Kinh tế xây dựng

6. Quy luật cạnh tranh trong thịtrường xây dựng xảy ra phổbiến dưới hình thức đấu thầu. 7. Quá trình cung cầu trong xây dựng xảy ra tương đối không liên tục nhưcác ngành khác, vì vậy việc xây dựng các công trình chỉxảy ra một cách gián đoạn và phụthuộc vào chu kỳkhủng hoảng kinh tế. Thịtrường xây dựng phụthuộc vào thịtrường đầu tư, nhất là lãi suất vay tín dụng để đầu tưvà vào mức thu lợi đạt được của đầu tư. 8. Trong xây dựng khôngcó giá thống nhất cho sản phẩm toàn vẹn. Chiến lược và chính sách giá cảcủa các nhà thầu xây dựng khó linh hoạt. Có ý kiến cho rằng vai trò của chiến lược giá cảtrong xây dựng không quan trọng bằng các ngành khác. 9. Marketing trong xây dựng được tiến hành cá biệt cho từng trường hợp tranh thầu và không tiến hành hằng loạt. Quảng cáo xây dựng được tiến hành chủyếu thông qua các thành tích đã đạt được của các chủthầu xây dựng trong việc xây dựng các công trình. 10. Vai trò của Nhà nước đối với ngành xây dựng tương đối lớn hơn so với các ngành khác, vì xây dựng có liên quan đến vấn đềsửdụng đất đai, bảo vệmôi trường và nguồn vốn đầu tưcủa Nhà nước cho các công trình phục vụcông cộng tương đối lớn.

pdf132 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1943 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dùng để tính toán. sdT 5. Các phương pháp so sánh lựa chọn phương án quy hoạch hợp lý: a. Phương pháp so sánh lựa chọn phương án quy hoạch có cùng đặc điểm, tính chất cơ cấu và quy mô: Khi các phương án quy hoạch có cơ cấu, quy mô về dân số và diện tích giống nhau, chỉ khác nhau về vốn đầu tư và chi phí sử dụng hằng năm do các phương án có sự thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng, thay đổi một số tiêu chuẩn sử dụng diện tích đất đai và mức độ hiện đại của các cơ sở hạ tầng ... Trường hợp này nên dùng chỉ tiêu “Tổng chi phí và sử dụng hằng năm” để so sánh, kết hợp với một hệ chỉ tiêu bổ sung. b. Phương pháp so sánh lựa chọn phương án quy hoạch khi các phương án so sánh khác nhau về quy mô, cơ cấu chức năng và chất lượng sử dụng: Trường hợp so sánh này thường xảy ra khi các phương án so sánh khác nhau về quy mô dân số, diện tích đất, vốn đầu tư, đồng thời có sự khác nhau về cấu trúc chức năng của đô thị và mức độ hiện đại của các tiện nghi phục vụ cũng khác nhau. Thì việc so sánh các phương án thông qua các chỉ tiêu: - Khối lượng tiền tệ sử dụng và thu được (đồng). - Khối lượng hiện vật thu được có các đơn vị đo khác nhau (m2, ha, km, người...). - Chất lượng của giải pháp quy hoạch. Có chỉ tiêu tính trực tiếp từ bản vẽ, nhưng cũng có chỉ tiêu xác định gián tiếp thông qua việc cho điểm. Vì vây trường hợp này phải dùng phương pháp so sánh bằng chỉ số tổng hợp xếp hạng các phương án hay con gọi là chỉ tiêu tổng hợp không đơn vị đo./. Phần III MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGÀNH XÂY DỰNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHUNG CÓ LIÊN QUAN Chương 9: (5tiết) KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ XÂY DỰNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ XÂY DỰNG 9.1. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG XÂY DỰNG: 9.1.1. Quản lý kinh tế trong xây dựng: Quản lý kinh tế trong xây dựng là sự tác động một cách liên tục, có tổ chức, có hướng đích đến nền kinh tế trong xây dựng bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp: kinh tế - xã hội, tổ chức - kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất của quá trình kinh tế trong những điều kiện xác định cụ thể và trên cơ sở vân dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách quan nói chung và các đặc điểm vận động của chúng nói riêng trong lãnh vực kinh tế xây dựng. 9.1.2. Cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng: Cơ chế quản lý kinh tế xây dựng là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý trong xây dựng trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, chủ yếu là quy luật kinh tế, phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của trường hợp đang xét, là công cụ của chủ thể quản lý để điều khiển đối tượng bị quản lý. Cơ chế quản lý kinh tế xây dựng thể hiện ở hệ thống và các hình thức tổ chức quản lý kinh tế và các phương pháp quản lý kinh tế xây dựng. Các bộ phận cấu thành chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế xây dựng: - Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế xây dựng và quá trình quản lý điều hành, - Hệ thống lập kế hoạch xây dựng, - Hệ thống hạch toán sản xuất - kinh doanh xây dựng, - Hệ thống các chính sách và đòn bẩy kinh tế trong xây dựng, - Hệ thống pháp luật có liên quan đến ngành xây dựng và các quy chế, thể lệ quản lý kinh tế khác trong xây dựng. 9.1.3. Nội dung khoa học quản lý kinh tế xây dựng: Khoa học quản lý kinh tế xây dựng bao gồm các nội dung chính sau: 1. Các cơ sở về phương pháp luận và lý luận quản lý kinh tế, các nguyên tắc và phương pháp quản lý kinh tế chung được vận dụng và ngành xây dựng. 2. Tổ chức quản lý xây dựng, bao gồm các vấn đề về chức năng quản lý, cơ cấu tổ chức quản lý và cán bộ quản lý trong xây dựng. 3. Quá trình quản lý kinh tế xây dựng, bao gồm các vấn đề về nội dung quá trình quản lý, tổ chức quá trình quản lý và công nghệ quản lý trong xây dựng. 4. Hoàn thiện hệ thống quản lý ngành xây dựng, bao gồm các vấn đề: hiệu quả quản lý kinh tế, phân tích kinh tế của quản lý, tổ chức cải tiến quản lý và triển vọng phát triển hệ thống quản lý kinh tế trong xây dựng. Những vấn đề về khoa học quản lý kinh tế đã được trình bày trong các sách giáo khoa chuyên ngành, ở đây chỉ vận dụng một số vấn đề về khoa học quản lý nói chung vào ngành kinh tế xây dựng, và được xem xét ở góc độ quản lý Nhà Nước và quản lý doanh nghiệp. 9.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG XÂY DỰNG: 9.2.1. Vai trò và nhiệm vụ quản lý của Nhà Nước về kinh tế nói chung: Kinh nghiệm phát triển kinh tế của thế giới đã chỉ rõ trong bất kỳ chế độ kinh tế nào cũng đều cần phải có vai trò quản lý của Nhà Nước về kinh tế. Sự khác nhau ở đây là ở mức độ, phương thức và mục đích quản lý của Nhà Nước. Trong nền kinh tế thị trường tự do nền kinh tế bị điều khiển bởi “bàn tay vô hình” là giá cả. Trong nền kinh tế hỗn hợp, bên cạnh bàn tay vô hình đó còn có “bàn tay hữu hình” của Nhà Nước tham gia vào quá trình điều khiển nền kinh tế. Những nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước bao gồm: 1. Xây dựng định hướng kinh tế - chính trị cho đất nước, xây dựng các chiến lược định hướng về kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ, các quy hoạch định hướng dài hạn về kinh tế ngành và lãnh thổ, có biện pháp điều chỉnh vĩ mô để bảo đảm những cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân và tiêu dùng xã hội. 2. Tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển kinh tế và sản xuất - kinh doanh cho đất nước thông qua việc ban hành, hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện pháp luật, các chính sách kinh tế đối nội và đối ngoại, chế độ quản lý kinh tế và khoa học công nghệ, quản lý công tác tiêu chuẩn và định mức kinh tế - kỹ thuật chủ yếu. 3. Tạo môi trường kinh tế và xã hội thuận lựi cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, có các biện pháp vĩ mô thích hợp để hướng dẫn, kích thích, điều tiết, phối hơp hoạt động của các tổ chức sản xuất kinh doanh và cơ quan quản lý các cấp để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển tốt. 4. Điều hòa phân phối thu nhập giữa các tầng lớp và bộ phận xã hội, kết hợp tốt giữa các mặt kinh tế và xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. 5. Bảo đảm cho việc sử dụng tài nguyên hợp lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường, xây dựng các kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, điện, nước ...) và kết cấu hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa ...) để đảm bảo phát triển kinh tế và cải thiện điều kiện sống của mọi người. 6. Tổ chức các doanh nghiệp Nhà Nước để tham gia điều tiết thị trường và thực hiện các công vệc sản xuất mà chỉ có Nhà Nước mới nhận được. 7. Xây dựng chính sách cán bộ, quy định chức danh và tiêu chuẩn cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và xử lý vấn đề cán bộ thuộc thẩm quyền Nhà Nước. 8. Thực hiện sự kiểm soát của Nhà Nước đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế, chống các hiện tượng tiêu cực trong kinh tế và xã hội. 9. Đảm bảo phát triển đất nước theo đúng định hướng kinh tế - chính trị xã hội đã được đề ra theo các đường lối của Đảng và Nghị quyết của quốc hội. 10. Thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa một cách hợp lý. 11. Xây dựng các chiến lược và kế hoạch định hướng về kinh tế - xã hội để đẩy mạnh phát triển kinh tế đúng hướng. 12. Học tập kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường và vận dụng tốt các kinh nghiệm đó vào hoàn cảnh nước ta để xây dựng các luật lệ, thể chế và phương thức quản lý kinh tế phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới và chủ trương hợp tác kinh tế rộng rãi với nước ngoài ... 9.2.2. Một số đặc điểm phân biệt giữa quản lý Nhà Nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: Những điểm khác nhau căn bản giữa quản lý Nhà Nước về kinh tế và quản lý sản xuất - kinh doanh ở các doanh nghiệp là: 1. Về chủ thể quản lý, Nhà Nước là chủ thể quản lý duy nhất đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, còn chủ doanh nghiệp là chủ thể quản lý ở từng khu vực sản xuất - kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. 2. Về phạm vi và quy mô quản lý, quản lý kinh tế của Nhà Nước thuộc tầm vĩ mô bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân, còn quản lý sản xuất - kinh doanh chỉ trong phạm vi từng doanh riêng rẽ. 3. Về mục tiêu quản lý, quản lý kinh tế của Nhà Nước có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ quyền lợi Quốc gia trên trường quốc tế, bảo vệ những lợi ích có tính chất chung nhất cho mỗi thành viên trong cộng đồng, chú ý đến các lợi ích dài hạn.Còn quản lý sản xuất - kinh doanh xuất phát chủ yếu từ lợi ích trực tiếp của doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp luật Nhà Nước cho phép. 4. Về phương hướng và nội dung phát triển kinh tế, cơ quan quản lý của Nhà Nước chủ yếu đề ra kế hoạch và chiến lược định hướng, các dự báo và thông tin về tình hình thị trường, điều tiết lợi ích cho toàn xã hội. Quản lý sản xuất - kinh doanh phải tự chủ đề ra các kế hoạch sản xuất - kinh doanh cụ thể, tự chịu trách nhiệm về tài chính, lỗ lãi và rủi ro, được hưởng các lợi ích chính đáng và chịu sự điều tiết lợi ích của Nhà Nước. Riêng đối với khu vực kinh tế Nhà Nước thì vai trò quản lý kinh tế của Nhà Nước có mức độ cụ thể và trực tiếp hơn, nhưng cũng không can thiệp quá sâu vào quá trình sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Các cơ quan Nhà Nước chỉ tạo ra môi trường thuận lợi cho kinh doanh thông qua các chiến lược, định hướng, dự báo, thông tin pháp luật, chính sách, cơ chế quản lý và điều hòa lợi ích xã hội. Còn các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hoạt động trong môi trường trên trong những khuôn khổ nhất định về luật pháp. 5. Về tổ chức bộ máy quản lý và nội dung quá trình quản lý kinh tế thì cả hai lãnh vực quản lý kinh tế của Nhà Nước và quản lý sản xuất - kinh doanh đều có những nét chung dựa trên cơ sở của khoa học quản lý, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt giữa quản lý vĩ mô với quản lý vi mô ở cấp doanh nghiệp. Nhà Nước đóng vai trò hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát và kiểm tra đối với các doanh nghiệp bằng các phương pháp thích hợp. Còn các doanh nghiệp đóng vai trò bị quản lý và kiểm tra. 6. Về phương pháp và công cụ quản lý, Nhà Nước quản lý kinh tế vừa bằng quyền lực thông qua pháp luật và các quy định hành chính có tích chất bắt buộc, vừa bằng các biện pháp kinh tế thông qua các chính sách kinh tế. Ở các doanh nghiệp, việc quản lý sản xuất - kinh doanh chủ yếu bằng phương pháp kinh tế và nghệ thuật kinh doanh. Các tổ chức kinh doanh là những đơn vị tự chủ, có tư cách pháp nhân và bình đẳng trước pháp luật, chịu sự kiểm tra của cơ quan Nhà Nước. 7. Về tài chính, cơ quan quản lý Nhà Nước hoạt động bằng nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà Nước. Còn các doanh nghiệp hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính, bằng vốn tự có hay tín dụng, tự hạch toán kinh doanh, 9.2.3. Một số đặc điểm về vai trò quản lý của Nhà Nước trong ngành xây dựng: Những vấn đề về vai trò và nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà Nước nối chung và sự khác biệt giữa quản lý của Nhà Nước về kinh tế và quản lý sản xuất - kinh doanh ở trên đều phù hợp với chuyên ngành kinh tế xây dựng. Sau đây là một số vấn đề cụ thể cho ngành xây dựng. Vì ngành xây dựng là một ngành có liên quan nhiều đến môi trường sống của xã hội, đến việc sử dụng các tài nguyên và đất đai của Quốc gia và tiêu tốn một nguồn vốn lớn của Nhà Nước và xã hội, nên sự căn thiệp của Nhà Nước và lãnh vực xây dựng thường mạnh hơn so với các lãnh vực khác. Nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà Nước trong lãnh vực xây dựng bao gồm những vấn đề: 1. Xây dựng các chiến lược phát triển, kế hoạch định hướng, thông tin, dự báo trong ngành xây dựng đề hướng dẫn kinh doanh trong xây dựng. Đặc biệt là phải chủ động quy hoạch xây dựng định hướng cho các địa phương và vùng lãnh thổ để làm căn cứ hướng dẫn hoạt động cho các chủ đầu tư và chủ thầu xây dựng. 2. Xây dựng luật pháp, các quy chế và chính sách quản lý kinh tế cho ngành xây dựng, nhất là luật xây dựng và các luật có liên quan như: luật công ty, luật thuế, luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường, luật đất đai, luật đấu thầu ... có tính đến các đặc thù của ngành xây dựng một cách hợp lý. 3. Tạo môi trường kinh tế thuận lợi và khuôn khổ pháp lý cho kinh doanh xây dựng thông qua các kế hoạch định hướng, dự báo, thông tin, luật pháp và các chính sách kinh tế trong xây dựng. 4. Điều hòa thu nhập giữa chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng, người lao động xây dựng và lực lượng dich vụ, tư vấn, thiết kế ... phục vụ xây dựng, có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với ngưòi lao động trong xây dựng vì điều kiện lao động nặng nhọc 5. Bảo vệ đất đai, tài nguyên và môi trường từ khâu quy hoạch địa điểm xây dựng, đến giai đoạn thi công xây lắp và vận hành công trình. 6. Đề ra các biện pháp chống thất thoát vốn của Nhà Nước cấp phát cho xây dựng kể từ khâu xác định chủ trương, phân phối vốn đầu tư, quy hoạch, thiết kế và thi công xây lắp công trình. Quản lý nguồn vốn đầu tư, không chỉ những nguồn vốn ngân sách Nhà Nước mà còn cả các nguồn vốn đầu tư khác để có các biện pháp thích hợp đảm bảo cân đối tổng thể cho nền kinh tế quốc dân. 7. Đề ra các biện pháp bảo đảm chất lượng công trình để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và an toàn cho xã hội. 8. Tổ chức các doanh nghiệp xây dựng quốc doanh để thực hiện xây dựng các công trình mà các thành phần kinh tế khác không đủ năng lực thực hiện hay không nuốm làm do lợi nhuận thấp và độ rủi ro cao, hoặc để thực hiện các công trìnhcó tầm quan trọng sống còn đối với đất nước, và các công trình hợp tác với nước ngoài. 9. Quản lý đồng bộ ngành xây dựng từ khâu hoạt động đầu tư của các chủ đầu tư đến khâu thi công xây lắp của chủ thầu xây dựng. 10. Có chủ trương hợp tác quốc tế đúng đắn trong lãnh vực xây dựng, chuẩn bị lực lượng xây dựng để đủ sức hợp tác xây dựng các công trình đầu tư của các nước ngoài với đòi hỏi chất lượng cao. 11. Trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 177/CP còn quy định những nội dung cụ thể của quản lý đầu tư và xây dựng. Chương 10: H Ệ THỐNG KINH TẾ XÂY DỰNG Hệ thống kinh tế xây dựng bao gồm: Thứ nhất là hệ thống tổ chức bộ máy quản lý xây dựng với các chức năng và quá trình điều hành quản lý của nó với tư cách là chủ thể quản lý. Thứ hai, là cơ cấu kinh tế của ngành xây dựng cùng với quá trình diễn biến của nền kinh tế xây dựng với tư cách là đối tượng và sự vật bị quản lý trong ngành xây dựng. Trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế xây dựng, mỗi cấp quản lý vừa đóng vai trò chủ thể quản lý đối với cấp dưới lại vừa đóng vai trò bị quản lý đối với cấp trên của nó. 10.1. HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ KINH TẾ X ÂY DỰNG CỦA NHÀ NƯỚC: 10.1.1. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế xây dựng của Nhà Nước kể từ trên xuống dưới gồm các bộ phận chính sau: 1. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước có nhiệm vụ thông qua các bộ luât, chủ trương lớn và ngân sách Nhà Nước, trong đó có các luật, chủ trương và ngân sách thuộc lãnh vực xây dựng. 2. Trong Chính phủ, cơ quan điều hành có quyền lực cao nhất của đất nước, có phó thủ tướng phụ trách lãnh vực xây dựng. Giúp việc cho chính phủ có các văn phòng đặc trách, các chuyên viên trợ lý và uỷ ban, các viện nghiên cứu có nhiệm vụ tham mưu và theo dõi giúp Chính phủ quản lý lãnh vực xây dựng. 3. Ở cấp Bộ, Ngành trung ương các cơ quan quản lý xây dựng hoặc có liên quan đến xây dựng đươc tổ chức như sau: a. Ở tất cả các bộ ngành trung ương đều có một tổ chức chuyên lo việc đầu tư xây dựng cho Bộ hoặc ngành mình, chủ yếu là các dự án đầu tư thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở một số bộ và ngành có khối lượng xây dựng chuyên ngành lớn còn tự tổ chức ra các doanh nghiệp xây quốc doanh để tiến hành xây dựng các công trình của bộ hoặc ngành mình theo các quan hệ tổ chức nhất định giữa chủ đầu tư (A) và chủ thầu xây dựng (B). Tuy nhiên, theo xu hướng chung các bộ và ngành sẽ dần dần từng bước chỉ làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về kinh tế và không làm nhiệm vụ quản lý sản xuất kinh doanh. Do đó, trong thành phần cấu tạo của các bộ, ngành sẽ không còn có các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh, và không còn khái niệm Bộ chủ quản đối với chúng. b. Ở cấp bộ, ngành trung ương còn có một số tổ chức có liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng như: Bộ kế hoạch và đầu tư (là cơ quan chịu trách nhiệm phân phối vốn đầu tư của ngân sách nhà nước và lập kế hoạch định hướng phát triển ngành xây dựng), bộ Tài chính, ngân hàng nhà nước, ngân hàng đầu tư và phát triển, bộ Khoa học công nghệ và môi trường, bộ Lao động - Thương binh xã hội, Uỷ ban vật giá, các viện nghiên cứu về xây dựng, các cơ quan trọng tài kinh tế, bảo hiểm, kiểm toán ... Ở đây cần nhấn mạnh vai trò của tổng cục doanh nghiệp và tổng cục quản lý đầu tư và phát triển nằm trong bộ Tài chính. 4. Ở cấp Tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh là cơ quan cao nhất phê duyệt các vấn đề về xây dựng, uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan thực hiện các chủ trương về xây dựng đó. Dưới cấp UBND Tỉnh có sở xây dựng chịu trách nhiệm quản lý và thực hiện công việc xây dựng của Tỉnh. Ở các sở và ngành của tỉnh có các bộ phận phụ trách xây dựng của sở và ngành mình. Ở một số sở và ngành có nhiệm vụ xây dựng chuyên ngành lớn cũng tự tổ chức ra các doanh nghiệp xây dựng quốc doanh đia phương để xây dựng cho sở hoặc ngành mình như sở Thuỷ lợi, sở giao thông công chính ... Các tổ chức khác có liên quan chặt chẽ đến công tác xây dựng của Tỉnh như uỷ ban Kế hoạch tỉnh, sở tài chính, ngân hàng, sở lao động ... Tuy nhiên, theo xu hướng chung các sở, ngành của tỉnh sẽ chỉ làm nhiệm vụ quản lý của nhà nước ở cấp tỉnh và không có nhiệm vụ trực tiếp quản lý sản xuất - kinh doanh. 5. Ở cấp Huyện tổ chức quản lý xây dựng cũng tương tự. Những vấn đề về xây dựng cũng do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện quyết định. Dưới sự chỉ đạo của HĐND và UBND huyện có phòng xây dựng chịu trách nhiệm quản lý vấn đề về xây dựng. Phòng Thuỷ lợi và giao thông huyện cũng có nhiệm vụ quản lý xây dựng thuộc chuyên ngành mình. Các cơ quan liên quan đến xây dựng cấp huyện có phòng kế hoạch, phòng tài chính, ngân hàng ... của huyện. Theo khuynh hướng chung chức năng quản lý nhà nước đối với tất cả các doanh nghiệp phải được phân biệt rõ ràng với chức năng chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Các chức năng về chủ sở hửu đối với doanh nghiệp nhà nước được tập trung vào một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn và tài sản công. Cơ quan này đại diện cho chủ sở hữu đối với những cổ phần của nhà nước tại các công ty. Tổng cục doanh nghiệp và tổng cục đầu tư và phát triển nằm trong bộ tài chính có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện chức năng này. 10.1.2. Trong vấn đề tổ chức quản lý kinh tế nhà nước, bên cạnh vấn đề cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, còn các vấn đề về chức năng quản lý và cán bộ quản lý: Các chức năng quản lý của nhà nước theo quan điểm của khoa học quản lý cũng bao gồm các vấn đề: xác định chiến lược, mục tiêu và kế hoạch định hướng, thực hiện các biện pháp quản lý thích hợp ở tầm vĩ mô. Cán bộ quản lý nhà nước, trong đó có cán bộ quản lý kinh tế được phân thành: Nhóm cán bộ dân cử, nhóm công chức, viên chức hành chính sự nghiệp, trong đó có ngành xây dựng. Nhà nước đã ban hành tiêu chuẩn về năng lực và trình độ phải có cho từng loại cán bộ, công chức, viên chức nhà nước này. 10.2. CƠ CẤU KINH TẾ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ CỦA ĐẦU TƯ: 10.2.1. Khái niệm: Cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp xây dựng là tổng thể các bộ phận hợp thành của nó cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác giữa các bộ phận hợp thành ấy. Cơ cấu của đầu tư xây dựng cũng được định nghĩa tương tự. Cơ cấu đầu tư xây dựng có mối liên hệ chặt chẽ với cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp xây dựng, vì công việc xây dựng là do các dự án đầu tư mà có. 10.2.2. Cơ cấu đầu tư: Cơ cấu đầu tư là kết quả hoạt động của tất cả các chủ đầu tư dựa trên nhu cầu của thị trường và định hướng của nhà nước. Cơ cấu đầu tư xây dựng có thể xem xét ở các góc độ: - Cơ cấu theo ngành nghề sản xuất - Cơ cấu theo điạ phương và vùng lãnh thổ - Cơ cấu theo thành phần kinh tế - Cơ cấu theo nguồn vốn - Cơ cấu phân bổ theo thời gian - Cơ cấu theo hình thức đầu tư: đầu tư chiều rộng, chiều sâu, đầu tư lại, đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng... - Cơ cấu theo dự án, chương trình và theo góc độ hợp tác quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước, cơ cấu đầu tư xây dựng hình thành chủ yếu theo nhu cầu của thị trường do các chủ đầu tư quyết định theo định hướng của nhà nước. Ở nước ta những định hướng cơ bản về cơ cấu theo ngành nghề sản xuất, theo địa phương và vùng lãnh thổ, theo thành phần kinh tế…đã được thông qua và trình bày trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ VII. Từ đó có thể rút ra định hướng cho cơ cấu đầu tư xây dựng. 10.2.3. Cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp xây dựng: 1. Cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp xây dựng cũng được phân thành: - Cơ cấu theo chuyên ngành sản xuất sản phẩm xây dựng: dân dụng, công nghiệp, thuỷ lợi, giao thông vận tải, nông nghiệp... - Cơ cấu theo khu vực sản xuất: khu vực sản xuất, phi sản xuất - Cơ cấu theo điạ phương và vùng lãnh thổ - Cơ cấu theo thành phần kinh tế - Cơ cấu theo nguồn vốn - Cơ cấu phân bổ theo thời gian - Cơ cấu theo trình độ công nghiệp hoá - Cơ cấu theo dự án đầu tư, theo chương trình và theo góc độ hợp tác quốc tế. 2. Các chỉ tiêu dùng để tính toán cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp xây dựng thường là: - Giá trị sản phẩm công tác xây lắp đã thực hiện - Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp xây dựng - Thu nhập quốc dân trong ngành công nghiệp xây dựng 3. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế xây dựng: - Phụ thuộc chặt chẽ vào cơ cấu đầu tư của nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội - Chịu sự tác động của Nhà nước và thị trường vừa trực tiếp vừa thông qua cơ cấu đầu tư xây dựng. - Sự can thiệp của Nhà nước vào cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp xây dựng tương đối mạnh hơn so với các ngành khác - Cơ cấu của ngành kinh tế xây dựng theo năng lực chủ quan và theo nhiệm vụ khách quan luôn luôn không trùng khớp với nhau và biến động mạnh theo thời gian và địa điểm. - Công tác xây dựng ở nước ta hiện nay còn phân tán vào nhiều ngành và bộ thực hiện và quản lý, không thuộc một ngành quản lý như nhiều ngành khác ™ Chú ý: Trong nền kinh tế thị trường, các nhà thầu xây dựng có thể hành nghề trên toàn lãnh thổ, vì vậy để giảm chi phí di chuyển lực lượng xây dựng, hình thức liên kết các lực lượng xây dựng theo chuyên ngành với các lực lượng xây dựng địa phương tại chỗ với nhiều thành phần kinh tế khác nhau để thực hiện một công trình sẽ trở nên phổ biến. Việc phát triển các cơ sở cho thuê máy xây dựng tại chỗ với sự phát triển đồng đều ngành vật liệu xây dựng để tạo điều kiện cho việc nhận thầu xây dựng dễ dàng ở bất kỳ nơi nào là một điều cần thiết. 10.3. QUÁ TRÌNH KINH TẾ TRONG NGÀNH XÂY DỰNG: 10.3.1. Các quy luật quyết định sự vận động của hệ thống kinh tế trong ngành xây dựng: Hệ thống kinh tế xây dựng vận động tuân theo quy luật khách quan về kỹ thuật - sản xuất - kinh tế trong điều kiện của nền kinh tế xây dựng. Trong cơ chế kinh tế thị trường các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh ... đóng vai trò ảnh hưởng quyết định đối với nền kinh tế xây dựng. Những quy luật này khi hoạt động trong ngành xây dựng đều có những nét đặc biệt. Ví dụ cung và cầu trong xây dựng xảy ra có tính chất đơn chiếc và tương đối gián đoạn, giá trị công trình được quyết định thông qua đấu thầu, hình thức cạnh tranh trong xây dựng xảy ra chủ yếu thông qua đấu thầu, thị trường tác động đến ngành công nghiệp xây dựng bằng hai con đường: trực tiếp và thông qua cơ cấu đầu tư xây dựng của các chủ đầu tư... Trên cơ sở nắm vững quy luật khách quan các tổ chức quản lý kinh tế xây dựng phải đưa ra một cơ chế vận dụng các quy luật khách quan đó. Một cách khái quát nhất, cơ chế quản lý kinh tế xây dựng hiện nay cũng đi theo hướng chung: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 10.3.2. Quá trình kinh tế trong ngành xây dựng Quá trình kinh tế trong ngành xây dựng là tổng hợp các quá trình trong kinh tế và sản xuất - kinh doanh trong toàn ngành dưới sự quản lý của Nhà nước và bao gồm hai bộ phận chính: quá trình quản lý kinh tế, sản xuất - kinh doanh của chủ thể quản lý và quá trình vận động của bản thân nền kinh tế và hệ thống sản xuất - kinh doanh với tư cách là một quá trình khách quan bị quản lý. 1. Quá trình quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh trong ngành xây dựng Quá trình quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh trong ngành xây dựng bao gồm quá trình quản lý kinh tế c ủa Nhà nước ở tầm vĩ mô và các quá trình quản lý sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp ở cơ sở. Nội dung của quá trình quản lý này đều có những nét chung xuất phát từ khoa học quản lý và thường bao gồm: Thứ nhất, quá trình quản lý sự việc theo các chức năng, xác định mục tiêu, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kích thích và kiểm tra. Thứ hai, quá trình quản lý con người trong quá trình quản lý kinh tế và sản xuất - kinh doanh ... Thứ ba, quá trình ra quyết định quản lý. Các quá trình này ở cấp quản lý Nhà nước có những nét khác biệt so với quản lý sản xuất - kinh doanh ở các doanh nghiệp. 2. Quá trình vận động của nền kinh tế trong xây dựng Quá trình vận động của nền kinh tế trong xây dựng dưới góc độ toàn ngành có thể bao gồm các bộ phận sau: a. Quá trình sản xuất sản phẩm và kinh doanh xây dựng toàn ngành: việc tham gia vào quá trình xây dưng nên công trình là cả một quá trình sản xuất xã hội lâu dài với nhiều lực lượng xã hội. Tuy nhiên giai đoạn cuối cùng của việc hình thành công trình các lực lượng chủ yếu ở đây là: các chủ đầu tư; chủ thầu xây dựng; các tổ chức tư vấn về quy hoạch, thiết kế; dịch vụ xây dựng; các cơ quan Nhà nước có liên quan; các lực lượng xây dựng trực tiếp, các tổ chức cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất xây dựng. b. Mối quan hệ liên ngành về nhu cầu sản phẩm: mối quan hệ liên ngành trong việc cung cấp sản phẩm đầu vào cho quá trình sản xuất xây dựng, người ta thường dùng các mô hình cân đối liên ngành; thể hiện thông qua khối lượng sản phẩm của một ngành i nào đó cần phải sản xuất cho ngành xây dựng, ngoài ra cũng tính đến một vài nhu cầu cho các lãnh vực khác gián tiếp tham gia vào việc cung cấp sản phẩm cho ngành xây dựng c. Quá trình lưu thông tiền tệ của quá trình sản xuất - kinh doanh xây dựng trong toàn ngành Song song với quá trình sản xuất sản phẩm xây dựng cũng xảy ra đồng thời quá trình vận động của tiền tệ kể từ đầu vào đến đầu ra của quá trình sản xuất (còn gọi là dòng sản phẩm danh nghĩa). Quá trình vận động của tiền tệ trong toàn ngành xây dựng là tổng hợp quá trình tiền tệ của các doanh nghiệp riêng rẽ dưới tác động của Nhà nước theo sơ đồ Tiền - Hàng - Tiền. Để tác động lên quá trình này Nhà nước phải đề ra các chính sách vĩ mô về ngân hàng, tài chính, tín dụng, quản lý và phân phối nguồn vốn cho xây dựng (nhất là phần của ngân sách nhà nước), thuế, chế độ thanh quyết toán, kiểm tra và kiểm toán ... phù hợp với đặc điểm của ngành xây dựng. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn dành cho xây dựng được mô tả ở sơ đồ sau: Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn dành cho xây dựng được mô tả ở sơ đồ sau: Khu vực kinh tế ngoài nước Khu vực các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh Khu vực Nhà nước Tài trợ của Nhà nước Thuế trực thu Thuế gián thu Thanh toán mua sản phẩm cho Nhà nước hoạt động Khu vực hình thành cho tài sản cố định và lưu động và các tài sản khác Khu vực ngân sách của các hộ gia đình tư nhân Thu nhập Th uế tr ực ti ếp Thanh toán chuyển giao K hấu hao của các D N Đ ầu tư v à X D ch o D N Tiết kiệm của dân chúng Xây dựng cho dân chúng (nhà ở) d. Quá trình thông tin trong quá trình sản xuất - kinh doanh xây dựng trong toàn ngành Trong nền kinh tế thị trường thông tin cũng là nguồn của cải. Thông tin cho quá trình sản xuất xây dựng cũng chủ yếu là nguồn thông tin thị trường đầu vào, thông tin điều khiển nội bộ quá trình điều hành sản xuất và thông tin thị trường đầu ra. Trong hoạt động xây dựng, Nhà nước cũng phải cung cấp những thông tin cần thiết như: dự báo thị trường xây dựng, các chiến lược định hướng, tình hình cung cầu trong xây dựng, các thành tựu và kinh nghiệm trong lãnh vực xây dựng, các thể chế và luật lệ có liên quan ... Bên cạnh các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải thực hiện chức năng thông tin, hiện nay mạng lưới các tổ chức kinh doanh và dịch vụ thông tin đang được mở rộng và phát huy tác dụng. 10.4. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PH ƯƠNG PH ÁP QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG XÂY DỰNG Các nguyên tắc và phương pháp quản lý kinh tế xây dựng cũng có những nét chung của khoa học quản lý có vận dụng cụ thể vào ngành xây dựng. Các nguyên tắc và phương pháp này ở cấp quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp cũng có những nét chung bên cạnh những nét riêng của mỗi cấp quản lý. 10.4.1. Các nguyên tắc quản lý kinh tế 1. Nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo chính trị và kinh tế, kết hợp tốt nhất hai mặt kinh tế và xã hội. Kết hợp tốt nhất hai mặt kinh tế và xã hội sẽ là động lực và nhân tố đảm bảo cho phát triển kinh tế. Ở cấp Nhà nước sự kết hợp này trong xây dựng thể hiện chủ yếu ở các chính sách phát triển ngành, chính sách đối với lao động trong xây dựng, chính sách bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sản phẩm xây dựng, đảm bảo giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong xây dựng. Ở cấp doanh nghiệp sự kết hợp giữa kinh tế và xã hội thể hiện ở chỗ kinh doanh thu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong doanh nghiệp, nộp thuế đầy đủ kịp thời và chính xác cho Nhà nước, tuân thủ luật bảo vệ môi trường, tự nguyên đóng góp cho các nhiệm vụ xã hội, chăm lo người lao động của doanh nghiệp, đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra ... 2. Nguyên tắc tập trung dân chủ Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi khi giả quyết bất kỳ một vấn đề kinh btế hay sản xuất - kinh doanh nào, một mặt phải dựa trên các ý kiến, nguyện vọng, lực lượng và tinh thần chủ động sáng tạo rộng rãi của các đối tượng bị quản lý, mặt khác lại đòi hỏi phải có một trung tâm quản lý tập trung và thống nhất với một mức độ phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường, mọi người được tự do hoạt động kinh tế đến mức cao nhất, nhưng vẫn phải có sự can thiệp của Nhà nước để tránh sự hỗn loạn kinh tế. Các nhà tư bản có quyền tự quyết định chủ trương kinh doanh của mình, nhưng càng ngày họ càng nhận ra rằng cần phải quan tâm hơn đến người lao động, coi người lao động là đối tượng quan trọng của quản lý, coi việc kích thích tính chủ động sáng tạo rộng rãi trong doanh nghiệp mình là một yếu tố quan trọng để kinh doanh thắng lợi Trong ngành xây dựng nguyên tắc tập trung dân chủ thường được vận dụng ở hầu hết các công việc từ cấu tạo bộ máy quản lý với chế độ thủ trưởng chịu trách nhiệm toàn diện kết hợp với sự lãnh đạo tập thể, việc tổ chức công tác lập kế hoạch và điều hành xây dựng, việc phân công, phân cấp trách nhiệm trong xây dựng, quá trình ra quyết định... Quá trình sản xuất xây dựng thường xảy ra trên một địa bàn phân tán và rộng lớn với rất nhiều lực lượng tham gia, nên đòi hỏi phải phát huy rộng rãi tính chủ động sáng tạo của mọi người, nhưng cũng phải có một quá trình chỉ đạo tập trung thống nhất. 3. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo đia phương và vùng lãnh thổ Trong ngành xây dựng, việc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo đia phương và vùng lãnh thổ thường gặp phải khi giải quyết các vấn đề như: kết hợp giữa ngành xây dựng với các ngành khác trên địa phương và lãnh thổ, giữa các chuyên ngành xây dựng nội bộ lại với nhau và lực lượng xây dựng với các lực lượng tại chỗ. Việc kết hợp này cho phép tiết kiệm được chi phí cho việc di chuyển lực lượng xây dựng đến nơi xây dựng, tận dụng lực lượng dư thừa của nhau. Việc kết hợp này có thể đạt được nhờ sự phân công (ở khu vực xây dựng quốc doanh) hoặc do sự tự nguyện liên kết trên cơ sở hợp đồng giữa đơn vị xây dựng thắng thầu với các đơn vị xây dựng khác trên lãnh thổ. 4. Nguyên tắc kết hợp hài hoà lợi ích trong quản lý Ở cấp nhà nước, việc kết hợp các lợi ích được thông qua các chương trình định hướng phát triển kinh tế - xã hội, trong đó thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích của cá nhân người lao động, tập thể và xã hội, cũng như thông qua các chính sách đối với người lao động, các chính sách lợi ích và phúc lợi công cộng, các chính sách và đòn bẩy kinh tế khác. Trong ngành xây dựng phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích của toàn xã hội, lợi ích cá nhân người lao động và tập thể người lao động trong xây dựng, các chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng, các tổ chức tư vấn, thiết kế, dịch vụ ohục vụ xây dựng. Sự kết hợp này một mặt do các chính sách của Nhà nước đảm bảo, mặt khác phải dựa trên sự thoả thuận trong hợp đồng tự nguyện giữa các đối tượng tham gia quá trình quản lý, hoặc là được điều khiển trên cơ sở cạnh tranhcủa thị trường thông qua đấu thầu theo luật Nhà nước. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đối với các công trình do vốn Nhà nước cấp, chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng, và các tổ chức tư vấn thiết kế đều muốn nâng giá công trình để được lợi nhiều hơn, vì lợi nhuận, thiết kế phí và các khoản chi tiêu cực thường được tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị công trình. Trong trường hợp này lợi ích của Nhà nước và xã hội bị xâm phạm. Do đó cần có các quy định để hạn chế tiêu cực này. 5. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả cao nhất Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả cao nhất đòi hỏi với một số nguồn vốn bỏ ra nhất định phải đạt được một hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, hay ngược lại một hiệu quả kinh tế - xã hội đề ra cho trước phải chi phí một số vốn ít nhất. Nếu xem xét ở cấp doanh nghiệp riêng rẽ, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp thường được đo bằng chỉ tiêu lợi nhuận tính theo số tuyết đối và số tương đối (so với vốn sản xuất). Hiệu quả xã hội ở đây thể hiện ở mức đóng góp thuế của doanh nghiệp cho Nhà nước để tiến hành các biện pháp phúc lợi công cộng, ở mức lương doanh nghiệp trả cho công nhân của doanh nghiệp, ở chế độ chăm sóc người lao động về mọi mặt, giải quyết việc làm cho xã hội, bảo đảm chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Các hiệu quả này là do các biện pháp tự thân của doanh nghiệp mà có dưới sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước Đối với ngành xây dựng hiệu quả kinh tế - xã hội thể hiện ở tốc độ tăng của vốn đầu tư xây dựng, trong đó có khối lượng công tác xây dựng trong cả nước tăng lên, kéo theo sự gia tăng của thu nhập quốc dân, trong đó có thu nhập của ngành xây dựng, của sự phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, các công trình phúc lợi công cộng khác và của việc bảo vệ môi trường. Xây dựng các công trình sao cho rẻ, nhanh, tiện nghi khi sử dụng và có chất lượng tốt cũng là một mặt của hiệu quả kinh tế - xã hội đứng ở gốc độ lợi ích chung của toàn xã hội. Về nguyên tắc tiết kiệm, đối với doanh nghiệp xây dựng thì đây là một yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, vì chỉ có tiết kiệm mới có thể đảm bảo thu được lợi nhuận. Nhưng phải đảm bảo đúng quy cách và chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết, phải dựa trên các sáng kiến cải tiến công nghệ và tổ chức xây dựng được chủ đầu tư thừa nhận về mặt chất lượng. Ở tầm vi mô, Nhà nước thực hiện nguyên tắc tiết kiệm thông qua các điều lệ chính sách về xây dựng, các đơn giá, định mức và tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định về quản lý vốn, quản lý giá và quản lý chất lượng xây dựng. Đồng thời Nhà nước phải có các biện pháp chống các hiện tượng tiêu cực trong xây dựng, các chính sách nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên phục vụ xây dựng, hướng dẫn nhân dân về mức tiêu dùng hợp lý trong xây dựng. 10.4.2. Các phương pháp quản lý kinh tế 1. Phương pháp giáo dục trong quản lý kinh tế Nội dung của các biện pháp giáo dục gồm: các biện pháp giáo dục về thái độ lao động, kỷ luật, trách nhiệm và phát huy sáng kiến, các biện pháp về kích thích sự hăng say lao động, về tiếp xúc cá nhân, về tâm lý và tình cảm lao động, các biện pháp về khắc phục các xung đột lợi ích và đảm bảo đoàn kết, thống nhất trong doanh nghiệp, các biện pháp giáo dục về giữ gìn uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng - một vấn đề sống còn của doanh nghiệp ... Trong xây dựng phương pháp giáo dục cần được sử dụng thích đáng vì điều kiện lao động trong xây dựng rất nặng nhọc, đòi hỏi tính tự giác cao trong việc đảm bảo chất lượng để trách những sai lầm khó sửa chữa và tốn kém, vì các hiện tượng tiêu cực lớn làm thất thoát tài sản của Nhà nước và nhân dân dể xảy ra trong xây dựng. 2. Phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế Phương pháp hành chính được dùng để quản lý các lĩnh vực xã hội và kinh tế của đất nước. Đó là cách tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý bằng những văn bản, chỉ thị và những quy định rõ ràng về tổ chức. Phương pháp hành chính có ưu điểmlà góp phần giải quyết trực tiếp và nhanh chóng những vấn đề cụ thể nhưng nó cũng dể gây nên tình trạng quan liêu, máy móc, bộ máy quản lý cồng kềnh và độc đoán. Phương pháp hành chính có hai mặt: a. Tác động về mặt tổ chức có tính ổn định thông qua việc thể chế hoá tổ chức, bao gồm vấn đề cơ cấu tổ chức (bao gồm vấn đề về cơ cấu tổ chức và chức năng quản lý) và tiêu chuẩn hoá tổ chức (bao gồm các định mức và tiêu chuẩn tổ chức) b. Tác động thông qua quá trình điều khiển tức thời cho mỗi lần riêng rẽ khi xuất hiện các vấn đề cần giải quyết trong quá trình quản lý. Để giải quyết một vấn đề kinh tế nào đó, có thể dùng phương pháp hành chính hoặc phương pháp kinh tế. Ví dụ ở cấp Nhà nước để tiết kiệm đất đai Nhà nước có thể sử dụng phương pháp hành chính thông qua luật đất đai hoặc bằng phương pháp kinh tế thông qua mức thuế đất cao hay thấp. Ở cấp doanh nghiệp các biện pháp hành chính thường được kết hợp với các biện pháp kinh tế. Ví dụ để duy trì giờ giấc làm việc vừa dựa vào các quy định về hành chính nhưng cũng có thể thông qua các biện pháp tính toán tiền lương. Tuy nhiên, ở cấp doanh nghiệp biện pháp về kinh tế vẫn là chủ yếu. 3. Phương pháp kinh tế trong quản lý Phương pháp kinh tế chủ yếu dựa trên lợi ích kinh tế của các đối tượng tham gia quá trình kinh tế, nhưng nếu chỉ dựa vào lợi ích của một đối tượng riêng rẽ thì hiệu quả của quá trình kinh tế không được bảo đảm. Do đó, phương pháp kinh tế phải dựa trên sự kết hợp hài hoà lợi ích của Nhà nước, xã hội với lợi ích của tập thể và cá nhân trong quá trình kinh tế và sản xuất kinh doanh. Trong ngành xây dựng ở cấp quản lý Nhà nước phương pháp kinh tế được áp dụng đặc biệt là thông qua việc xác định ngạch bậc lương cho ngành xây dựng, các tỷ lệ phí khi xác định giá trị dự toán xây lắp, trị số thu nhập chịu thuế tính trước, các khoản thuế, các chính sách về tín dụng trong xây dựng ... Ở cấp doanh nghiệp, phương pháp kinh tế được áp dụng chủ yếu ở mức lương và các hình thức tiền lương trả cho người lao động, thưởng phạt kinh tế, thành lập quỹ phúc lợi công cộng và việc chăm sóc đời sống vật chất cho người lao động ... 4. Vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý kinh tế Phải vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý kinh tế mới đem lại kết quả tốt cho quản lý vì các lý do sau: Thứ nhất, các quy luật kinh tế tác động lên quá trình sản xuất - kinh doanh một cách tổng hợp. Các phương pháp quản lý là sự vận dụng tự giác các quy luật kinh tế nên chúng cũng cần phải được sử dụng tổng hợp mơi có hiệu quả. Thứ hai, hệ thống quản lý kinh tế và hệ thống sản xuất - kinh doanh không phải là những quan hệ riêng rẽ mà là tổng hợp các quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật..., do đó chỉ có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý mới có thể điều hành được hệ thống ấy. Thứ ba, đối tượng tác động của quản lý chủ yếu là con người. Con người lại là tổng hoà các quan hệ xã hội. Trong con người tổng hợp nhiều động cơ, nhiều nhu cầu và nhiều tính cách khác nhau. Cho nên phương pháp tác động lên con người cũng là phương pháp tổng hợp. Thứ tư, mỗi phương pháp quản lý đều có những giới hạn áp dụng nhất định và những ưu - nhược khác nhau, do đó cần sử dụng chúng một cách tổng hợp để chúng có thể bổ sung lẫn nhau. Thứ năm, các phương pháp quản lý luôn luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, vận dụng tốt phương pháp này sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng tốt phương pháp kia, nên cần sử dụng chúng một cách tổng hợp Tuy nhiên việc sử dụng tổng hợp các phương pháp không có nghĩa là không có phương pháp nào là chính. Việc lựa chọn phương pháp nào là chính phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, tuy nhiên thông thường mà nói, phương pháp kinh tế xét cho cũng vẫn là phương pháp quan trọng nhất, vì nó thường mang lại hiệu quả rõ rệt trong sự phát triển kinh tế và là tiền đề vững chắc và lâu dài để vận dụng các phương pháp còn lại 10.4.3. Áp dụng các phương pháp toán học trong quản lý kinh tế xây dựng Để quản lý kinh tế đạt hiêu quả tốt, bên cạnh các phương pháp định tính cần kết hợp các phương pháp định lượng, nhất là phương pháp toán kinh tế. Toán kinh tế bao gồm: - Phương pháp toán thống kê - Mô hình toán kinh tế - Vận trù học - Điều khiển học 10.4.4. Các công cụ quản lý kinh tế của Nhà Nước đối với ngành xây dựng và một số luật có liên quan. 1. Các công cụ quản lý chủ yếu: Các công cụ quản lý chủ yếu của Nhà Nước đối với ngành xây dựng là: - Bộ máy quản lý của Nhà Nước đối với ngành xây dựng từ cấp trung ương đến địa phương - Các chiến lược và kế hoạch định hướng đối với ngành xây dựng - Các quy hoạch xây dựng theo vùng lãnh thổ - Các luật lệ có liên quan đến ngành xây dựng như: luật xây dựng, luật doanh nghiệp, luật công ty, luật đầu tư, luật đất đai, luật bảo vệ môi trường, luật lao động, luật bảo hiểm, luật thuế, luật phá sản ... kèm theo là một loạt các văn bản dưới luật để quản lý ngành xây dựng, nhất là điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng - Các chính sách kinh tế về giá cả xây dựng, tiền lương trong xây dựng, lợi nhuận, tín dụng, thuế, thưởng phạt kinh tế ... - Thông tin về tình hình cung cầu, kinh nghiệm kinh doanh, giá cả, luật pháp của Nhà nước có liên quan đến sản xuất - kinh doanh xây dựng. 2. Một số luật có liên quan đến ngành xây dựng - Hệ thống và luật thuế - Luật xây dựng - Luật công ty Chương 11 MỘT SỐ ĐẶC ĐI ỂM KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG 11.1. KHÁI NIỆM: Thị trường theo nghĩa đen là nơi mua bán hàng hoá. Theo nghĩa rộng thị trường là nơi hay còn gọi là quá trình là một quá trình mà trong đó người mua và người bán tác động qua lai lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá cần mua bán. Trong xây dựng, thị trường tồn tại chủ yếu dưới dạng đấu thầu, đàm phán và một số hình thức khác. Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi ở trong đó tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất đều có giá cả, mà giá cả này hình thành trên cở sở quan hệ cung cầu trên thị trường. Kinh tế thị trường có các đặc trương như: mỗi chủ thể kinh doanh đều theo đuổi lợi ích riêng của mình, sản xuất và mua bán hàng hoá được thực hiện tự do cho mọi người theo nhu cầu thị trường, người mua được tự do lựa chọn người bán, mua bán theo giá cả thị trường, các quan hệ kinh tế được tiền tệ hoá và diễn ra theo quan hệ cạnh tranh. Cơ chế thị trường là tổng thể các hình thức tổ chức, các nhân tố, quan hệ, động lực và quy luật vận hành của thị trường. Các yếu tố đặc trưng cho cơ chế thị trường là: giá cả thị trường (bàn tay vô hình điều khiển kinh tế) và quan hệ cung cầu. Cơ chế thị trường có tính tự điều chỉnh cao, tính cạnh tranh cao, có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực. Các quy luật kinh tế chủ yếu hoạt động trong nền kinh tế thị trường là: quy luật giá trị, quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật chu kỳ hưng thịnh và khủng hoảng kinh tế, quy luật tiền tệ ... 11.2. CUNG CẦU TRONG XÂY DỰNG Hai lực lượng cung cầu đóng vai trò chủ yếu trong thị trường sản xuất xây dựng là các chủ thầu xây dựng (bên cung) và các chủ đầu tư (bên cầu). Các chủ thầu xây dựng có nhiệm vụ dùng năng lực sản xuất của mình để xây dựng các công trình theo nhu cầu và đơn đặt hàng của chủ đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, cơ quan Nhà nước hay nhân dân ... Ngoài ra khi tham gia thị trường xây dựng có các đơn vị cung ứng dịch vụ, tổ chức tư vấn, thiết kế xây dựng đóng vai trò cung cho các chủ đầu tư. Các tổ chức cung cấp máy móc - thiết bị thi công, vật tư, dịch vụ xây dựng đóng vai trò cung cho các chủ thầu xây dựng. Chủ đầu tư đóng vai trò cung cho các khách hàng mua các sản phẩm của mình. Nhu cầu xây dựng phụ thuộc mức tiêu dùng cho sản xuất và sinh hoạt đời sống (kể cả nhà ở) của các doanh nghiệp và nhân dân, vì khi các nhu cầu trên tăng lên thì nhu cầu xây dựng các công trình cũng tăng lên. Sản phẩm của xây dựng khi là các công trình sản xuất thì chưa phải là vật tiêu dùng cuối cùng. 11.3. CÁC HÌNH THỨC THỊ TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG 11.3.1. Phân loại thị trường theo nơi và cách gặp gỡ giữa cung và cầu Thứ nhất, hình thức phổ biến nhất là bên cung và bên cầu gặp gỡ nhau thông qua đấu thầu với các hình thức khác nhau. Bên cung ở đây là các chủ thầu xây dựng và bên cầu là các chủ đầu tư có công trình cần xây dựng, Thông qua đấu thầu vấn đề số lượng, chất lượng, thời gian và giá cả xây dựng sẽ được quyết định. Đấu thầu còn áp dụng cho cả công việc thiết kế, tư vấn, mua sắm vật tư và thiết bị. Thứ hai, đàm phán giữa chủ đầu tư với chủ thầu xây dựng về các vấn đề mới phát sinh về khối lượng và giá cả xây dựng trong quá trình thi công để điều chỉnh hợp đồng. Hợp đồng là văn bản cam kết có tính pháp lý giữa chủ đầu tư với chủ thầu xây dựng về mua bán sản phẩm xây dựng. Hình thức đàm phán còn có thể áp dụng để lựa chọn chủ thầu xây dựng nếu hình thức đấu thầu không được áp dụng. Thứ ba, các cửa hàng mua bán vật tư xây dựng và các công ty cho thuê máy xây dựng (đóng vai trò bên cung), các chủ thầu xây dựng (đóng vai trò bên cầu) Thứ tư, việc mua bán nhà cửa xây dựng sẵn (nhất là nhà ở), thì chủ đầu tư ở đây là các nhà kinh doanh bất động sản mà cũng có thể là do các chủ thầu xây dựng kiêm luôn chức năng đầu tư. Ngoài ra còn có một số hình thức giao dịch khác cũng được xem là hình thức giao dịch thị trường: như giao dịch qua mạng, qua điện thoại, qua thư thư từ ... 11.3.2. Phân loại thị trường theo quan hệ số lượng bên cung và bên cầu tham gia thị trường Theo quan hệ số lượng bên cung và bên cầu tham gia thị trường có thể phân thành các loại hình thức thị trường thể hiện trong bảng sau: Số lượng bên cung Số lượng bên cầu Một Một ít Nhiều Một (1) Độc quyền song phương (2) Độc quyền cầu không hoàn hảo (3) Độc quyền cầu hoàn hảo Một ít (4) Độc quyền cung không hoàn hảo (5) Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (6) Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền thiên về cầu Nhiều (7) Độc quyền cung hoàn hảo (8) Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền thiên về cung (9) Thị trường cạnh tranh hoàn hảo Ngoài ra thị trường xây dựng còn được phân loại theo cơ cấu đầu tư, theo nguồn vốn, theo chủ đầu tư ... 11.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG 1. Sản phẩm xây dựng có tính cá biệt cao, giá trị lớn, sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, không có thời gian lưu kho chờ bán. 2. Quá trình mua bán sản phẩm trong xây dựng diễn ra trước quá trình sản xuất, và thông qua việc đấu thầu, ký hợp đồng. Sau đó quá trình mua bán này còn tiếp diễn thông qua các đợt thanh toán trung gian cho tới khi bàn giao và quyết toán công trình. 3. Việc tiêu thụ sản phẩm được tiến hành trực tiếp giữa người bán và người mua không qua khâu trung gian. 4. Người mua (chủ đầu tư) thường là các chủ đơn vị sản xuất và dịch vụ, do đó họ chưa phải là người tiêu dùng ở cấp cuối cùng, chỉ trừ người mua công trình chỉ để phục vụ cho sinh hoạt chứ không phải để sản xuất - kinh doanh (như nhà ở). 5. Số người tham gia quá trình mua bán sản phẩm xây dựng thường nhiều. Ý định của người mua quyết định chất lượng, giá cả của sản phẩm và quyết định của người bán sản phẩm xây dựng. Người mua phải tạm ứng trước một số tiền cho người bán để tiến hành sản xuất sản phẩm. 6. Quy luật cạnh tranh trong thị trường xây dựng xảy ra phổ biến dưới hình thức đấu thầu. 7. Quá trình cung cầu trong xây dựng xảy ra tương đối không liên tục như các ngành khác, vì vậy việc xây dựng các công trình chỉ xảy ra một cách gián đoạn và phụ thuộc vào chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Thị trường xây dựng phụ thuộc vào thị trường đầu tư, nhất là lãi suất vay tín dụng để đầu tư và vào mức thu lợi đạt được của đầu tư. 8. Trong xây dựng không có giá thống nhất cho sản phẩm toàn vẹn. Chiến lược và chính sách giá cả của các nhà thầu xây dựng khó linh hoạt. Có ý kiến cho rằng vai trò của chiến lược giá cả trong xây dựng không quan trọng bằng các ngành khác. 9. Marketing trong xây dựng được tiến hành cá biệt cho từng trường hợp tranh thầu và không tiến hành hằng loạt. Quảng cáo xây dựng được tiến hành chủ yếu thông qua các thành tích đã đạt được của các chủ thầu xây dựng trong việc xây dựng các công trình. 10. Vai trò của Nhà nước đối với ngành xây dựng tương đối lớn hơn so với các ngành khác, vì xây dựng có liên quan đến vấn đề sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường và nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho các công trình phục vụ công cộng tương đối lớn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfKinh tế xây dựng.pdf
Tài liệu liên quan