Khóa luận Giải quyết tranh chấp ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp

- Hình thức của hợp đồng kinh tế; - Chủthểcủa hợp đồng kinh tế; - Mục đích ký kết hợp đồng kinh tế; - Hợp đồng kinh tếvô hiệu và cách giải quyết hợp đồng kinh tếvô hiệu. - Thời hiện khởi kiện. - Thành lập Trung tâm trọng tài thương mại. - Quyết định trọng tài. - Thi hành quyết định của trọng tài. - Môi trường pháp lý.

pdf112 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3776 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải quyết tranh chấp ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được áp dụng và có thể mang lại kết quả tốt khi các bên tranh chấp có thái độ hợp tác, tôn trọng lẫn nhau để cùng nhanh chóng giải quyết tranh chấp. Nếu một bên thiếu nhiệt tình, không có thiện chí thì việc vận dụng phương pháp này sẽ tốn thời gian vô ích. Vai trò của người trung gian chỉ dừng lại ở vai trò của người góp ý kiến, không có thẩm quyền ra quyết định phân xử. Nhược Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 88 - điểm lớn nhất của các phương pháp này là phương án giải quyết tranh chấp được các bên nhất trí không có giá trị ràng buộc các bên và không được pháp luật cưỡng chế thi hành. Các phương pháp giải quyết tranh chấp mang lại cho các nhà kinh doanh cơ hội lựa chọn phương pháp theo đúng trình tự logic, phù hợp với những đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh. Đó là khi gặp phải tranh chấp, các bên liên quan đầu tiên nên tự giải quyết tranh chấp. Nếu chưa mang lại kết quả, các bên có thể nhờ một người thứ 3 đứng ngoài cuộc, sáng suốt góp ý kiến hoặc với nỗ lực của người thứ ba hoà giải viên mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết thì các bên mới giao tranh chấp cho cơ quan tài phán (toà án hay các trung tâm trọng tài). Phổ biến trong kinh doanh hiện nay, các nhà kinh doanh có xu hướng lựa chọn các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện theo trình tự logic trên, tuỳ thuộc vào mối quan hệ kinh doanh giữa hai bên và tính chất vụ án tranh chấp. Song các phương pháp giải quyết tranh chấp trước khi đi kiện này chỉ có thể mang lại một phương pháp giải quyết tranh chấp không có giá trị pháp lý, không được pháp luật cưỡng chế thi hành và rõ ràng việc chấp hành phương án giải quyết đó phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh vẫn có nhu cầu tìm đến các phương pháp giải quyết tranh chấp có khả năng mang lại kết quả phân xử có hiệu lực pháp lý, ràng buộc các bên thi hành, về mặt lý thuyết, cả toà án và trọng tài đều có thể đáp ứng được yêu cầu đó. 2. Nhược điểm của đi kiện ở Toà án so với đi kiện ở các Trung tâm trọng tài: Toà án và các Tung tâm trọng tài đều là các cơ quan tài phán có thẩm quyền xét xử các tranh chấp kinh tế, mỗi cơ quan tài phán có một cách thức tổ chức hội đồng xét xử, cách thức giải quyết tranh chấp và phải tuân theo các quy tắc tố tụng khác nhau. Vậy toà án hay các Trung tâm trọng tài sẽ là cơ quan tài phán có khả năng đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp nhanh, tiết kiệm chi phí và có độ tin cậy cao của các nhà kinh doanh. Thực tiễn giải quyết tranh chấp ở toà án kinh tế trong những năm gần đây (từ 1994 đến nay) đã chứng tỏ các nhà kinh doanh gặp nhiều bất lợi khi đi kiện tại toà án kinh tế, những bất lợi đó là: a. Quyền tự do lựa chọn của các bên đương sự bị hạn chế: Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 89 - Thông thường khi kiện ra toà án, nguyên đơn phải tiến hành kiện bị đơn tại toà án nơi bị đơn có trụ sở kinh doanh hay cư trú. Nguyên đơn không được tự do chọn Toà án kinh tế Tỉnh này hay toà án kinh tế Tỉnh kia để giải quyết tranh chấp mà phải tuân theo những quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ đối với Toà án các cấp, ngược lại, khi các bên quyết định giao vụ việc cho trọng tài giải quyết các bên có quyền quyết định tổ chức trọng tài nào sẽ xử tranh chấp giữa các bên. Toà án là cơ quan tư pháp của nhà nước, các quy định về Hội đồng xét xử rất phức tạp, cố định, khó có thể thay đổi được, các bên không được quyền tự do chọn các Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký toà án... theo ý của mình. Những người này đều do toà án chỉnh định. Trong khi đó các trung tâm trọng tài cho phép các bên đương sự chọn đích danh người mà mình cho là vô tư, có uy tín và am hiểu chuyên môn làm trọng tài viên. Điều này không thể tìm thấy trong tố tụng toà án. Hội đồng xét xử tại toà án có thẩm quyền phải tuân thủ các thủ tục cứng nhắc và các bên đương sự không được phép thay đổi các thủ tục đó. Ngược lại, các bên tham gia tố tụng trọng tài có thể lựa chọn và hoàn toàn có thể lập nên một quy tắc tố tụng trọng tài thích hợp cho tình tiết của vụ việc. Phải thừa nhận rằng quyền tự do trong công việc giải quyết tranh chấp một trong những bộ phận của quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm lại bị hạm chế khi các bên giao tranh chấp cho toà án xét xử. b. Nhu cầu giải quyết tranh chấp nhanh, tiết kiệm chi phí khó được đáp ứng: Dựa vào phương pháp trọng tài để phân xử tranh chấp các bên tranh chấp được bảo đảm nguyên tắc tự do lựa chọn, do vậy họ có khả năng kiểm soát trình tự tiến hành của trọng tài và có thể đẩy nhanh tốc độ giải quyết tranh chấp của trọng tài nhằm thoả mãn yêu cầu kinh doanh của mình. Nhu cầu giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng khó có thể đáp ứng được bằng hình thức tố tụng toà án vốn là loại tố tụng được đặc trưng bởi nhiều cấp xét xử khác nhau từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm, quyết định của toà án có thẩm quyền có thể bị kháng án lên ít nhất một hoặc đôi lần khi hai toà án ở cấp cao hơn, do đó kéo dài thời gian thưa kiện của các bên tranh chấp. Cũng do phải qua nhiều cấp xét xử trong một vụ kiện nên chi Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 90 - phí cho vụ tranh chấp cũng tăng lên. Về điểm này trọng tài với nguyên tắc xét xử một lần có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các nhà kinh doanh. c Nhu cầu giải quyết tranh chấp bí mật của doanh nghiệp không được đáp ứng: Nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng toà án: Phiên họp xét xử tiến hành công khai, quyết định của toà án được công bố rộng rãi là điều mà các nhà kinh doanh tối kỵ. Kinh doanh trên thương trường không chỉ đơn giản là việc ký kết giao dịch trao đổi hàng hoá nhằm thu lợi nhuận mà gần như là tham gia vào chiến trường thương mại. Đối với các nhà kinh doanh, bí mật thông tin và uy tín kinh doanh là vấn đề sống còn, nên họ muốn tranh chấp được giải quyết một cách kín đáo không công khai. Chỉ có trọng tài với tư cách là một cơ quan xét xử không công khai, phán quyết không được công khai rộng rãi mới đáp ứng được nhu cầu chính đáng này của các nhà kinh doanh. d. Kiến thức chuyên môn của các Thẩm phán còn hạn chế: Việc phân xử các tranh chấp kinh tế do tính chất phức tạp, đa dạng và nhiều khía cạnh mang tính chất nghiệp vụ kinh doanh đòi hỏi người phân xử phải có trình độ pháp luật có kiến thức chuyên môn và bề dày kinh nghiệm về lĩnh vực thương mại và cả những tiêu chuẩn về đạo đức. Trong tố tụng ở toà án, các thẩm phán được đào tạo và tuyển dụng theo những tiêu chuẩn chặt chẽ có hiểu sâu về pháp luật nhưng thường bị hạn chế về kiến thức đối với lĩnh vực khác, đặc biệt là các kiến thức về nghiệp vụ kinh doanh. Điều đó hạn chế phần nào năng lực đánh giá của họ, nhược điểm này được khắc phục ở tố tụng trọng tài. Trọng tài viên là các chuyên gia giỏi về tranh chấp được các bên đương sự tín nhiệm, đề cử ra để giải quyết các vụ tranh chấp cụ thể. Bằng năng lực chuyên môn của mình như: am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh; hiểu biết chuyên sâu về pháp luật các trọng tài viên có khả năng xem xét, đánh giá sự việc đúng đắn, khách quan hơn. Trung tâm trọng tài yêu cầu trọng tài viên của mình phải có phẩm chất đạo đức tốt trung thực, vô tư khách quan có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật, kinh tế và phải được cấp thẻ trọng tài viên theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 91 - Bên cạnh những nhược điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng toà án còn có những Ưu điểm nhất định. Ưu điểm lớn nhất của tranh chấp bằng toà án: Toà án là cơ quan của nhà nước nên các bản án, quyết định của toà án được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của pháp luật. II. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ 1. Các biện pháp phòng ngừa tranh chấp kinh tế: a. Xây dựng một HĐKT hoàn chỉnh: Tranh chấp có thể phát sinh ngay trong quá trình đàm phán, ký kết cũng như trong quá trình thực hiện HĐKT. Các quy định của pháp luật hiện hành là cơ sở pháp lý ràng buộc các bên tham gia HĐKT. Các bên trong HĐKT chỉ có thể dùng HĐKT, quy định của pháp luật có liên quan để bảo vệ quyền lợi của mình và buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ quy định trong HĐKT. Đồng thời, khi có tranh chấp phát sinh, các bên căn cứ trước hết vào HĐKT để giải quuyết tranh chấp, Rõ ràng, HĐKT có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh tế. Tranh chấp phát sinhh trong quan hệ HĐKT là một trong các bên vi phạm nghĩa vụ HĐKT và gây thiệt hại cho bên kia. Nếu các nghĩa vụ đã được quy định rõ ràng và cụ thể trong HĐKT mà các bên vẫn vi phạm thì việc quy trách nhiệm không khó khăn. Song tranh chấp phát sinh sẽ phức tạp và khó giải quyết nếu HĐKT không quy định cụ thể, rõ ràng những nội dung liên quan. Do đó biện pháp phòng ngừa tranh chấp tốt nhất là xây dựng một HĐKT hợp pháp, chặt chẽ đầy đủ và rõ ràng. Một HĐKT hoàn hảo là một HĐKT kết hợp chặt chẽ được cả hai yếu tố, về mặt nghiệp vụ cũng như pháp luật, bao gồm các yếu tố về hình thức, chủ thể, nội dung các điều khoản của hợp đồng và chữ ký, con dấu của các bên. a.1 Về hình thức hợp đồng HĐKT chỉ có hiệu lực khi nó được thể hiện dưới hình thức văn bản. Do vậy, việc quy định hình thức văn bản cho HĐKT là cách tốt nhất để tránh phát sinh tranh chấp. Song có những thương vụ không cho phép soạn thảo đầy đủ mọi thoả thuận giữa các bên bằng một văn bản. Trong trường hợp này, để tránh tranh chấp các bên có thể ký kết HĐKT bằng các tài liệu giao dịch mang tính văn bản, có chữ ký của Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 92 - các bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận như công văn, đơn chào hàng, đợt đặt hàng, giấy chấp nhận.... a.2 Về chủ thể hợp đồng Nội dung về chủ thể hợp đồng là nội dung không thể thiết được trong HĐKT. Chủ thể HDKT phải hợp pháp, theo quy định của pháp luật, chỉ có pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh mới được phép ký kết HĐKT. Trước khi ký kết hợp đồng, các bên phải tìm hiểu kỹ tư cách chủ thể của nhau. Việc không tìm hiểu kỹ tư cách chủ thể của các bên có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Các bên có thể tìm hiểu tư cách chủ thể của nhau một cách trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan quản lý. Thông thường, các thông tin về chủ thể được nêu ngay ở phần đầu của HĐKT, bao gồm tên, địa chỉ, điện tín của các bên. Xác minh rõ những thông tin này, các bên có thể giảm bớt khả năng xảy ra tranh chấp. a.3 Về các điều khoản hợp đồng HĐKT có rất nhiều loại, mỗi loại có những nét đặc đặc thù riêng nên rất khó có thể đưa ra cách phòng ngừa tranh chấp phù hợp với tất cả các loại. Tuy nhiên, dù là loại này hay loại kia thì một HĐKT vẫn có những điều khoản bắt buộc, đó là các điều khoản chủ yếu của HĐKT, những điều khoản này quyết định gía trị pháp lý của HĐKT. Vì vậy, để tránh tranh chấp xảy ra, trước tiên các bên phải ký kết các điều khoản chủ yếu một cách hoàn chỉnh. - Điều khoản về ngày, tháng ký kết và các chủ thể của HĐKT: Ngày, tháng ký kết hợp đồng là điều khoản rất quan trọng và nhất thiết phải có trong HĐKT vì nó thường liên quan đến thời hạn hiệu lực của hợp đồng, có nhiều cách quy định thời hạn hiệu lực của hợp đồng khác nhau nhưng cách tốt nhất và hay được áp dụng nhất là căn cứ vào thời điểm ký kết hợp đồng. HĐKT có thể có hiệu lực từ khi ký kết hoặc các bên cũng có thể quy định như sau: HĐKT này bắt đầu có hiệu lực ngay sau khi ký kết. Do vậy, để hạn chế khả năng xảy ra tranh chấp, các bên nên ghi rõ ngày, tháng ký kết trong HĐKT. - Điều khoản về đối tượng HĐKT được tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 93 - Đối với điều khoản này, trước hết các bên cần lưu ý đến tên đối tượng, có nhiều cách xác định tên đối tượng trong hợp đồng, tuỳ vào từng loại đối tượng cụ thể mà trong hợp đồng có cách ghi phù hợp. Nếu đối tượng trong hợp đồng có nhiều công dụng, thì các bên nên ghi công dụng hay mục địch sử dụng đính kèm theo tên của đối tượng. Như vậy, để tránh các tranh chấp về sau, khi quy định tên đối tượng, các bên ghi tên đối tượng (có thể là tên khoa học, tên thương mại hay tên thông thường) kèm theo một đặc điểm nào đó gắn với đối tượng như công dụng, nhãn hiệu, nơi sản xuất, nhà sản xuất (đối với hàng hoá) ... nhằm xác định chính xác đối tượng mà các bên muốn đề cập tới trong HĐKT. - Điều khoản về số lượng, khối lượng hoặc giá trị: Các bên trong quan hệ HĐKT có thể quy định một cách cụ thể số lượng, khối lượng hoặc giá trị của đối tượng hợp đồng, có nghĩa là, các bên có thể quy định 1000 tấn than hay 10.000 máy bơm... trong một HĐKT. Tuy nhiên, quy định như vậy thì tranh chấp sẽ xảy ra khi một bên vi phạm thoả thuận này ví dụ: giao thiếu 0,05 tấn than. Các quy định này chỉ phù hợp khi đối tượng hợp đồng có thể tính được theo cái, chiếc... Khả năng xảy ra tranh chấp sẽ giảm đi khi các bên áp dụng cách quy định phỏng chứng về số lượng, khối lượng và giá trị của đối tượng hợp đồng. Các quy định có dung sai như vậy phù hợp với hàng rời, trong thực tiễn ký kết HĐKT ở Việt Nam, các bên áp dụng cách quy định có dung sai chưa nhiều nhưng nếu các bên sử dụng phương pháp này, chắc chắn khả năng xảy ra tranh chấp sẽ giảm đi. - Điều khoản về chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật: Vấn đề chất lượng là vấn đề tương đối phức tạp, người ta có thể quy định chất lượng bằng nhiều cách. Trong thực tế, ba phương pháp quy định chất lượng sau đây được áp dụng phổ biến nhất, đó là: ♦ Căn cứ vào tiêu chuẩn để thoả thuận chất lượng, có thể là tiêu chuẩn nhà nước hoặc tiêu chuẩn địa phương. ♦ Thoả thuận chất lượng bằng sự mô tả tỉ mỉ; Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 94 - ♦ Thoả thuận chất lượng theo mẫu hàng, thường được áp dụng đối với hàng hoá có chất lượng ổn định. Chọn phương pháp quy định chất lượng nào là tuỳ thuộc vào các bên và loại đối tượng trong quan hệ HĐKT, nhưng sự quy định của các bên về chất lượng trong hợp đồng càng chi tiết bao nhiêu thì khả năng xảy ra tranh chấp càng giảm đi bấy nhiêu. - Điều khoản về giá cả: Khi quy định giá cả trong hợp đồng các bên cần phải nêu rõ đơn vị tính giá và phương pháp định giá, chọn đơn vị tính giá cần căn cứ vào tính chất của đối tượng và thông lệ giao dịch đó trên thị trường. Giá trong hợp đồng có thể được quy định theo đơn vị khối lượng hay đơn vị thường dùng trong giao dịch đối tượng đó như: trọng lượng, độ dài, diện tích, cái, chiếc.. họăc những đơn vị khác như trăm, tá, chục. Hoặc giá cũng có thể được tính theo trọng lượng đối với đối tượng là hàng hoá như quặng, tinh dầu, hoá chất.. Khi quy định giá các bên còn có thể quy định theo tỷ lệ tạp chất trong đối tượng, ví dụ giá của gạo 5% tấm là 2200 đ/Kg. Khi đã chọn một đơn vị tính giá nào đó, các bên cũng cần qui định rõ thêm trong hợp đồng: Ví dụ trong một hợp đồng mua bán, giá được tính theo trọng lượng thì phải quy định rằng đó là trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh hay trọng lượng cả bì coi như tịnh hoặc phải thoả thuận xem giá bao bì có được tính trong giá hàng hay không. Phương pháp định giá là do các bên lựa chọn. Đối với những mặt hàng mà nhà nước quản lý thì phải định giá phù hợp với quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tất cả các thoả thuận của các bên phải được ghi một cách chi tiết, rõ ràng trong hợp đồng để hạn chế tranh chấp xảy ra. Trên đây là một số lưu ý khi các bên ký kết các điều khoản chủ yếu của HĐKT, tuỳ vào từng loại hợp đồng cụ thể mà các bên ký kết thêm các điều khoản khác phù hợp với đặc thù riêng của loại HĐKT đó. Ví dụ trong hợp đồng liên kết kinh tế: Do tính chất đặc thù của chủng loại hợp đồng liên kết đòi hỏi các bên phải Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 95 - quy định chặc chẽ, rõ ràng về nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên trong liên kết kinh tế, nên trong hợp đồng phải có thêm các điều khoản về phương thức ăn chia hay phân phối lợi nhuận giữa các bên ... Đối với trường hợp liên kết kinh tế trên quy mô lớn, trong một thời gian ổn định, lâu dài, cần phải thành lập Hội đồng quản trị để điều hành sản xuất kinh doanh, thì phải quy định rõ trong hợp đồng liên kết (hoặc quy chế đính kèm) về thành phần Hội đồng quản trị, quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản trị, quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản trị, quan hệ giữa các chủ thể với Hội đồng quản trị ... a.4 Về chữ ký và con dấu: Toàn bộ những cố gắng của các bên nhằm soạn thảo một HĐKT chặt chẽ và rõ ràng như nêu ở trên sẽ không còn giá trị nếu HĐKT không được ký và đóng dấu hợp pháp. Văn bản hợp đồng phải do hai bên chủ thể ký và đóng dấu, người ký vào HĐKT phải là người có đủ thẩm quyền đối với hợp đồng và con dấu phải là con dấu có giá trị hiệu lực. Tuy đây là khâu cuối cùng của sự hình thành một HĐKT nhưng nó lại có ý nghĩa quyết định. Do vậy, các bên phải rất lưu ý vấn đề này. Cũng như đối với vấn đề chủ thể HĐKT, việc thẩm định tư cách, thẩm quyền của người ký tên vào hợp đồng và giá trị của con dấu là rất cần thiết bảo đảm an toàn cho các bên trong giao dịch. Trên đây là một số điểm mà các bên cần lưu ý khi ký kết HĐKT để có được một hợp đồng chặt chẽ, có khả năng ngăn ngừa và hạn chế tranh chấp ở mức cao nhất. b. Bảo đảm trình độ cần thiết của người tham gia đàm phán: Trong mỗi giao dịch kinh tế, người tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại của giao dịch đó. Người tham gia đàm phán ký kết hợp đồng không chỉ phải có đủ tư cách, thẩm quyền về mặt pháp lý mà còn phải bảo đảm kiến thức về nghiệp vụ và pháp luật nhất định cũng như nắm được nghệ thuật đàm phán, giao dịch cần thiết để đi đến một thoả thuận có lợi cho mình. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 96 - Kiến thức về nghiệp vụ bảo đảm các bên sẽ không có sơ hở đáng tiếc về nghiệp vụ khi ký kết hợp đồng như: ký kết hợp đồng khi chưa tìm được nguồn hàng hoặc nguồn tiêu thụ dẫn đến phải huỷ hợp đông hay ký hớ về giá ... Kiến thức về mặt nghiệp vụ góp phần bảo đảm tính khả thi của hợp đồng được ký kết. Hiểu biết về pháp luật cũng là yếu tố không thể thiếu, nhiều khi giao dịch bị đổ vỡ hoàn toàn do các bên không nắm được các quy định của pháp luật. Một số nhà kinh doanh đã không phân biệt được bên ký kết và người ký hợp đồng dẫn đến ký kết với người không có đủ tư cách, thẩm quyền, hoặc đã có HĐKT được ký kết để mua bán đối tượng cấm của pháp luật... Mọi kiến thức về nghiệp vụ và pháp luật sẽ không mang lại kết quả đích thực của nó nếu người tham gia đàm phán, ký kết không nắm được nghệ thuật đàm phán, nghệ thuật giao dịch. Hợp đồng có thể được hình thành từ việc giao dịch qua thư tín hay gặp gỡ trực tiếp giữa các bên. Mỗi một hình thức yêu cầu một nghệ thuật riêng, ví dụ khi sử dụng thư tín, các bên phải chuyển tải được những nội dung, thông tin cần thiết, đồng thời phải thể hiện tính lịch sự, chính xác qua ngôn ngữ diễn đạt và hình thức của lá thư. Như vậy, để có được sự thành công nhà kinh doanh cần phải hội tụ được những yếu tố như kiến thức về nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật và nghệ thuật trong đàm phán, giao dịch. Để đạt được như vậy cần có các chưong trình đào tạo nghiệp vụ và giới thiệu nghệ thuật kinh doanh thích hợp cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng cần phải có các chương trình tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật đối với các cán bộ kinh doanh, đặc biệt là các giám đốc hoặc các cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp bởi vì họ thường là những người trực tiếp hoặc được uỷ quyền ký kết HĐKT. c. Hoàn thiện Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (HĐKT): Sự đối lập về quyền lợi giữa các bên, sự hạn chế về kiến thức nghiệp vụ và ý thức pháp luật của các chủ thể luôn là các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong HĐKT. Không chỉ có vậy, những quy định chưa rõ ràng, chưa sát với thực tiễn của pháp luật cũng làm gia tăng khả năng sảy ra tranh chấp. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 97 - Sau khi ra đời và được áp dụng, Pháp lệnh HĐKT cũng đã góp phần quan trọng vào việc ổn định quan hệ kinh tế và giải quyết tranh chấp, tuy nhiên, do sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế – xã hội, nền kinh tế hàng hoà nhiều thành phần phát triển rõ nét nên một số quy định trong Pháp lệnh HĐKT không còn phù hợp nữa. Để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển ổn định của quan hệ HĐKT, thiết nghĩ một số điều sau đây trong Pháp lệnh HĐKT cần phải được sửa đổi, bổ sung. c.1 Về chủ thể HĐKT Theo Điều 2 Pháp lệnh HĐKT thì HĐKT chỉ được hình thành giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Điều này là chưa phù hợp trong điều kiện hiện nay, khi mà số lượng các doanh nghiệp tư nhân ngày càng nhiều và nhu cầu về quyền bình đẳng giữa các thành phần chủ thể ngày càng cao. Vì vậy, để bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật giữa các thành phần chủ thể HĐKT, để phù hợp với yêu cầu năng động của hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường nên mở rộng chủ thể HĐKT như sau: Chủ thể của HĐKT bao gồm pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh, Công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là hợp đồng giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doành nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận phải được coi là HĐKT. Đồng thời cũng cần bổ sung Điều 42, 43 một cách tương ứng. Tức là: các quy định của Pháp lệnh HĐKT được áp dụng trong việc ký kết và thực hiện HĐKT giữa pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh với người làm công tác khoa học kỹ thuật, Nghệ nhân, Hộ kinh tế gia đình, Tổ hợp tác và các Tổ chức cá nhân nước ngoài tại Việt Nam. c.2 Về HĐKT vô hiệu Điều 8 Pháp lệnh HĐKT quy định một HĐKT bị coi là vô hiệu toàn bộ khi: • Nội dung HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật; • Một trong các bên ký kết HĐKT không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng; • Người ký kết HĐKT không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo; Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 98 - Vậy thì thường hợp HĐKT được ký sai hình thức hay do bị cưỡng ép, đe doạ thì sao? đó có phải là HĐKT vô hiệu không? Theo chúng tôi nên sửa Khoản 1 Điều 8 Pháp lênh HĐKT như sau để phù hợp với thực tế hơn: ♦ Nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội. ♦ Một trong các bên ký kết HĐKT không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng. ♦ Bên ký kết hoặc người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 2 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp: Như đã phân tích ở các phần trên, tranh chấp kinh tế xảy ra là điều khó tránh khỏi, khi tranh chấp xảy ra các bên tranh chấp có thể giải quyết bằng cách khiếu nại, hoà giải hay đi kiện, nhưng điều mà các bên chú ý hơn cả là làm thể nào để giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả nhất. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp: a. Đặc biệt lưu ý đến điều khoản về việc giải quyết tranh chấp Khi ký kết HĐKT không bên nào muốn tranh chấp phát sinh, do vậy điều khoản về giải quyết tranh chấp được coi là điều khoản dự phòng. Nếu hợp đồng được thực hiện một cách tốt đẹp nhất thì các bên dường như có thể bỏ qua điều khoản về giải quyết tranh chấp ghi trong hợp đồng, song khi tranh chấp phát sinh thì điều khoản về giải quyết tranh chấp lại đặc biệt có ý nghĩa và cần thiết. Trên thực tế, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền đòi lại quyền lợi đã bị vi phạm bằng cách thương lượng trực tiếp với bên vi phạm hoặc đi kiện ra toà án hoặc trọng tài. Do tranh chấp là vấn đề liên quan đến quyền lợi nên không phải lúc nào các bên cũng có thể dễ dàng thoả mãn khi giải quyết tranh chấp bằng cách thương lượng trực tiếp, mặc dù phương pháp thương lượng trực tiếp thông thường là các giải pháp đầu tiên được đề cập đến để giải quyết tranh chấp, khi không thể giải quyết được bằng con đường thương lượng trực tiếp thì các bên phải nhờ đến toà án hoặc trọng tài và giải quyết tranh chấp là một yêu cầu thực tế. Vấn đề đặt ra là: có Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 99 - phải hễ có tranh chấp xảy ra mà không giải quyết được bằng thương lượng thì đương nhiên được đưa ra toà án hoặc trọng tài không? Hoàn toàn không phải như vậy, toà án và các trung tâm trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng, nhưng thẩm quyền đó không phải là đương nhiên. Nghĩa là, toà án hoặc các trung tâm trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng khi giữa hai bên trong hợp đồng có thoả thuận giao tranh chấp đó cho toà án hoặc trọng tài. Thoả thuận này có thể được làm thành văn bản riêng hoặc nêu thành một điều khoản trong hợp đồng. Điều khoản về việc giải quyết tranh chấp phát sinh có thể được nêu ra trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh, song cách tốt nhất mà các bên cần áp dụng là đưa điều khoản về việc giải quyết tranh chấp thành một điều khoản của hợp đồng ngay từ khi ký kết hợp đồng. Sở dĩ như vậy, là do sau khi tranh chấp phát sinh các bên thường ít đủ bình tĩnh để suy xét và lựa chọn cơ quan nào sẽ giải quyết tranh chấp sự bất đồng về quyền lợi sau khi tranh chấp xảy ra sẽ khiến cho các bên khó có thiện chí thoả thuận lựa chọn một cơ quan giải quyết tranh chấp phù hợp. Vì vậy, các bên nên lựa chọn và quy định cơ quan giải quyết tranh chấp ngay khi ký kết hợp đồng, khi mà tranh chấp chưa phát sinh. Theo quy định của pháp luật Việt Nam các tranh chấp về hợp đồng có thể được Toà án, các Trung tâm trọng tài giải quyết, khi chọn một trong ba cơ quan giải quyết tranh chấp trên, các bên phải ghi rõ tên của cơ quan đó cùng với Quy tắc tố tụng của nó (trừ toà án). Điều này rất quan trọng vì nếu không ghi rõ như vậy tranh chấp sẽ không được giải quyết. Ví dụ: Khi ký kết hợp đồng công ty A và công ty B đã thoả thuận trong điều khoản giải quyết tranh chấp hợp đồng như sau: “Tất cả các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tranh chấp này sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài kinh tế Hà nội theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam”. Khi có tranh chấp xảy ra, nếu hai bên đưa tranh chấp ra Trung tâm trọng tài kinh tế Hà nội thì sẽ bị từ chối vì Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội không áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Cuối cùng, do thoả thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp trái pháp luật mà tranh chấp không được giải quyết. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 100 - b. Cố gắng giải quyết tranh chấp bằng phương pháp thương lượng trực tiếp: Mặc dù các phương pháp thương lượng trực tiếp có thể không thoả mãn được yêu cầu của các bên nhưng bên có quyền lợi bị vi phạm vẫn nên tiến hành thương lượng trước khi đi kiện. Sở dĩ như vậy là do bên đương sự là những người hiểu rõ tranh chấp nên dễ dàng nhân nhượng với nhau, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, không bị đọng vốn và lệ phí giải quyết tranh chấp đỡ tốn kém. Việc giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh tế, Trước hết các phương pháp thương lượng góp phần đảm bảo quá trình kinh doanh của các bên tiến hành được bình thường, Việc khiếu nại hay hoà giải kịp thời bảo vệ được quyền lợi cho bên bị vi phạm. Khi bên vi phạm thoả mãn toàn bộ hay một phần yêu cầu của bên bị vi phạm thì có nghĩa là quyền lợi của bên bị vi phậm đã được phục hồi. Nếu quyền lợi không được đảm bảo, phục hồi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bên bị vi phạm. Thứ hai: Khiếu nại là cơ sở để toà án hoặc trọng tài chấp nhận đơn kiện Thứ ba: Thông qua khiếu nại, các bên có thể hiểu rõ về bạn hàng, từ đó có quyết định tiếp tục kinh doanh với đối tác đó nữa không. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng con đương thương lượng có nhiều điểm thuận lợi cho cả hai bên. Giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại và hoà giải có thành công, có hiệu quả hay không hoàn toàn phụ thuộc vào các bên chủ thể hợp đồng. Dù là với tư cách người vi phạm hay người bị vi phạm thì các chủ thể cũng cần có sự hiểu biết về nghiệp vụ cũng như luật pháp và thiện chí với bạn hàng. Khi tranh chấp phát sinh các bên cố gắng bằng mọi cách giải quyết tranh chấp thông qua các phương pháp thương lượng, các bên chỉ nên đi kiện khi đã cố gắng hết sức mà tranh chấp vẫn không giải quyết được bằng con đường thương lượng trực tiếp. c. Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của tòa án: Để có thể nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của toà án, trước hết cần phải nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ toà án, đặc biệt là ở các toà án địa phương (Cấp Tỉnh, Huyện) Toà án nhân dân các cấp trong quá trình thụ lý và giải quyết các vụ án kinh tế trong những năm vừa qua về cơ bản là thực hiện đúng thẩm quyền luật định. Tuy nhiên, Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 101 - cũng có không ít trường hợp toà án nhân dân thụ lý sai thẩm quyền và tiến hành hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự thiếu căn cứ và không phù hợp pháp luật. Sau đây là một vài ví dụ: Vụ án "Tranh chấp nghĩa vụ góp vốn trả nợ" giữa Nguyên đơn là Ông Trần Văn Ng - giám đốc Công ty thương mại Hoài Nam, Quy Nhơn và Bị đơn là các Ông Hồ Đăng T, Quách Đình N và Lê Hữu Ph. Ngày 29/5/1995 Ông Trần Văn Ng ký hợp đồng liên doanh sản xuất thuỷ sản đông lạnh số 04 cùng các Ông Đăng T, Đình N, Hữu Ph là các cá nhân không phải là thành viên của công ty TNHH Hoài Nam. Để thực hiện hợp đồng liên doanh, Ông Trần Văn Ng đã lập 3 khế ước vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Bình Định 130 triệu đồng để thành lập xưởng chế biến thuỷ, hải sản. Do làm ăn kém hiệu quả nên không có khả năng thanh toán, Ngân hàng yêu cầu Ông Ng thanh toán nợ, cả vốn và lãi. Sau nhiều lần yêu cầu các Ông T, N, Ph cùng tìm cách trả nợ cho ngân hàng nhưng không được các bên hợp tác thực hiện, ngày 29/11/1995 Ông Ng gửi đơn kiện đến Toà án kinh tế Toà án Nhân dân tỉnh Bình Định yêu cầu phía liên doanh là các Ông T, N, Ph cùng công ty có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng. Toà kinh tế Toà án Nhân dân Tỉnh Bình Định đã thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Sau khi tiến hành hoà giải thành, toà án kinh tế đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 211 ngày 12/2/1995. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị giám đốc thẩm quyết định trên. Αn giám đốc thẩm số 05/KT ngày 15/10/1996 của Toà án nhân dân tối cao xử chấp nhận kháng nghị, huỷ quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại toà án nhân dân Tỉnh Bình Định, giao hồ sơ về Toà án nhân dân Tỉnh Bình Định thụ lý giải quyết theo thủ tục các vụ án dân sự. Hợp đồng giữa các bên kể trên không phải là HĐKT mà là hợp đồng dân sự bởi vì các cá nhân T, N, Ph là các cá nhân không có đăng ký kinh doanh, cũng không phải là thành viên của công ty TNHH Hoài nam, việc thụ lý giải quyết vụ tranh chấp của Toà án Nhân dân Tỉnh Bình Định là sai thẩm quyền và trái pháp luật. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 102 - Vụ tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa kho bạc nhà nước Tỉnh Thanh Hoá với công ty chè - cà phê Thanh Hoá: Ngày 29/12/1992, Công ty chè - cà phê Thanh Hoá ký hợp đồng vay của kho bạc Thanh Hoá 150 triệu đồng với lãi suất 0,6%/tháng trong 36 tháng, thời hạn trả nợ là 30/12/1995. Đến hạn trả nợ, Công ty chè - cà phê Thanh Hoá vẫn không trả được nợ, nên ngày 18/6/1996 giám đốc Kho bạc gửi đơn kiện đến Toà án kinh tế Tỉnh Thanh Hoá yêu cầu Công ty chè - cà phê Thanh Hoá trả nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký giữa hai bên. Giám đốc Kho bạc uỷ quyền cho Ông Bùi Đình Chung tham gia tố tụng trước Toà án nhân dân Tỉnh Thanh Hoá, Toà án kinh tế TAND Tỉnh Thanh Hoá đã tiến hành hoà giải thành và lập biên bản hoà giải thành. Nội dung biên bản hoà giải thành là Công ty chè - cà phê Thanh Hoá trả cho Kho bạc Thanh Hoá 150.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng, không kèm theo lãi. Người ký vào biên bản hoà giải thành phía kho bạc Nhà nước Thanh Hoá là Ông Nguyễn Tấn Vinh, là người không được giám đốc Kho bạc uỷ quyền. Ngày 2/8/1996, TAND Tỉnh Thanh Hoá ra quyết định số 2120/TA công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự. Quyết định này sai cả về nội dung lẫn hình thức: - Về nội dung: Quyết định này không đúng theo yêu cầu của giám đốc Kho bạc Nhà nước Thanh Hoá, đòi Công ty chè - cà phê Thanh Hoá trả 150.000.000 đồng tiền gốc kèm theo lãi tính theo hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa hai bên. Quyết định này cũng không nêu rõ thời gian, phương thức trả nợ để hai bên thực hiện. - Về hình thức: Ông Bùi Đình Chung là người được giám đốc Kho bạc uỷ quyền tham gia tố tụng nhưng Ông Chung không ký vào biên bản hoà giải thành mà biên bản hoà giải thành lại do Ông Vinh ký. Ông Vinh là người không được Giám đốc Kho bạc uỷ quyền nên quyết định này vi phạm khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Như vậy, trong một số trường hợp các Cán bộ của Toà án các cấp, những người đứng ra bảo đảm pháp luật được thực hiện lại không nắm vững pháp luật hoặc vì lý do nào đó mà đã thực hiện trái pháp luật. Muốn nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của Toà án thì trước hết phải giảm một cách tối đa những trường hợp như vậy. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 103 - Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án hiện nay còn gặp nhiều trở ngại khác. Tổng kết hai năm hoạt động của toà kinh tế các cấp cho thấy số vụ việc mà toà án giải quyết giảm đi rất nhiều so với số vụ mà Trọng tài kinh tế giải quyết trước đây. Ví dụ trong năm 2001 Toà án giải quyết 684 vụ án kinh tế (trong đó tranh chấp HĐKT chiếm phần lớn). Con số này chỉ tương đương với 1/5 số vụ việc mà Trọng tài kinh tế giải quyết trước đây. Số vụ việc Toà án kinh tế cả nước thụ lý giải quyết hiện nay chưa bằng số vụ trong một Tỉnh, Thành phố trung bình mà Trọng tài kinh tế giải quyết trước đây. Nguyên nhân chủ yếu của thực tế này là ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp chưa quen tác phong đưa các tranh chấp kinh tế ra toà án giải quyết, mà thường coi đây là vấn đề rất nặng nề, kiện nhau đến toà là việc bất đắc dĩ, hết tình hết nghĩa với nhau. Họ cho rằng toà án là cơ quan xét xử đối với những việc làm phạm pháp chứ không coi đó là nơi giải quyết các tranh chấp hoặc vi phạm về hợp đồng. Trong thực tế, các bên tranh chấp đã dựa vào các thế lực khác để giải quyết tranh chấp như nhờ Cơ quan Công an, Viện kiểm sát kể cả dùng những biện pháp như khởi tố, truy tố, bắt giam để thu hồi nợ.... có khi các chi phí không chính thức mà các doanh nghiệp phải trả để các Cơ quan Công an, Viện kiểm sát giải quyết vụ việc cho mình còn tốn kém hơn cả các chi phí phải bỏ ra khi đưa vụ việc ra cơ quan có thẩm quyền giải quyết (toà án, trọng tài) nhưng nó có ưu điểm là nhanh, hiệu quả, không bị phiền hà, không bị phê phán về những sai sót về phía mình, không cần công khai tranh chấp. Mặt khác, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế của toà kinh tế hiện nay còn nhiều phiền phức, chậm chễ, không gắn với hiệu quả. Từ thủ tục nộp đơn, tạm ứng án phí, cung cấp các chứng lý, làm việc, đối chất, hoà giải, phiên toà sơ thẩm, phiên toà phúc thẩm và nhiều vụ việc khác và nhiều khi Giám đốc thẩm có khi kéo dài hàng năm, cuối cùng xét xử xong lại phải chuyển sang bộ phận thi hành án. Khi đã chuyển sang bộ phận này rồi, lúc nào thi hành còn tuỳ thuộc ở cơ quan thi hành án. Với thời gian như vậy, đối phương có khi cũng không còn tài sản để thu hồi mà thiệt hại phát sinh thì không biết tới mức nào. Đối với các nhà kinh doanh, việc quan tâm đầu tiên khi giải quyết tranh chấp là hiệu quả, cụ thể là nhanh, gọn, sớm thu hồi vốn, tránh các thiệt hại phát sinh tiếp trong Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 104 - thời gian giải quyết để có điều kiện tiến hành thương vụ khác, thậm chí kể cả có thiệt hại so với quyền lợi được hưởng một phần họ vẫn sẵn sàng. Hơn nữa, mặc dù tranh chấp quyết liệt với nhau song các bên vẫn muốn có một cơ quan uy tín giải quyết trên cơ sở có lý, có tình để khi giải quyết xong họ vừa rút được ra cho mình những bài học nhưng vẫn cảm thấy thoải mái, thậm chí tiếp tục làm ăn với nhau. Đây là tâm lý chung của hầu hết các doanh nghiệp có xảy ra tranh chấp kinh tế. Để cải thiện tình hình và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của mình, toà án cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ giải quyết tranh chấp có kiến thức về pháp luật kinh tế, công tâm đức độ, có thể đáp ứng tốt được những yêu cầu thực tại của xã hội. Theo chúng tôi cần phải đào tạo một đội ngũ thẩm phán, việc đào tạo này nên giao cho toà án tối cao vì: ♦ Toà án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất và tập trung nhiều Thẩm phán có năng lực, trình độ, có quá trình công tác lâu năm đúc kết được nhiều kinh nghiệm. ♦ Nhiều hoạt động kinh tế mới phát sinh trong cơ chế thị trường như, tranh chấp về thương hiệu, các loại hình công ty, thị trường chứng khoán, hoạt động ly-xăng.. cần được bồi dưỡng kiến thức mà các toà án địa phương khó thực hiện được. d. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế: Ở nước ta hiện tại, việc giải quyết tranh chấp kinh tế được quy định trong một số văn bản dưới luật như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994; Nghị định 116 - CP của Chính phủ ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế; quyết định số 91/PTM - TT của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ngày 4/4/1996 phê chuẩn Quy tắc tố tụng trọng tài trong nước của trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Pháp lệnh Trọng tài Thương mại số 08/PL UBTVQH11 ngày 25/02/2003.. thực tế nghiên cứu và áp dụng các văn bản này cho thấy một số vấn đề sau đây chưa phù hợp, cần có sự sửa đổi bổ sung: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa có quy định về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp phát sinh từ HĐKT. Thời hiệu khởi kiện chỉ được quy định trong Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế là 06 tháng, có nghĩa là về mặt nguyên tắc thời hiệu này chỉ được áp dụng khi đưa tranh chấp ra giải quyết taị Toà Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 105 - án. Điều này quy định không hợp lý vì có những vụ án phức tạp cần thời gian để hai bên tự giải quyết hoặc thu thập chứng cứ, điều 21 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại số 08/PL UBTVQH11 quy định thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là 02 năm kể từ ngày xảy ra tranh chấp. Thiết nghĩ, quy định này nên được đưa sang Pháp lệnh HĐKT và được áp dụng cho cả việc giải quyết tranh chấp theo tố tụng trọng tài. d.1 Tuyên bố HĐKT vô hiệu ?Xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu Theo khoản3, Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì tuyên bố HĐKT vô hiệu là thuộc thẩm quyền của Trọng tài kinh tế Nhà nước. Từ khi tổ chức này chấm dứt hoạt động trong năm 1994 đến nay, vấn đề này còn bỏ trống, chưa có một văn bản pháp luật nào đề cập tới, gây trở ngại cho việc xử lý HĐKT vô hiệu mỗi khi xảy ra. Để việc xử lý HĐKT vô hiệu diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, Pháp lệnh HĐKT nên có quy định mới về vấn đề này. Xử lý HĐKT vô hiệu: Khoản 2 điều 39 Pháp lệnh HĐKT quy định I” Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện HĐKT trong trường hơp không thể trả bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền” như vậy thì giá trị tài sản được tính ra tiền tại thời điểm nào?. Theo quan điểm của chúng tôi có thể quy định như sau: • Trong trường hợp không có tài sản để hoàn trả thì được trả bằng tiền theo giá ở thời điểm xử lý tài sản. • Trường hợp một bên đã nhận tiền trước và đã giao được một phần hàng đối trừ tiền hàng, phần tiền còn lại các bên hoàn trả cho nhau không tính lãi suất đối với số tiền chưa thanh toán với nguyên tắc thiệt hại phát sinh các bên phải chịu. d.2 Về hoà giải Theo Điều 5 và Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì hoà giải là thủ tục bắt buộc của mọi tranh chấp HĐKT. Nếu chưa hoà giải thì không được đưa vụ tranh chấp ra xét xử. Trong thực tế kinh doanh, nhiều doanh nghiệp biết được quy định này đã cố tình trì hoãn việc hoà giải để thực hiện xong việc hoà giải để thực hiện xong việc chiếm Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 106 - dụng vốn hoặc kéo dài việc chiếm giữ tài sản của phía bên kia. Sau đây là một ví dụ về vấn đề này: Đầu năm 1995, Công ty xuất nhậnp khẩu (XNK) Hồng Bàng, Hải phòng ký hợp đồng liên doanh với công ty TNHH Hải Việt, theo đó Hồng Bàng góp một cửa hàng để cho Hải Việt bán hàng xuất khẩu, việc hạch toán lỗ lãi diễn ra hàng tháng và bên Hải Việt được hưởng 70% còn phía Hồng Bàng được 30%. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên Hải Việt liên tiếp vi phạm hợp đồng, không chia tiền cho phía Hồng Bàng. Công ty XNK Hồng Bàng đã có đơn kiện đến Toà án Nhân dân Thành phố Hải phòng yêu cầu Hải Việt trả tiền và đòi lại nhà. TAND Thành phố Hải phòng đã thụ lý vụ án và đã nhiều lần triệu tập công ty TNHH để hoà giải nhưng phía Hải Việt luôn trì hoãn bằng các lý do: giám đốc đi công tác, giám đốc đang ở nước ngoài... Sau đó 3 tháng thì giám đốc công ty TNHH Hải Việt bị bắt vì làm ăn phạm pháp. Thế là vụ án kéo dài cho tới tháng 3/1996 mà phía công ty XNK Hồng Bàng vẫn chưa đòi được tiền và cũng chưa lấy lại được nhà, vẫn bị Hải Việt chiếm dụng. Ví dụ trên cho thấy: Quy định về hoà giải như vậy là chưa kín kẽ, vẫn có chỗ hở cho công ty Hải Việt lợi dụng, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty XNK Hồng Bàng nói riêng, đến sự ổn định kinh tế của toàn xã hội nói chung. Quy định này nên được thay đổi như sau: Hoà giải vẫn là thủ tục quan trọng trước khi đưa tranh chấp ra xét xử. Tuy nhiên, trong trường hợp mà hành vi vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật quá rõ ràng thì Toà án phải đưa ra xét xử để đình chỉ ngay các hành vi vi phạm pháp luật. Khi triệu tập các bên đương sự đến để hoà giải, nếu bị đơn được triệu tập đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, thì Toà án đưa vụ việc ra xét xử. e. Về việc công nhận và thi hành quyết định hay phán quyết của trọng tài: Để đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế, bên cạnh Toà án kinh tế, Chính phủ Việt nam đã cho phép thành lập Trọng tài kinh tế và cho phép mở rộng thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp kinh tế của Tung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam. Giải quyết tranh chấp HĐKT bằng con đường trọng tài có nhiều ưu điểm so với việc giải quyết tranh chấp bằng Toà án (như đã phân tích ở Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 107 - phần trước) nhưng hiện nay các nhà kinh doanh vẫn chưa yên tâm khi giao tranh chấp kinh tế cho Trọng tài giải quyết. Trở ngại lớn nhất này đã được Pháp lệnh Trọng tài Thương mại số 08/PL UBTVQH11 quy định tại điều 57 thi hành quyết định trọng tài. Sau 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài các bên phải thi hành quyết định trọng tài. Bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi cón tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài. g. Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tam thời nói chung là nên hết sức thận trọng vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi cũng như hoạt động kinh doanh của các đương sự. Như đã trình bày ở chương 2 theo quan điểm của chúng tôi nên để thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án thực thi quyền này. Vì bản thân Thẩm phán có quyền thay đổi, huỷ bỏ nó trước khi Toà được tiến hành, như vậy đảm bảo nguyên tắc ai có quyền thay đổi người đó có quyền huỷ bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời. h. Bản án, quyết định của toà án đang được thi hành thì toà án thụ lý giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp: Trong thực tiễn việc phá sản doanh nghiệp các văn bản pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, không đồng nhất. Như trong trường hợp bản án, quyết định kinh tế của toà án đang được thi hành thì toà án thụ lý giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp những khó khăn vướng mắc của quy định này đã được trình bày ở Chương 2 chúng tôi xin phép được nêu giải pháp như sau: ♣ Các bản án, quyết định của toà án đang được thi hành thì tiếp tục thi hành không dừng lại để chờ thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, không xem xét các khoản chi trả cho bản án, quyết định của toà án là một khoản nợ để giải quyết theo thủ tục phá sản doanh nghiệp. ♣ Các quyết định của bản án về trả lương, cấp dưỡng, bồi thường tính mạng sức khoẻ... tiếp tục thi hành còn các khoản chi trả khác chờ thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp và sẽ thanh toán theo tỷ lệ với các khoản nợ khác. Nếu việc phá sản được dừng thì bản án tiếp tục thi hành. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 108 - ♣ Các khoản chi trả theo bản án, quyết định của Toà án coi như một khoản nợ có đảm bảo trong thủ tục phá sản doanh nghiệp. KẾT LUẬN. Ở Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp kinh tế được ra từ khi đất nước giành độc lập, tuy nhiên ở giai đoạn đầu các tranh chấp kinh tế chưa đa dạng và phức tạp. Sự ra đời cơ chế mới là yêu cầu khách quan, Điều 15 Hiến pháp 1992 đã khẳng định : “ Nhà nước phát triển nền kinh tế tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường..” Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nhiều thành phần đã phát sinh các quan hệ kinh tế mới, song song với chúng là các tranh chấp mới, các tranh chấp kinh tế này rất đa dạng về chủ thể, phong phú về nội dung, quyết liệt về tính chất tranh chấp mà trước đây chưa có. Chính vì vậy cơ chế giải quyết tranh chấp cũ không còn phù hợp về hình thức cũng như cách thức giải quyết. Trước yêu cầu đó nhà nước đã thành lập toà kinh tế nằm trong hệ thống Toà án Nhân dân và các trung tâm trọng tài kinh tế (Phi Chính phủ), các cơ quan tài phán này có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình hoạt động các cơ quan tài phán đã đạt được hiệu quả nhất định, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội, tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, nội dung và tình hình tranh chấp trong kinh tế ngày càng biến động Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 109 - và phát triển, việc giải quyết kinh tế tranh chấp kinh tế còn hạn chế cả về văn bản pháp luật kinh tế và cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp. Do đó, nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế được đặt ra, là cần phải sửa đổi bổ sung nhưng quy định không còn phù hợp đã được phân tích kỹ ở Chương II. Gồm một số vấn đề sau: - Hình thức của hợp đồng kinh tế; - Chủ thể của hợp đồng kinh tế; - Mục đích ký kết hợp đồng kinh tế; - Hợp đồng kinh tế vô hiệu và cách giải quyết hợp đồng kinh tế vô hiệu. - Thời hiện khởi kiện... - Thành lập Trung tâm trọng tài thương mại. - Quyết định trọng tài. - Thi hành quyết định của trọng tài. - Môi trường pháp lý. Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn người viết xin mạnh dạn nêu một số kiến nghị về quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế và đáp ứng ngày càng cao nhu cầu giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 110 - TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Hiến pháp 1992. 2. Bộ luật Dân sự 3. Bộ luật Hàng Hải 4. Luật doanh nghiệp tư nhân. 5. Luật công ty 6. Luật doanh nghiệp tư nhân. 7. luật tổ chức toà án nhân dân sửa đổi năm 1993. 8. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. 9. Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự . 10. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. 11. Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm. 12. Nghị định 116/Cp ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng tài kinh tế . Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 111 - 13. Nghị định 69/CP ngày 16/10/1993 về thủ tục thi hành án dân sự . 14. Quyết định 204/TTG ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam. 15. Quyết định 114/TTG ngày 26/2/1996 của Thủ tướng Chỉnh phủ về mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam. 16. Quyết định 305/BTC ngày 9/8 /1990 của Bộ Tài chính. 17. Thông tư liên ngành 04/TTLN ngày 7/1/1995 của VKSDNTC và TANDTC. 18. Công văn 11/KHXX ngày 23/1/1996 của TAND. 19. Công văn 442/KHXX ngày 18/1/1994 của TANDTC. 20. Văn bản số 16/1999/HKXX ngày 01-02-1999 của TANDTC. 21. Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31-07-1999 của Chính phủ. 22. Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt nam quyết định của trọng tài nước ngoài. 23. Giáo trình Luật kinh tế1998 của Đại học luật Hà Nội. 24. Giáo trình pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại 1997 của Tiến sỹ Nguyễn Thị Mơ và TS Hoàng Ngọc Thiết. 25. Tạp chí kinh doanh và pháp luật 2001, 2002 26. Các nguồn tài liệu tham khảo khác được thu thập từ Bộ Tư Pháp và Bộ Thương mại. 27. Giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng XNK án lệ trọng tài và kinh nghiêm của PGS.TS Hoàng ngọc Thiết. Giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp - 112 -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfGiải quyết tranh chấp - luận văn.pdf
Tài liệu liên quan