Lời rào đón như phương tiện “đền bù” các vi phạm nguyên tắc lịch sự (dựa trên diễn ngôn tiếng Anh và tiếng Việt)

As they are known, hedges are used to compensate the “violations” of politeness principles which the speaker may think, consciously or unconsciously, that he or she is causing while s/he is uttering. The paper, in that observation, discusses some issues of hedges in terms of some functions of (1) compensations for violations of “three politeness policies” by Lakoff, (2) prevention of the “face threatening act” by Brown and Levinson, and (3) compensations of the cooperative principle by Grice illustrated by English and Vietnamese.

pdf7 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lời rào đón như phương tiện “đền bù” các vi phạm nguyên tắc lịch sự (dựa trên diễn ngôn tiếng Anh và tiếng Việt), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 65 LỜI RÀO ĐÓN NHƯ PHƯƠNG TIỆN “ĐỀN BÙ” CÁC VI PHẠM NGUYÊN TẮC LỊCH SỰ (DỰA TRÊN DIỄN NGÔN TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT) Ngô Hữu Hoàng* Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội TÓM TẮT Lời rào đón (hedges) như đã biết, thường được sử dụng trong giao tiếp để đền bù những vi phạm về nguyên tắc lịch sự mà người nói, dù ý thức hay vô thức, có thể nghĩ rằng mình đang gây ra. Bài viết, dựa trên diễn ngôn tiếng Anh và tiếng Việt, điểm qua một số các vấn đề của lời rào đón dựa trên cơ sở chức năng (1) đền bù sự vi phạm “Ba chiến lược lịch sự” của Lakoff; (2) ngăn chặn “Hành vi đe doạ thể diện” của Goffman, Brown & Levinson và (3) đền bù sự vi phạm “Phương châm hội thoại” của Grice. Từ khóa: lời rào đón, nguyên tắc lịch sự, Goffman, Brown & Levison, Grice DẪN NHẬP* Khi phát ngôn, thông thường người nói đều “linh cảm” lời nói của mình có khả năng gây tổn hại đến sự tế nhị, phép xã giao trong giao tiếp mà các nhà nghiên cứu ngữ dụng học gọi là sự vi phạm “nguyên tắc lịch sự” (violation of politeness principle). Trong đa số các trường hợp, dù vô thức hay có ý thức, người nói đều cố “đền bù” sự vi phạm cho phát ngôn của mình bằng những cách nói sao cho sự tổn hại giao tiếp xuống đến mức tối đa. Yule gọi phương tiện đền bù ngôn ngữ này là “hedges”, được tạm dịch trong tiếng Việt là “lời rào đón” (LRĐ) và phát biểu: Có một vài cách diễn đạt mà người nói sử dụng để báo hiệu rằng họ đang có nguy cơ vi phạm nguyên tắc lịch sự. Những cách nói này được gọi là lời rào đón (1998: 38). Bài viết này điểm qua một vài khía cạnh của LRĐ dùng để (1) đền bù sự vi phạm “Ba chiến lược lịch sự” của Lakoff, (2) ngăn chặn “Hành vi đe doạ thể diện” của Brown và Levinson, và (3) đền bù sự vi phạm “Phương châm hội thoại” của Grice. PHÁT TRIỂN Lý thuyết về lịch sự (politeness) Thuật ngữ “phép lịch sự” của tiếng Việt và “Politeness” của tiếng Anh chỉ ra một phạm * Tel: 01647 087320 trù lớn trong giao tiếp học, ngữ dụng học cũng như các ngành văn hoá, xã hội học khác. Có nhiều định nghĩa khác nhau về lịch sự. Theo Robin Lakoff, đó là: Một hệ thống quan hệ liên nhân được thiết lập nhằm thúc đẩy giao tiếp thành công bằng cách giảm đến mức tối ta những tiềm năng xung đột và đối đầu vốn có trong giao tiếp của con người. (1990: 38) Richard dựa trên cơ sở ngôn ngữ để định nghĩa lịch sự là: Cách thức mà ngôn ngữ phản ánh khoảng cách xã hội giữa các thành viên giao tiếp và phản ánh các mối quan hệ của các vai giao tiếp khác nhau (1999: 281). Yule (1997) cho rằng lịch sự (thường là thông qua ngôn ngữ) có mối quan hệ chặt chẽ đến khoảng cách xã hội hoặc sự thân mật (informality), trang trọng (formality). Tóm lại, theo chúng tôi, lịch sự là quy củ của giao tiếp trong một nền văn hoá nào đó, được thực hiện thông qua các phương tiện khác nhau, đặc biệt là phương tiện ngôn ngữ, nó duy trì và làm cho tất cả mọi quan hệ giao tiếp của con người trong nền văn hoá ấy tồn tại và trở nên tốt hơn. Những cách tiếp cận lịch sự trong ngôn ngữ của một số tác giả Robin Lakoff đề xuất ba phương châm về lịch sự là: Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 66 - Không áp đặt (Don’t impose): Người nói không áp đặt chủ kiến của mình lên người nghe. - Đề xuất lựa chọn (Give options): Người nói trao cho người nghe quyền lựa chọn, hoặc cho phép người nghe quyết định sự lựa chọn.. - Làm người nghe hài lòng (Make H feel good): Người nói làm người nghe cảm thấy thoải mái để tiếp thu thông tin. Goffman (1981), Brown và Levinson (1997) tiếp cận lý thuyết lịch sự bằng khái niệm “thể diện” (Face). Theo Goffman (1981), thể diện là sự thể hiện giá trị xã hội của chính bản thân, là chính hình ảnh “cái tôi” (self-image) mà con người cần có và cần được gìn giữ một cách có hiệu quả trong tương tác xã hội. Các tác giả đề nghị phân chia thể diện ra làm hai loại chính: - Thể diện âm tính (negative face): Không thích người khác áp đặt cho mình, định hướng tự do cá nhân, mong không gặp trở ngại từ phía người khác. - Thể diện dương tính (positive face): Mong có được sự tán đồng, yêu thích từ phía người khác trong cộng đồng, định hướng sự đoàn kết.1 Hai loại thể diện này đòi hỏi người nói phải có những ứng xử sao cho người nghe cảm thấy thoả mãn về các nguyên tắc của chúng. Nếu người nói làm được, tức là họ đã đáp ứng được những nhu cầu thể diện (face wants) và hành vi giao tiếp của họ được gọi là hành vi gìn giữ thể diện (Face Saving Act - FSA). Khi người nói làm ngược lại FSA tức là họ đã khiến người nghe khó chịu, dễ tạo ra khả năng xung đột giao tiếp, thì đó là hành vi đe doạ thể diện (Face Threatening Act - FTA). Grice (1975: 158) giới thiệu khái niệm về nguyên tắc chung trong hội thoại mà tác giả 1 “negative” và “positive” là hai thuật ngữ được dùng để chỉ ra hai khuynh hướng lịch sự có đặc tính đối kháng nhau như hai cực của dòng điện. Từ đó, “negative” vì thế không có nghĩa là “bad” (tiêu cực),và từ “positive” không có nghĩa là “good” (tích cực) (Yule, 1997: 61-62). gọi là “nguyên lý cộng tác” (cooperative principle) trong đó gồm có một số các phương châm. Theo Grice, các phương châm này tuy không được nói ra, nhưng thông thường, người tham gia giao tiếp phải ngầm tuân thủ. Tác giả cũng cho là các phương châm được đưa ra chỉ là những phương châm nổi bật trong khái niệm “cộng tác hội thoại”, đó là phương châm Lượng (quanlity): Phần đóng góp của người nói có chứa lượng thông tin đúng như nó được đòi hỏi; Chất (quality): Phần đóng góp của người nói luôn là chân thật; Quan hệ (relevance): Phần đóng góp của người nói có liên quan đến chủ đề đang được nói. Cách thức (manner): Phần đóng góp của người nói nên mạch lạc, không mơ hồ. Có một số ý kiến tranh cãi về vấn đề “phương châm hội thoại” của Grice và không chia sẻ các phương châm này vì suy cho cùng thì giao tiếp của con người, theo đúng với phương châm hội thoại như thế là máy móc và không thể tránh khỏi hiện tượng “vi phạm” liên tục. Tuy nhiên cũng chính vì không thể tránh khỏi vi phạm mà người nói, như đã nói trên, dù ý thức hay không ý thức, bằng cách nào đó, cố tìm cách đền bù cho sự vi phạm này. Sự chọn lựa phổ biến nhất mà chúng ta có thể thấy là cách nói rào đón cho những gì mà người nói muốn hướng tới trong phát ngôn. Thật vậy, trong giao tiếp, người nói có vẻ như “nhận biết” được mình đang có khả năng vi phạm một hoặc một vài phương châm lịch sự nào đó. Ví dụ như, có thể họ đang vi phạm về phương châm “chất” (họ e ngại rằng họ đang bị đánh giá là quá quyết đoán) hoặc “quan hệ” hoặc “lượng” (họ e ngại rằng họ đang nói dài quá), về quan hệ (họ e ngại rằng họ đang nói lạc chủ đề), hoặc về cách thức (họ e ngại rằng họ đang nói thiếu mạch lạc, thiếu bố cục rõ ràng), v.v... Đứng về phương châm của Lakoff, người nói có cảm giác rằng câu nói của mình vi phạm phương châm 1 (không áp đặt) tiến đến sự phá vỡ phương châm 2 (đề xuất lựa chọn) và phương châm 3 (làm người nghe hài lòng). Trong khái niệm FTA của Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 67 Goffman, cũng như Brown và Levinson, người nói có khuynh hướng nhận thức được hành vi giao tiếp của mình có khả năng tạo xung đột bằng những phát ngôn đe doạ “cái tôi” của người nghe, làm người nghe cảm thấy e dè, ngượng nghịu, thất vọng, thậm chí bực tức,... Lời rào đón là gì? Quay lại với định nghĩa của Yule đã được đưa ra bên trên, có thể thấy LRĐ là một dấu hiệu (marker) trong diễn ngôn với mục đích làm giảm nhẹ bớt ảnh hưởng của phát ngôn, khiến phát ngôn nghe ít bị áp đặt, võ đoán hơn. Trong mối liên hệ với lịch sự, khi LRĐ hướng đến những mục đích giảm nhẹ phát ngôn thì cũng đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến việc đảm bảo các nguyên tắc lịch sự. Đó là đền bù nguy cơ phá vỡ những nguyên tắc mà tự thân phát ngôn luôn có tiềm năng tạo ra. Hình thức của LRĐ có thể là một âm thanh e hèm: - Uhm/Ehm, this dress doesn’t suit you. (Cái váy này không hợp với em đâu.) (Những âm thanh được dùng như LRĐ thường bị kéo dài.) hay một từ đơn: - Well/Honestly, this dress doesn’t suit you. hay một quán ngữ: - To be honest, this dress doesn’t suit you. hay một mệnh đề: - If I may say so, this dress doesn’t suit you. thậm chí là một sự gắn kết nhiều loại rào đón cùng một lúc với nhau - Uh, well, to be honest, this dress doesn’t suit you, if I may say so. Xưa nay, văn hoá của người Việt vốn chuộng lối nói năng tế nhị, ý tứ, thiên về duy tình hơn duy lý (“một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”) và coi trọng sự cân bằng các mối quan hệ. Nét văn hoá ấy thường làm cho người Việt có thói quen “rào trước đón sau” trong khi giao tiếp. Vì thế những phát ngôn kiểu tiếng Anh như trên cũng rất phổ biến, thậm chí còn có mầu sắc phức tạp hơn: - Ừm, cái váy này xem ra không hợp với chị nhỉ, em thấy thế, không biết có đúng không,.... LRĐ từ đó là một công cụ hữu hiệu để ngăn chặn những tiềm năng xung đột giao tiếp mà hầu như trong một phát ngôn nào dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể xảy ra. LRĐ như những phương tiện đền bù “hành vi đe doạ thể diện” LRĐ đền bù cho hành vi vi phạm 3 chiến lược lịch sự của Lakoff Với Lakoff, một trong những điều quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất để tránh tình trạng sốc giao tiếp là cách nói rào đón làm sao cho người nghe không có cảm giác bị áp đặt. Ví dụ trong một lời khuyên, lời kiến nghị, lời mời, người Anh có khuynh hướng sử dụng cấu trúc rào đón “If I were you”, “If you like”, “How/What about...?” để ngầm ý “trao quyền” quyết định cho người nghe. Với những cấu trúc như thế, người nghe chắc hẳn thấy thoải mái dễ chịu hơn để thực hiện ý định của người nói so với một cách nói ngắn gọn, cộc lốc thiếu hiệu quả giao tiếp. Xét mẩu đối thoại sau đây, chúng ta sẽ thấy hai người tham gia giao tiếp đều có ý thức đền bù những gì mà họ cho rằng có thể bị vi phạm: A: If you don’t mind, could you put on the fan, please? (Nếu không thấy phiền gì thì xin anh bật quạt giúp được không?) B: Sure, and how about opening the window? (Được chứ, thế thì cửa thế nào, anh có muốn mở không?) (A) đã tránh áp đặt bằng mẫu LRĐ “If you don’t mind” làm cho (B) có cảm giác có quyền không bật quạt nếu (B) thấy phiền. Đến lượt (B) thì “giao phó” sự lựa chọn đề nghị “mở cửa sổ” cho (A) suy xét. Những cách mà người Việt thường lựa chọn trong đền bù sự vi phạm nguyên tắc lịch sự trong tiếng Việt là “Hình như ...”, “Có lẽ ...”, “Dường như...”, “Hay là...”, “Nên chăng...”, “Nghe nói ...”. Ví dụ, khi thủ Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 68 trưởng một đơn vị tuyên bố bắt đầu buổi họp cơ quan bằng câu: Có khi ta bắt đầu làm việc nhé. thì LRĐ “có khi” giúp người nói mềm hoá trong hiệu lệnh, làm người nghe bắt đầu với tâm lý thoải mái hơn. Những dấu hiệu dụng học (pragmatic marker) như thế luôn là một khía cạnh thú vị trong nghiên cứu văn hoá và dịch thuật qua lại giữa hai thứ tiếng. LRĐ đền bù cho hành vi tạo FTA của Brown và Levison Để xem xét việc sử dụng các LRĐ giúp đương đầu với khả năng xảy ra FTA, thử phân tích sơ đồ của Brown và Levinson (1997) với năm cách “mượn một chiếc bút” sau đây. Trước tiên chúng ta có lược đồ lịch sự dương tính và âm tính do Brown và Levinson đề xuất như đã thể hiện bên dưới. Cách thứ nhất là sử dụng trực tiếp lời thỉnh cầu mà không cần đến LRĐ. Hành vi thỉnh cầu này tiềm ẩn “đe doạ thể diện” rất cao vì thiếu phương tiện rào đón tạo nên biểu thức thỉnh cầu lịch sự: Give me your pen. (Cho tớ mượn chiếc bút của cậu đi.) Cách thứ hai là dùng yếu tố đền bù lịch sự dương tính, làm cho hành động bớt nguy cơ FTA hơn bằng cách dùng các LRĐ báo hiệu sự “tỏ ra lạc quan”, “tin tưởng” rằng người nghe sẽ cho mình mượn. Ví dụ: I think you could lend me your pen. (Tớ nghĩ cậu có thể cho tớ mượn cây bút của cậu.) Cách thứ ba, dùng yếu tố đền bù lịch sự âm tính bằng cấu trúc phủ định, để chứng tỏ không muốn can thiệp vào quyền tự do hành động và quyền “không bị áp đặt” của người nghe: I don’t suppose you could lend me your pen. (Tớ không nghĩ cậu có thể cho tớ mượn cây bút của cậu.) Cách rào đón “tớ không nghĩ là” khá xa lạ với tiếng Việt vì nó thuộc về chiến lược tiêu biểu của lịch sự âm tính “tỏ ra bi quan” của người Anh, chứng tỏ sự sẵn sàng chấp nhận lời từ chối của phía người nghe thay vì “Tôi nghĩ là” trong LRĐ thuộc lịch sự dương tính, chỉ ra sự lạc quan tin tưởng rằng sẽ được chấp nhận lời thỉnh cầu. Tuy nhiên khi người nói tỏ ra quá chắc chắn rằng về sự đồng ý của người nghe thì cũng có nghĩa là họ đã áp đặt lên người nghe ý đồ của họ mà trường phái lịch sự âm tính thường coi là một hành vi FTA. 1. Không có hành động đền bù, thẳng thừng (without redressive action) 2. Lịch sự dương tính (Positive Politeness) Công khai (on record) Có hành động đền bù (With redressive actions) Gây ra FTA (Do the FTA) 3. Lịch sự âm tính (Negative Popliteness) 4. Không công khai (off record) 5. Không gây ra FTA (Do not do the FTA) Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 69 Cách thứ tư là không công khai hỏi mượn, chỉ gián tiếp chỉ ra rằng mình không có bút: I left my pen at home. (Tớ đã để quên cây bút ở nhà rồi.) Tuy nhiên, theo suy nghĩ của chúng tôi, đây cũng là một lới “ướm”2 trước khi người nói đặt vấn đề “mượn” cây bút. Người nói có thể phát triển thêm như sau: Tớ để quên cây bút ở nhà rồi. Chà, chà, biết làm sao đây nhỉ? Thế rồi quan sát thái độ của người nghe, người nói có thể đi vào cầu đề nghị: Cậu có thể cho tớ mượn cây bút của cậu được không? Cách thứ năm đơn giản là ta không làm/ nói điều gì có thể “đe dọa thể diện”. Ví dụ, người nói chỉ giả vờ lục tìm trong túi sách của mình. Tuy nhiên cách cuối cùng này thuộc chiến lược phi ngôn từ, có thể làm cho người nghe không hiểu ý, và như vậy, ý đồ giao tiếp của người nói có khả năng không thành công. Chiến lược “đền bù” các vi phạm phương châm hội thoại của Grice - Về chất: Một số lượng lớn LRĐ được sử dụng để đền bù về chất khi mà người nói “tự nhận thấy” hay cố tình tự cho là những điều mình đang nói ra là có thể không hoàn toàn xác đáng. Chúng được coi là có tác dụng hạn định giá trị chân thực của điều nói ra vào trong phạm vi ý kiến của chính người nói: “Theo chỗ tôi biết ...”, “Nếu tôi không nhầm ...”, “Theo tôi ...”, “Tôi cho rằng ...”, “Tôi không chắc lắm nhưng ...”, “Riêng tôi thì ...”, “(Theo) tôi nghĩ ...”, “Nghe nói ...”, “Nghe họ bảo ...”, 2 Diệp Quang Ban (2010:215) phân biệt lới nói “ướm” (pre-senquences) với LRĐ nhưng theo chúng tôi, những lời nói có chức năng như thế đều phục vụ cho sự “rào trước đón sau” của người giao tiếp và có thể đều được xếp vào cùng một phạm trù “che chắn” cho thông tin diễn ngôn. “Nghe đồn ...”, “Hình như có thông tin ...” v.v... Trong tiếng Anh, có các LRĐ khá trang trọng loại này như “As far as I know ...”, “I may be mistaken but ...”, “It is a rumor that ...”, “People say that ...”, “I think ...”, “I suppose ...”. Ví dụ phát ngôn sau đây: They told me that Boss is about to retire. (Thấy chúng nó bảo sếp sắp hết tuổi rồi.) Người nói có thể chắc chắn hoặc không chắc thông tin mà họ đưa ra nhưng rõ ràng là sẽ có chiến lược giao tiếp hơn so với một phát ngôn không có “che chắn” sau đây: Boss is about to retire. (Sếp sắp hết tuổi rồi.) Bởi lẽ, sự cam kết về chất lượng thông tin của phát ngôn trên quá tuyệt đối khiến người nói thấy có tiềm năng giao tiếp bất lợi, vì thế, họ vừa phải chuyển “trách nhiệm” thông báo thông tin cho một chủ thể mơ hồ “chúng nó/họ” vừa để chứng minh là mình có ý thức đang đền bù sự vi phạm phương châm hội thoại với cách thức “vờ” như là tin chưa được xác tín, chỉ là “Người ta nói vậy thôi. Tôi không nói”. - Về lượng: Những LRĐ cũng có thể được dùng để chỉ ra rằng người nói có ý thức về phương châm chỉ lượng, “phòng thủ” sự thừa thãi về thông tin mình đưa ra nên những lời mở đầu phát ngôn sau đây được tạo ra trong quá trình người nói đề cập đến kì nghỉ gần đây của mình: As you probably know, I am terrified of dogs. (Chắc là anh biết, tôi rất sợ chó.) I want to cut a long story short but if say for short you may not understand what was happening to me that time (Tôi muốn rút ngắn câu chuyện nhưng nếu tôi kể tóm tắt thì tôi lại sợ anh không hiểu được những gì đang xảy ra với tôi lúc ấy.) Trong cả hai ngôn ngữ, các cách nói kiểu này rất phong phú thường xuất hiện thông qua những mẫu gần như được làm sẵn (ready- made) như “As (far as) you know, in short, I Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 70 don’ want to kill your time, ... (Như anh đã biết, Tôi không muốn giết thời gian của anh, Nói ra hơi dài dòng một chút nhưng, Đại loại/Đại khái là, Nói tóm lại, Nói chung, Nói vắn tắt là, Nói nôm na là ...). Người nói tỏ ra cố gắng “rút ngắn” cho thông tin vừa đủ nhưng thực tế những cách rào đón như thế đôi khi không phản ảnh thực tế ý đồ thực sự muốn tuân thủ phương châm dựa trên những gì họ phát ngôn tiếp theo sau đó. - Về quan hệ: Khi người nói có ý thức về việc không đảm bảo được yêu cầu của “phương châm quan hệ”, nghĩa là nói những điều không nên, không đáng được nói ra hoặc lạc đề, họ càng có những hành vi che chắn bằng ngôn từ để chứng tỏ cho người nghe biết là những gì họ sắp nói ra không liên quan nhiều đối với chủ đề giao tiếp hoặc bị nhạy cảm nhưng cũng “không thể không nói”. Thực tế, đây cũng là một chiến lược tránh cho người nghe cảm giác đột ngột nhằm chỉ ra rằng người nói có “tự giác” về nguy cơ của chủ đề đang bị đi lệch hoặc không phù hợp: Not to change the subject, but why don’t you tell her about that? (Xin hỏi ra ngoài lề một chút, sao anh không nói với cô ấy về việc đó?) Người Việt thường dùng những quán ngữ như LRĐ như “Nói khí không phải ...”, “Nói khí vô phép ...”, “Nói bỏ ngoài tai ...”, “Nói trộm bóng ...”, “Nói của đáng tội ...”, “Nói anh bỏ quá cho ...”, “Không biết có nên nói không ...”, “Tiện đây ...”, “À nhân tiện ...” v.v... để “tự công nhận” mình đang vi phạm phương châm hội thoại và dùng chúng như là những phương tiện đền bù. - Về cách thức: Việc nhận thức được các mong muốn của người nghe về cách thức nói năng của người nói khiến người nói có khuynh hướng dùng rào đón để đền bù, ngăn chặn hiện tượng người nói cho là có khả năng vi phạm “phương châm rõ ràng”. Trong tiếng Anh là “I’m not sure but ...” (“Tôi không chắc lắm nhưng ...”), “That may be a bit confused but ...” (“Nếu không có gì nhầm lẫn ...”), “I’m not sure if what I’m talking about is clear to you but ...” (“Không biết tôi những gì tôi nói có rõ nghĩa không, ...”). Ví dụ: This may be a bit confused, but I was asleep. (Nếu tôi nhớ không nhầm thì lúc đó tôi đang ngủ.) Về sự đền bù cho nguyên tắc này, tiếng Việt đó là những quán ngữ như “Nếu tôi nhớ không nhầm thì ...”, “Hình như là ...”, “Có thể là ...”. THAY LỜI KẾT Tất nhiên LRĐ còn có thể có nhiều chức năng hơn nữa và tồn tại dưới nhiều hình thức ngôn ngữ và văn phong khác nhau. Trong giới hạn của một bài báo, chúng tôi chỉ giới thiệu LRĐ phổ biến trong giao tiếp bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Những phân tích, bình luận cũng chỉ giới hạn với những nguyên tắc lịch sự được đề ra bởi một số tác giả nổi tiếng trong nghiên cứu ngữ dụng học. Đây là vấn đề ngôn ngữ và văn hoá phản ánh được năng lực giao tiếp của người nói/viết vì vậy cũng là vấn đề cần được quan tâm trong học tiếng và dịch thuật. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diệp Quang Ban, (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (Sơ thảo), Nxb Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội. 2. Brown, P. & Levison, S., (1997). Politeness - Some Universals in Language Usage Phenomena, CUP. 3. Grice, H.P., (1969). Utterer’s Meaning and Intention, Philosophical Review No. 78 (147-177), 4. Goffman, E., (1981). Forms of Talk, University of Philadelphia Press, Philadelphia PA. 5. Lakoff, R., (1990). Talking Power-The Politics of Language, Basic Books. 6. Richards, J.C & Platt, J., (1999). Dictionary of Language Teaching & Applied Liguistics, Longman. 7. Yule, G., (1997). Pragmatics, OUP. Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71 71 SUMMARY HEDGES AS A “COMPENSATION” MEAN OF THE VIOLATIONS OF POLITENESS PRINCIPLES (BASED ON ENGLISH AND VIETNAMESE PRAGMATIC) Ngo Huu Hoang* University of Languages and International Studies - VNU As they are known, hedges are used to compensate the “violations” of politeness principles which the speaker may think, consciously or unconsciously, that he or she is causing while s/he is uttering. The paper, in that observation, discusses some issues of hedges in terms of some functions of (1) compensations for violations of “three politeness policies” by Lakoff, (2) prevention of the “face threatening act” by Brown and Levinson, and (3) compensations of the cooperative principle by Grice illustrated by English and Vietnamese. Keywords: hedges, politeness principles, Lakoff, Brown and Levison, Grice Ngày nhận bài:31/1/2014; Ngày phản biện:12/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014 Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thành Long – Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN * Tel: 01647 087320

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_48400_52315_992015859512_3093_2046515.pdf