê khai nhiều hơn con số thống kê là 27.000 chiếc, Bắc bộ. Nhóm tàu từ 250 đến <400 CV có 4.810 trong đó có: chiếc hoạt động, tương ứng 4,7% lực lượng tàu - Thuyền thủ công tăng 509 chiếc, thuyền cả nước. Số tàu này hoạt động nhiều nhất - Tàu có công suất nhỏ hơn 20 CV tăng 21.662 chiếc, 222 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 - Tàu có công suất từ 20 đến dưới 50 CV tăng so với nhiều năm trước đây, thậm chí nhiều chuyến 3.441 chiếc. biển thua lỗ, người lao động không có thu nhập - Tàu có công suất từ 50 đến 90 CV tăng 1.603 (Báo Khánh Hòa, 2008). chiếc. Như vậy, để bảo vệ nguồn lợi, bảo đảm phát - Tàu có công suất trên 400 giảm 215 chiếc. triển bền vững, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, Qua đây chúng ta cũng có thể nhận thấy, số tàu không có cách nào khác là phải giảm mạnh lực khai thác thực tế tăng lên chủ yếu là nhóm tàu có lượng tàu thuyền về cả số lượng cũng như tổng công suất nhỏ, hoạt động ven bờ, chính vì vậy sức công suất và cơ cấu lại lực lượng này về công suất, ép đối với nguồn lợi trong vùng biển này sự thực ngành nghề đánh bắt... Để thấy tác dụng to lớn, ý còn lớn hơn là đánh giá của các chuyên gia. nghĩa lớn lao của của việc làm này có thể đưa ra Như vậy, vấn đề không chỉ là tổng số lượng tăng một tính toán của FAO, theo tính toán của tổ chức lên vượt xa mức cho phép mà cơ cấu của chúng này, nếu giảm tổng dung tích tàu thuyền khai thác cũng không theo kế hoạch. Theo tinh thần của Nghị thủy sản trên thế giới từ 13,9 triệu tấn xuống 7,3 định 10/2006/QĐ-TTg, như trên đã nói toàn bộ số triệu tấn thì có thể tăng sản lượng đánh bắt từ 85 lượng tàu thuyền cho phép vào năm 2010 là 50.000 lên 93 triệu tấn, tăng trữ lượng của nguồn lợi từ 123 chiếc, trong đó các tàu có kích cỡ nhỏ đánh bắt ven triệu tấn lên 254 triệu tấn, chuyển từ lỗ 5,3 tỷ USD bờ có công suất từ 20 đến 45 CV là 20.000 chiếc thành lãi 41,6 tỷ USD (Morgan, 2007). chiếm 40%; còn nhóm tàu thuyền có công suất nhỏ Một vấn đề khiến chúng ta phải suy nghĩ là nên hơn 20 CV chỉ có 10.000 chiếc (20%). Trong thực chăng sử dụng chính sách trợ giá dưới mọi hình tế, chỉ mới đầu năm 2008, tổng số lượng tàu thuyền thức đối với nghề khai thác cá biển như trợ giá thống kê được đã là 102.230 chiếc, trong đó nhóm nhiên liệu, cho vay với lãi suất ưu đãi... Hàng năm tàu có công suất từ 20 đến 50 CV là 29.101 chiếc Nhà nước đã sử dụng một số tiền lớn hàng triệu (28%) và đặc biệt là nhóm tàu có công suất nhỏ hơn USD để dùng cho mục đích này. Chính sách hộ trợ 20 CV đã cao hơn 4 lần so với cho phép với 43.606 trong sản xuất kinh doanh luôn luôn bị các nhà kinh chiếc chiếm 43% lực lượng tàu thuyền. Ngoài ra, tế phản đối kịch liệt và trái hoàn toàn với chính sách trong thực tế, theo các chuyên gia nhiều đơn vị tàu thương mại của WTO, tuy nhiên trong thực tế nó có công suất từ 90 CV trở lên, theo quy định phải vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức ngay cả ở các nước khai thác xa bờ, cũng tham gia đánh bắt gần bờ phát triển. Lĩnh vực mà họ thường áp dụng chính khiến cho sức ép đối với nguồn lợi gần bờ lại càng sách này là nông nghiệp, còn lĩnh vực khai thác thủy tăng lên. sản nếu có chỉ cho mục đích cơ cấu lại ngành nghề Như vậy, ngay tại thời điểm điều tra tổng thể theo hướng giảm lực lượng tàu thuyền, chuyển đổi vào đầu năm 2008, số lượng tàu thuyển khai thác ngành nghề sang các ngành khác như nuôi trồng, trên vùng biển nước ta đã quá lớn, vượt xa mức cho phép. Mặc dù vậy, lực lượng tàu đánh bắt hải chế biến, dịch vụ... Chúng tôi thiết nghĩ đó là một sản vẫn tiếp tục phát triển cả về số lượng, lẫn tổng chiến lược phát triển hoàn toàn hợp lý và có thể ứng công suất. dụng ngay tại Việt Nam. Đến năm 2011 con số này đã tăng lên 128.449 Một vấn đề nữa cần phải quan tâm, có thể mọi chiếc với tổng công suất 7,22 triệu CV. Có thể nói, người đều nhận thức được, đó là mục đích chiến sự phát triển của nghề cá Việt Nam gần như mang lược của việc phát triển đội tàu khai thác khơi là tính chất tự phát tạo ra áp lực ngày càng lớn đối với nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo của nguồn lợi vốn dĩ đã cạn kiệt. Mối hiểm họa đối với nước ta và cũng không một ai dám nói rằng điều nhiều loài cá kinh tế ngày càng tăng, chúng không đó là không quan trọng. Tuy nhiên, theo ý kiến chủ những mất khả năng tái sinh, mà nguy cơ tuyệt diệt quan của tác giả sự hiện diện của lực lượng tàu này là vô cùng lớn. Điều này đã xẩy ra ngay cả tại nhiều là để khẳng định chủ quyền biển đảo hơn là nâng nước phát triển, mặc dù họ có sự kiểm soát hoạt cao khả năng phòng thủ. Hơn nữa, xét cho cùng động đánh bắt khoa học và khắt khe. Hậu quả nặng mục tiêu kinh tế trong hoạt động khai thác hải sản là nề về tàn phá nguồn lợi, gần như ai cũng thấy được. hết sức quan trọng, tuyệt nhiên không thể xem nhẹ. Nếu không có sự kiểm soát hữu hiệu hơn về lâu Chính vì vậy, các nhà hoạch định chính sách, những dài nguồn lợi tất yếu sẽ bị huy diệt. Hiện tại năng người có trách nhiệm trong việc bảo vệ nguồn lợi suất và hiệu quả đánh bắt đã suy giảm nghiêm trọng hải sản cần có sự cân nhắc, lựa chọn hợp lý nhất. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 223 224 Tạp chíKhoahọc-CôngnghệThủysản Bảng 2. Cơ cấu tàu thuyền khai thác hải sản trên vùng biển Việt nam nửa đầu 2008 theo công suất • Công suất tàu TRƯỜNG ĐẠI HỌCNHATRANG Khu vực <20 CV 20 - <50 CV 50 - <90 CV 90 - <150 CV 150 - <250 CV 250 - <400 CV ≥400 CV Tổng số Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % KV 1 18 418 62,3 5 499 18,6 1 140 3,9 3 650 12,3 331 1,1 221 0,7 28 0,1 29 287 100,0 KV 2 14 737 40,6 11 928 32,8 5 956 16,4 2 233 6,1 780 2,1 575 1,6 133 0,4 36 342 100,0 KV 3 6 135 25,8 8 562 36,0 2 740 11,5 1 435 6,0 1 805 7,6 2 283 9,6 849 3,6 23 809 100,0 KV 4 4 316 34,6 3 112 24,9 1 097 8,8 338 2,7 675 5,4 1 731 13,9 1 223 9,8 12 492 100,0 Tổng số 43 606 42,7 29 101 28,5 10 933 10,7 7 656 7,5 3 591 3,5 4 810 4,7 2 233 2,2 101 930 100,0 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2008. Ghi chú: - KV 1: Khu vực 1 – Vịnh Bắc bộ - KV 2: Khu vực 2 – Miền Trung - KV 3: Khu vực 3 - Đông Nam bộ - KV 4: Khu vực 4 – Vịnh Thái lan Tiếng Anh 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO vực này. trong lĩnh phủ và Chính Đảng lối của đường trương chủ những với đối lệnh pháp tính và nghiệp nghề là lõi cốt đề đổi chuyển tư vấn đầu sách chính triển, phát điểm quan Và lý. hợp là nhiêu sao ra bao cấu thuyền cơ với tàu lượng số nào, thế như lại chức tổ là lại còn đề Vấn nó. của học khoa sở cơ về ngờ nghi ai một không lẽ có thiết, cấp tính mang III. KẾTLUẬN 5. 4. 3. 2. Tiếng Việt 1. einl f e o Ai ad h Pcfic Bangkok, Pacifi2007. c, the and Asia for Office Regional Food and Agriculture Organization of the United Nations fiIUU Asia-PacifiAsia, in Commission shing Fishery c Morgan G. at al, 2007: Fishing capacity management and thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo vàngưdân hộ nghèo, hộ sách, chính diện thuộc hộ số, tộc thiểu dân bào đồng trợ hỗ sách chính số một hành ban phủ Chính tướng Thủ của 289/QĐ-TTg định Quyết hoạch tổng thểpháttriểnngànhthủysản Quy duyệt phê 10/2006/QĐ-TTg, định Quyết kê vềsốlượngvàcôngsuấttàuthuyền Thống 2009. thôn, Nông triển Phát và nghiệp Nông Bộ (dự thảo): Tổ chứclạikhaitháchảisản án Đề 2012. thôn, Nông triển Phát và nghiệp Nông Bộ ra ngày24tháng10năm2008. số hòa Khánh Báo dân. ngư A.T.,của sống Cuộc 2008. ổ hc ạ ka tá hi ả l mt ò hỏi đòi một là sản hải thác khai lại chức Tổ Số 1/2015 về

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_suy_nghi_ve_su_phat_trien_cua_luc_luong_tau_thuyen_kh.pdf