Lý luận chung về tín dụng
Chính vì lý do trên đây, mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của
ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm các
loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
8 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý luận chung về tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý luận chung về tín dụng
Tác giả
Nguyễn Thành Sơn
Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán chịu
hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong
mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau
như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong một
thời gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó.
Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung:
Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái
hay còn ngọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có
thể dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá,
máy móc, thiết bị bất động sản.
Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời
gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi
vay phải hoàn trả cho người cho vay.
Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người
đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị
tài hoá hoặc tiền tệ và lãi suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay
phải tuân thủ nguyên tắc : Lãi suất cho vay phải chứa đựng các yếu tố
như lạm phát, rủi ro và chi phí cơ hội. Người cho vay phải chú ý đến
giá trị thời gian của tiền.
Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một
bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian
nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần tài sản
đã mượn cộng thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín nhiệm.
Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin
tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho
vay có hứa hẹn thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín nhiệm
của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín
dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín dụng đã
hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng
lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm chí còn tồn
tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp tích luỹ
nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều
kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng phát triển
hết sức đa dạng và phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời.
Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng đã phát triển toàn diện. Trong thực
tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ:
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng
thể hiện dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái,
trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng
thương mại thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình
thức các công ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp.
Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức
nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua...
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính
phủ các nước thể hiện dưới hình thức vay nợ.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia vào
quan hệ tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi
này được gọi là đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái
phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các
ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho
vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng
người ta thường đề cập đến hoạt động cho vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là
đi vay.
Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng ngân
hàng. Tín dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình thành
nên các ngân hàng thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của các
ngân hàng. Sự phù hợp về nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư
bản sản xuất kinh doanh hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng
này. Do chuyên môn hoá trong kinh doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền
tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng phát triển và trở thành hình thức tín
dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ngân hàng đã khắc phục
được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự trở thành một yếu tố quan
trọng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy:Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn tiền tệ giữa ngân
hàng và các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các
tầng lớp dân cư theo nguyên tắc có hoàn trả.
Phân loại tín dụng ngân hàng
Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện
các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đơì sống
thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Thuê mua và các loại khác.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp
và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương
mại tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng cao nhất.
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước
Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối
với các ngân hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn
đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản
cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu
hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn
trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7
năm.Tín dụng dài hạn là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô
lớn, xây dung các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân
hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại
đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và
một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỉ trọng cho vay
trung và dài .
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung
thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính
hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có
tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối
với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi
phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có
một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng
mục đích cam kết.
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng
được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân
hàng và việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng
trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và
đa dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp
dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này
ngân hàng hoặc các công ty thuê mua( công ty con của ngân hàng)cung
cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo
định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có
nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân
hàng.
Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời
hạn thanh toán. Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các
loại sau: Chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng, mua các
khoản nợ của doanh nghiệp.. Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân
hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín
của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp tiền,
nhưng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp
đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Chính vì lý do trên đây, mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của
ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm các
loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_chung_ve_tin_dung_1492.pdf