Bài báo khái quát những tư tưởng chính của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ với tính
cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ một chế độ chính trị - chế độ dân chủ; là một giá trị
của văn minh nhân loại - kết quả của sự phát triển lịch sử; là một phương thức tồn tại của xã hội
hiện đại. Những chỉ dẫn của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc nghiên cứu lý luận về dân chủ và giá trị của dân chủ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101
97
MỘT SỐ CHỈ DẪN CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN
CHỦ NGHĨA MÁC VỀ DÂN CHỦ
Đồng Văn Quân*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài báo khái quát những tư tưởng chính của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ với tính
cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ một chế độ chính trị - chế độ dân chủ; là một giá trị
của văn minh nhân loại - kết quả của sự phát triển lịch sử; là một phương thức tồn tại của xã hội
hiện đại. Những chỉ dẫn của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc nghiên cứu lý luận về dân chủ và giá trị của dân chủ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: dân chủ, chính trị, văn minh, hiện đại, giá trị
Với lý tưởng đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng con người, giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn
coi dân chủ vừa là phương tiện, vừa là mục
tiêu và động lực của các phong trào cách
mạng. Do đó, tư tưởng dân chủ là một trong
những cống hiến quan trọng về mặt lý luận
của C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin.*
Các nhà Kinh điển của chủ nghĩa Mác hiểu
khái niệm dân chủ trước hết với tính cách là
một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ
nhà nước. Chế độ dân chủ được hiểu là chế độ
nhà nước mà trong đó nhân dân là người nắm
quyền lực (theo nghĩa: dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân). Trong tác phẩm Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen viết năm 1843, C.Mác đã chỉ ra rằng
bản chất của chế độ dân chủ là nhà nước được
thể hiện ra như là một trong những tính quy
định của nhân dân; rằng chế độ nhà nước đó
ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó,
tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực
và được xác định là sự nghiệp của bản thân
nhân dân. Trong tác phẩm Phê phán cương
lĩnh Gôta (1875) C. Mác cũng chỉ rõ dân chủ
là chính quyền của nhân dân.
Ph.Ăngghen đã không thừa nhận chế độ thị
tộc là một thể chế dân chủ vì đó chưa phải là
một chế độ chính trị, mặc dù ông đã trích dẫn
những câu rất đẹp đẽ của Morgan về chế độ
này: “Toàn thể các thành viên của thị tộc đều
*
Tel: 0912 021314, Email: quandongvan@gmail.com
là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự
do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân
ngang nhau - cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự
đều không đòi hỏi những đặc quyền, ưu tiên
nào cả; họ kết thành một tập thể nhân ái, gắn
bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự
do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được
nêu thành công thức, nhưng vẫn là những
nguyên tắc cơ bản của thị tộc” [8,136]. Ông
gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”.
Sau này, V.I. Lênin đã khẳng định lại luận
điểm của Ăngghen, coi dân chủ là một chế độ
chính trị: “Trong những nhận định thông
thường về nhà nước, người ta luôn luôn phạm
một sai lầm mà Ph. Ăngghen đã căn dặn phải
đề phòng. Sai lầm ấy là: người ta luôn luôn
quên rằng thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu
chế độ dân chủ và nhà nước tiêu vong cũng là
chế dộ dân chủ tiêu vong” [1, 101].
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ chỉ thực
sự xuất hiện dưới chế độ chiếm hữu nô lệ,
mặc dù một số yếu tố dân chủ đã có từ thời
nguyên thuỷ. Khi giải thích về hội nghị thị
tộc, Ph. Ăngghen đã sử dụng thuật ngữ dân
chủ nhưng chỉ theo nghĩa so sánh để giúp
chúng ta hình dung về cơ chế hoạt động của
hội nghị này mà thôi. Ông nói: “Thị tộc có
một hội đồng, tức hội đồng dân chủ của toàn
thể các thành viên của thị tộc, trai cũng như
gái, tất cả đều có quyền bầu cử như nhau” [8,
136]. Chỉ khi bàn về nhà nước Aten, khái
niệm dân chủ mới được Ph. Ăngghen sử dụng
theo đúng nghĩa của nó: “Không phải chế độ
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101
98
dân chủ đã làm Aten sụp đổ mà chính là
chế độ nô lệ, tức là cái đã làm cho lao động
của người công dân bị khinh thị - đã làm cho
Aten sụp đổ” [8,179].
C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp cận khái niệm
dân chủ, lúc đầu từ lập trường dân chủ cách
mạng, sau đó chuyển dần sang lập trường
cộng sản chủ nghĩa. Các ông đã dần làm rõ
bản chất giai cấp của dân chủ, chỉ ra những
đóng góp cũng như hạn chế của dân chủ tư
sản, qua đó khẳng định sự sụp đổ tất yếu của
nền dân chủ tư sản và sự thay thế nó bằng một
nền dân chủ mới - dân chủ vô sản.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng hạn
chế lớn nhất của dân chủ tư sản là nó bảo vệ
cho chế độ sở hữu tư nhân, và do đó bảo vệ
cho phe thiểu số. Vì vậy, giai cấp vô sản
cần phải đập tan cơ sở kinh tế của dân chủ
tư sản là chế độ sở hữu tư nhân đối với tư
liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu:
“Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ
trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được
dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi
hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp
đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự tồn
tại của giai cấp vô sản” [6, 470].
Giai cấp vô sản, để trở thành “giai cấp thống
trị”, cần phải làm cách mạng vô sản, phải
“giành lấy dân chủ”” [6, 626]. Theo C. Mác,
Ph. Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ
vô sản, mới làm cho nhân dân lao động thực
sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của
mình. Để đạt được điều đó giai cấp vô sản cần
tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp tư sản,
nhờ đó “nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ
đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền
thống trị của giai cấp vô sản. Muốn thế, có lẽ
cần phải có một cuộc đấu tranh mới nữa,
song cuộc đấu tranh mới đó nhất định sẽ kết
thúc bằng thắng lợi của giai cấp vô sản” [6,
469-470].
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra kiểu mẫu của
dân chủ vô sản chính là Công xã Pa-ri, một
hình thức tổ chức nhà nước do những người
cộng sản lãnh đạo – một nhà nước của dân, do
dân và vì dân – một nhà nước đã “loại bỏ toàn
bộ hệ thống đẳng cấp chính trị và thay thế
những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng
những đầy tớ luôn luôn có thể bị bãi miễn;
thay thế một trách nhiệm tưởng tượng bằng
một trách nhiệm thực sự, vì những người
được uỷ nhiệm này luôn luôn hành động dưới
sự kiểm soát của nhân dân” [7, 719]. Ở đó
mọi đặc quyền, đặc lợi đều bị xoá bỏ, quyền
lực thực sự đều được chuyển giao vào tay
nhân dân: “Chức vị xã hội không còn là sở
hữu riêng của bọn bộ hạ của chính phủ trung
ương nữa. Không những việc quản lý thành
thị mà còn tất cả quyền định đoạt xưa kia
thuộc nhà nước, đều chuyển vào tay Công xã”
[7, 449-450].
Ngoài nội dung chính trị, theo C. Mác và Ph.
Ăngghen, dân chủ còn luôn gắn liền với khát
vọng tự do, bình đẳng, công bằng, bắc ái của
con người bởi vì vấn đề dân chủ, xét đến cùng
là vấn đề về vai trò của con người, chủ quyền
của con người và giải phóng con người để đi
đến tự do, bình đẳng cho mỗi cá nhân. Cho
nên C. Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát
từ con người và biến nhà nước thành con
người được khách thể hoá. Cũng giống như
tôn giáo không tạo ra con người mà con
người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: Không
phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà
nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” [5, 350].
Trong Điều lệ của Liên đoàn những người
cộng sản do hai ông tham gia soạn thảo, vấn
đề bình đẳng giữa các thành viên của Liên
đoàn được xem như một vấn đề có tính
nguyên tắc: “Tất cả các hội viên của Liên
đoàn đều bình đẳng, họ là anh em và trong
mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau
như anh em” [6, 733]. Khi xác định nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp
công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen
cũng chỉ rõ: “Mỗi hội viên của Hội Liên hiệp
công nhân quốc tế đều có quyền tham gia bầu
cử đại biểu dự đại hội của toàn Hội Liên hiệp
và có quyền được bầu làm đại biểu... Mỗi chi
bộ không kể số lượng hội viên ra sao đều có
quyền cử một đại biểu dự đại hội... Mỗi đại
biểu chỉ có một phiếu ở đại hội... Tất cả
những vấn đề về nguyên tắc đều được đưa ra
biểu quyết có ghi tên...” [7, 587-588].
Khát vọng dân chủ, tự do, bình đẳng chỉ thực
sự đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản, đó là
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101
99
“Một xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng sản
chủ nghĩa, sẽ làm cho các thành viên trong xã
hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện
năng lực phát triển của mình. Đồng thời các
giai cấp khác nhau nhất định cũng sẽ không
còn nữa” [6, 475].
Tuy không phải là những người đầu tiên bàn
về dân chủ và nêu lên ước vọng về một xã hội
dân chủ nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen, lần
đầu tiên chỉ ra bản chất giai cấp của dân chủ,
làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân
chủ tư sản, từ đó tìm ra con đường để xây
dựng một nền dân chủ mới – dân chủ vô sản.
Con đường đó chỉ có thể là cách mạng vô sản.
V.I. Lênin, trên cơ sở kế thừa di sản của
C. Mác và Ph. Ăngghen, đã có công rất lớn
trong việc làm rõ bản chất giai cấp của dân
chủ, chỉ ra sự khác biệt về nguyên tắc giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, qua đó
đề xuất những nguyên tắc, cách thức, con
đường để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo V.I. Lênin, thực chất của dân chủ là
quyền làm chủ phải thuộc về tay nhân dân,
nhân dân phải được làm chủ trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội - từ kinh tế đến
chính trị, xã hội. Kế thừa quan điểm của C.
Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng tiếp
cận khái niệm dân chủ từ góc độ chính trị.
Ông cho rằng: “Dân chủ là một phạm trù
thuộc riêng lĩnh vực chính trị” [4, 258]. Ông
trích dẫn lời của Ph. Ăngghen cho rằng nhà
nước tiêu vong cũng có nghĩa là dân chủ tiêu
vong, cho nên dân chủ trước hết là một hình
thức nhà nước: “Chế độ dân chủ là một hình
thức nhà nước, một trong những hình thái
nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước,
chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức,
có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta.
Một mặt thì như thế. Nhưng mặt khác, chế
độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận
quyền bình đẳng giữa những người công
dân, thừa nhận cho mọi người được quyền
ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà
nước và quản lý nhà nước” [1, 123]. Ở đây,
V.I. Lênin cũng đã gắn vấn đề dân chủ với
khát vọng và quyền con người về tự do, bình
đẳng và công bằng xã hội.
V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh bản chất giai
cấp của dân chủ, cho rằng không có dân chủ
nói chung, dân chủ “thuần tuý”, mà là dân
chủ cho giai cấp nào. Ông chỉ ra rằng bất cứ
chế độ dân chủ nào trong lịch sử, dù là chế độ
dân chủ hoàn thiện nhất, cũng là nền dân chủ
cho bọn giàu có. Tuy luôn rêu rao cái gọi là
dân chủ, tự do, bình đẳng nhưng nền dân chủ
tư sản vẫn tìm cách loại bỏ hết quần chúng
lao động ra khỏi bộ máy nhà nước của nó. Để
khẳng định quan điểm này, V.I. Lênin đã dẫn
lại tư tưởng của C. Mác về dân chủ tư sản:
“Cái mà C. Mác đã đấu tranh chống lại nhiều
hơn hết trong suốt cuộc đời ông, chính là
những ảo tưởng dân chủ tiểu tư sản. Cái mà
ông chế giễu nhiều nhất, chính là những câu
rỗng tuếch về tự do và bình đẳng, khi những
câu đó che lấp cái tự do chết đói của công
nhân, hoặc cái bình đẳng giữa một người bán
sức lao động của mình với tên tư sản là kẻ
mua một cách tự do và hoàn toàn bình đẳng
sức lao động ấy trên thị trường gọi là thị
trường tự do” [3, 222].
So sánh với các kiểu nhà nước đã có trong
lịch sử, V.I. Lênin chỉ ra rằng, chế độ dân chủ
tư sản là một bước tiến vĩ đại vì nó đã đem lại
nhiều quyền dân chủ, tự do, bình đẳng hơn
cho con người, trong đó có người lao động.
Tuy nhiên dân chủ tư sản cũng không thể
thoát ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một nền
dân chủ cho thiểu số, dân chủ cho bọn thống
trị, bóc lột. Ông nói: “Chế độ dân chủ tư sản,
tuy là một bước tiến bộ lịch sử vĩ đại so với
thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là - và
dưới chế độ tư bản nó không thể không là -
một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả
hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu
có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối
đối với những người bị bóc lột, đối với người
nghèo” [2, 305]. Ngay những hình thức nhà
nước tư sản được coi là tiến bộ nhất là chế độ
đại nghị hay chế độ cộng hoà dân chủ thì
cũng chỉ là một công cụ để tư bản bóc lột lao
động làm thuê: “Chúng ta ủng hộ chế độ cộng
hoà dân chủ vì nó là hình thức nhà nước tốt
nhất cho giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, nhưng chúng ta không được quên
rằng cảnh nô lệ làm thuê là số phận của nhân
dân ngay cả trong nước cộng hoà tư sản dân
chủ nhất” [1, 25].
Để khắc phục những hạn chế của dân chủ tư
sản, tạo dựng một xã hội dân chủ thực sự, giai
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101
100
cấp vô sản phải tiết hành đấu tranh để “giành
lấy dân chủ” [6, 626]. Cuộc đấu tranh này, lúc
đầu được thực hiện trong khuôn khổ xã hội tư
bản chủ nghĩa, nhưng tất yếu và cuối cùng
phải đi đến một cuộc cách mạng XHCN để
xoá bỏ nền dân chủ tư sản, thiết lập nền dân
chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bằng
kinh nghiệm lịch sử của công xã Pa-ri và
chính quyền xô-viết, V.I. Lênin đã khẳng
định: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ
chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn
gấp triệu lần; chính quyền xô viết so với nước
cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ
hơn gấp triệu lần” [2, 312-313].
Về bản chất của chế độ dân chủ vô sản, V.I.
Lênin chỉ ra rằng, nó là nền dân chủ của số
đông, dân chủ của người nghèo. Để đạt được
nền dân chủ này giai cấp vô sản và nhân dân
lao động phải giành được chính quyền nhà
nước về tay mình, sử dụng chính quyền để
xây dựng các thiết chế kinh tế, chính trị xã
hội cho mình. Chỉ khi đó quần chúng lao
động mới thực sự là người chủ. Do đó, nếu
như dân chủ tư sản là dân chủ cho thiểu số
những kẻ thống trị, bóc lột thì “dân chủ vô
sản là chế độ thống trị của đa số với thiểu số,
vì lợi ích của đa số”; dân chủ vô sản là “chế
độ dân chủ cho người nghèo, chứ không phải
chế độ dân chủ cho bọn giàu”; chế độ dân chủ
vô sản là chế độ dân chủ mở rộng “trên quy
mô lịch sử toàn thế giới, làm cho chế độ đó từ
chỗ là một sự dối trá nay trở thành sự thật,
đấy là giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích
của tư bản” [1, 842].
Tính giai cấp của chế độ dân chủ bị quy định
bởi cơ sở kinh tế mà từ đó nó được xây dựng
nên. Các nền dân chủ trước đây (trong đó có
dân chủ tư sản) được xây dựng trên cơ sở của
chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất, cho
nên chỉ có giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất
mới có quyền làm chủ thực sự trong lĩnh vực
kinh tế. V.I. Lênin khẳng định: “Bất cứ nền
dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ
sản xuất và xét đến cùng, đều do các quan hệ
sản xuất trong xã hội nhất định quy định” [4,
345]. Ai thống trị về kinh tế thì kẻ đó cũng sẽ
thống trị về chính trị, tư tưởng. Do đó, quyền
dân chủ trong xã hội chỉ thực sự dành cho
giới chủ. Để xây dựng nền dân chủ mới, giai
cấp vô sản tất yếu phải xoá bỏ chế độ tư hữu,
thiết lập chế độ công hữu đối với tư liệu sản
xuất, nhờ đó mà quần chúng nhân dân mới
thực sự trở thành người chủ của đất nước,
thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình.
Chỉ có chế độ công hữu mới đảm bảo được
“quyền bình đẳng của mọi thành viên trong xã
hội đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất,
nghĩa là lao động ngang nhau, tiền công ngang
nhau” [1, 122]. Cũng chỉ có chế độ công hữu
mới đảm bảo cho tất cả đều tham gia quản lý,
tham gia kiểm soát việc sản xuất và phân phối
lao động [1, 125]. Chính vì vậy, ngay sau khi
cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công,
đặc biệt là khi tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới XHCN, V.I. Lênin đã kêu gọi
phải tiến hành công hữu hoá công xưởng, nhà
máy và hợp tác hoá nông nghiệp. Ông chỉ rõ:
“Thực chất của chủ nghĩa bôn-sê-vích, của
chính quyền xô-viết là ở chỗ bóc trần sự lừa
bịp và giả dối của nền dân chủ tư sản, xoá bỏ
chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà
máy và trao toàn bộ chính quyền nhà nước vào
tay quần chúng lao động và bị áp bức. Chính
quần chúng đó là người nắm chính trị trong
tay, nghĩa là đảm đương công cuộc xây dựng
xã hội mới” [3, 463].
Để xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa V.I. Lênin đã đề xuất một loạt những
nguyên tắc và giải pháp quan trọng như chế
độ bầu cử dân chủ, chế độ kiểm tra, giám sát
dân chủ, dân chủ trong Đảng, nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Những chỉ dẫn của C. Mác, Ph. Ăngghen và
V. I. Lênin về dân chủ vẫn giữ nguyên giá trị
đối với cách mạng nước ta cho đến tận ngày
nay. Trong suốt quá trình cách mạng Đảng ta
luôn coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng; cách mạng là sự nghiệp
của dân, do dân và vì dân. Trong thời kỳ đổi
mới bài học lớn của Đảng là phải lấy dân làm
gốc, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Việc vận dụng những chỉ dẫn trên
góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu chung của Đảng là xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh./.
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. V.I.Lê nin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb
Tiến bộ, Mát x cơ va.
[2]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb
Tiến bộ, Mát x cơ va.
[3]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb
Tiến bộ, Mát x cơ va.
[4]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb
Tiến bộ, Mát x cơ va.
[5]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1978), Toàn tập, tập 1,
Nxb ST , Hà Nội.
[6]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 4,
Nxb CTQG, HN.
[7]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập
17, Nxb CTQG, HN.
[8]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập
21, Nxb CTQG, HN.
SUMMARY
CLASSIC SCHOLARS’ INSTRUCTIONS IN DEMOCRACY OF MARXISM
Dong Van Quan*
College of Education – TNU
The article generalizes main thoughts of Karl Marx, Ph. Angel and V.I.Lenin on democracy as a
concept of politics, used to mean a political regime – a democratic regime, a value of mankind
civilization – a result of history development; an existing mode of modern society. Their
instructions are sensibly important to research on the argument of democracy and its value to the
cause of building socialism in our country nowadays.
Key words: democracy, politics, civilization, modern, value
Ngày nhận bài: 02/10/2012, ngày phản biện: 11/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012
*
Tel: 0912 021314, Email: quandongvan@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36368_39968_4220139202597_7642_2052206.pdf