Khái lược lịch sử triết học phương tây trước mác

- Phái duy thực (realism) Cho rằng cái chung, cái phổ biến, khái niệm là thực tại có trước thế giới vật chất. Nó là thực thể tinh thần không phụ thuộc vào sự vật cụ thể. Các đại biểu: Ôguyxtanh (St. Augustine, 354-430), Giônxcôt Erigiena (John Scotus Erigena, 815-877), Tômat Aquin (Thomas Aquinas, 1225-1274), Anxem (St. Anselm, khoảng 1033-1109). - Phái duy danh (nominalism) Cho rằng cái chung, cái phổ biến, khái niệm không có tính thực tạị. Nó chỉ là tên gọi mà con người đặt cho các sự vật, hiện tượng. Đại biểu: Rôxelanh ở Côngpienhơ (Roscelin de Compiègne, khoảng 1050-1125), Pie Abêla (Pierre Abélard, 1079-1142), Guyliam Ôccam (William of Ockham, 1300-1350).

ppt46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3220 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khái lược lịch sử triết học phương tây trước mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC CHƯƠNG TRÌNH CAO HỌC CHƯƠNG III KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC Phần A & B NGƯỜI BIÊN SOẠN PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG TS. LÊ HỮU ÁI NỘI DUNG CHƯƠNG III A. Triết học Hy Lạp cổ đại B. Triết học Tây Âu thời Trung cổ C. Triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại D. Triết học cổ điển Đức A. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI I. Hoàn cảnh ra đời, quá trình phát triển và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại 1) Hoàn cảnh ra đời - Hy lạp (Greece) là một quốc gia ở Đông Nam châu Âu. Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời từ thế kỷ VI TCN, trong điều kiện chế độ nô lệ đang thịnh hành. Người nô lệ bị coi là công cụ, là “động vật biết nói”. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô rất gay gắt. - Sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay dẫn đến sự hình thành một tầng lớp lao động trí óc. - Sự phát triển của thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và hàng hải ở Hy Lạp dẫn đến sự ra đời của hàng loạt những trung tâm đô thị và tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học, khoa học, văn hóa, nghệ thuật. - Hàng trăm nhà nước nhỏ (polis, tiếng Hy Lạp dịch sang tiếng Anh là city state: nhà nước thành thị, thành bang). Mỗi nhà nước có một trung tâm đô thị ở giữa, chung quanh là vùng nông thôn. Aten (Athens) và Spác (Sparta) là hai thành bang lớn nhất. Aten là trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, theo chế độ dân chủ. Thành bang Spac đất đai rộng lớn, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, theo chế độ quân chủ. - Cuộc chiến tranh Pelopone giữa hai thành bang này kéo dài hàng chục năm làm cho Hy Lạp suy yếu. - Hy lạp có một nền văn hóa và khoa học phát triển rực rỡ trong thời cổ đại. Các môn khoa học như toán học, vật lý học, thiên văn học, triết học, lôgic học, chính trị học, v.v.. được nghiên cứu và đưa vào giảng dạy ở các trường học. Viện Hàn Lâm (Academia) do Platôn sáng lập ở Aten năm 387 TCN được coi là trường đại học đầu tiên của thế giới. - Aten được coi là quốc gia có nền dân chủ đầu tiên của thế giới. - Hy Lạp có sự giao lưu văn hóa với các nước phương Đông. Vào thế kỷ VIII-VII TCN, người Hy Lạp đã có hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa với các nước Cận Đông, nhất là Babylôn, Ai Cập nên có dịp tiếp xúc, trao đổi, tiếp thu những yếu tố của văn minh Lưỡng Hà. Năm 326 TCN, Hoàng đế Alexander Đại đế của Macedonia, sau khi thôn tính Hy Lạp hình thành một đế quốc lớn mạnh liền đem quân chinh phục Ấn Độ, nhưng sau đó phải rút quân vì quân lính nổi loạn, nhưng sự giao lưu văn hóa giữa ấn Độ và Hy Lạp vẫn tiếp tục. - Đến cuối thế kỷ II TCN, Hy Lạp bị La Mã chinh phục, nhưng Hy Lạp vẫn giữ vai trò nòng cốt về văn hóa trong đế chế La Mã. 2) Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại Sự phát triển của Triết học Hy Lạp được chia thành ba thời kỳ: - Thời kỳ sơ khai (hay còn gọi là thời kỳ tiền Xôcrat (pre-Socrated) từ thế kỷ VII-VI TCN. Gồm có : Trường phái Milê có Talet (624-547 TCN), Anaximanđơ (610-546TCN), Anaximen(585-525 TCN). Trường phái Pitago do Pitago (580-500 TCN) sáng lập. Trường phái Ephedơ, đại biểu là Hêraclit (520-460 TCN). Trường phái Elê có Xênôphan (57-479 TCN), Pacmênit (540-470TCN), Zênôn (490-430 TCN). - Thời kỳ cực thịnh (thế kỷ V-IV TCN) Các đại biểu xuất sắc: ● Anaxago ( 500-428 TCN) ● Empêđôc(490-430 TCN) ● Đêmôcrit ( 460-370 TCN) ● Xôcrat (469-399 TCN) ● Platôn ( 472-347 TCN) ● Arixtôt ( 384-322 TCN) - Thời kỳ Hy Lạp hóa (thế kỷ IV-I TCN) Nổi bật là trường phái Êpiquya do Êpiquya ( 341-270 TCN) sáng lập. 3. Đặc điểm của Triết học Hy Lạp - Triết học gắn với khoa học tự nhiên, các nhà triết học cũng đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên. - CNDV chất phác và PBC tự phát - Các trường phái triết học Hy Lạp là TGQ của giai cấp chủ nô. Các quan điểm của họ không chỉ phản ánh cuộc đấu tranh bảo vệ chế độ nô lệ, mà còn là cuộc đấu tranh giữa hai phái dân chủ và quân chủ trong nội bộ giai cấp chủ nô (đường lối Đêmôcrit và đường lối Platôn). - Do có sự giao lưu với văn hóa phương Đông (Ai Cập, Ấn Độ), nên triết học Hy Lạp cũng chịu ảnh hưởng của triết học phương Đông. 1) Trường phái Milê The school of Miletus  Talet (Thales), 624-547 TCN, nhà toán học, thiên văn học, triết học, một trong bảy người thông thái ở Hy Lạp cổ đại. Ông là nhà toán học đầu tiên, người sáng lập ra môn hình học với định lý Talet nổi tiếng. II. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu Là nhà triết học, ông đứng trên lập trường duy vật cho rằng nước là bản nguyên của thế giới. Theo Talet, tất cả sinh ra từ nước và tan biến thành nước trong một vòng tuần hoàn bất tận, trong đó nước là cơ sở. Sở dĩ Talet cho nước là bản nguyên của vũ trụ, vì ông quan sát thấy “Thức ăn của mọi vật đều ẩm ướt… Hạt giống của mọi vật đều có bản chất ẩm ướt”.  Anaximanđơ (Anaximander), 610-546 TCN, học trò hoặc bạn của Talet lại cho rằng vạn vật được sinh ra từ một dạng vật chất đầu tiên là Apâyrôn, là cái không xác định. Từ apâyrôn nảy sinh ra những mặt đối lập như nóng- lạnh, khô - ướt.  Anaximen (Anaximenes), 585-525 TCN, học trò của Talet, cho rằng không khí là nguồn gốc sinh ra tất cả. Hêraclit (Heraclitus), 546-480 TCN, sinh ở Êphedơ (Ephesus) ở Iony, vùng Tiểu Á, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Ông là nhà triết học duy vật, nổi tiếng với những tư tưởng biện chứng. 2. Triết học Hêraclit - Về bản thể luận: Ông cho rằng bản nguyên của vũ trụ là lửa. Lửa tắt đi sinh ra vạn vật và vạn vật cháy lên thành lửa theo con đường chuyển hóa đi xuống và đi lên. Lửa  hơi  lỏng  rắn Rắn  lỏng  hơi  lửa Ông nói: “Vũ trụ này luôn luôn là như vậy, nó không do thần thánh hay do con người làm ra; nó đã, đang và mãi mãi sẽ là một ngọn lửa muôn đời sinh động bùng cháy lên và tắt đi theo những quy luật nhất định”. (This universe, which is the same for all, has not been made by any god or man, but it always has been, is, and will be an ever-living fire, kindling itself by regular measures and going out by regular measures). “Tất cả mọi vật đều trao đổi với lửa và lửa trao đổi với vạn vật như hàng hóa trao đổi với vàng và vàng trao đổi với hàng hóa”. (All things are an exchange for fire, and fire for all things, as goods for gold and gold for goods). Ông là người sáng lập ra phép biện chứng duy vật cổ đại. Tư tưởng biện chứng của ông được thể hiện trong những câu châm ngôn nổi tiếng. Ông cho rằng vạn vật không ngừng biến đổi như một dòng chảy. “Mọi vật đều trôi chảy và không có gì đứng yên” (Everything flows and nothing stands still). “Chúng ta vừa tồn tại, vừa không tồn tại” (We are and are not). “Bạn không thể lội hai lần xuống cùng một dòng sông, vì dòng nước khác đang liên tục chảy về phía bạn”. (You could not step twice into the same river, for other waters are ever flowing onto you).. Hêraclit nêu ra tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao hàm những mặt đối lập. Ông nói: “Cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già”. Các mặt đối lập làm tiền đề cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn”. Các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau. “Cái nóng lạnh đi, cái lạnh nóng lên. Cái ướt khô đi, cái khô ướt lại”. Người đương thời coi ông là nhà triết học tối nghĩa. Ph. Ăngghen viết; “Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 20, tr. 35). - Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức bắt nguồn từ cảm giác. Tuy nhiên, ông cho rằng thị giác thường bị lừa, bởi vì “tự nhiên thích giấu mình”. Do đó, nhận thức phải đạt tới cái “logos”, tức bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. 3. Trường phái Pitago Pitago (Pithagoras), 571-497 TCN, là nhà toán học nổi tiếng. Ông thành lập một Liên minh (gọi là Liên minh Pitago) chống lại phái chủ nô dân chủ Pitago cho rằng bản nguyên của thế giới là con số. Số 1: điểm; số 2: đường thẳng; số 3: mặt phẳng; số 4: hình khối. Số 10 là con số hoàn thiện nhất. Quy luật của con số chi phối toàn bộ vũ trụ và con người. Nhận thức chính là nhận thức những con số. 4. Trường phái Elê (The school of Elea) Là trường phái duy vật siêu hình  Xênôphan (Xenophanes), 570-487 TCN Ông cho rằng thế giới là một khối duy nhất bất động không do thần thánh sinh ra. Con người sáng tạo ra thần thánh theo trí tưởng tượng của mình. “Nếu bò, ngựa, sư tử có thể vẽ được thì chúng sẽ mô tả các vị thần theo hình dáng của mình” (If oxen and horses and lions could draw and paint, they would delineate the gods in their own image.)  Pacmênit (Parmenides) (thế kỷ VI-V TCN) Tồn tại là duy nhất, không thể phân chia được, không vận động biến đổi. Ông khẳng định: “Tồn tại là bất biến”. “Nó không sinh ra, nên cũng không mất đi, nó hoàn chỉnh, duy nhất, bất động và vô hạn.  Dênôn (Zeno), 490-430 TCN Ông khẳng định tồn tại là duy nhất, bất biến. Ông đưa hàng loạt những nghịch lý (aporia) để phủ nhận sự vận động: - Nghịch lý phân đôi. - Nghịch lý Asin không đuổi kịp con rùa. - Nghịch lý: Mũi tên đang bay mà bất động. 5) Triết học Đêmôcrit Đêmôcrit (Democritus), 460-370 TCN, là nhà triết học vĩ đại, có đầu óc bách khoa. Ông sinh ở Ápde, đi nhiều nước sau về sống ở Aten. Ông hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực như toán học, đạo đức học, tâm lý học, sinh vật học, thiên văn học, mỹ học, ngôn ngữ học, v.v. - Về nguồn gốc của vũ trụ: Đêmôcrit cho rằng cơ sở đầu tiên tạo nên vũ trụ là nguyên tử (atomos: không thể phân chia được). Nguyên tử là hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được nữa. Nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về hình dáng, kích thước, tư thế, trật tự sắp xếp tạo nên những vật thể khác nhau. Nguyên tử luôn luôn vận động trong chân không (không gian). Vũ trụ hình thành do sự va chạm của nguyên tử trong cơn lốc nguyên tử. - Về quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên: Đêmôcrit chỉ thừa nhận tất nhiên, phủ nhận ngẫu nhiên, cho rằng ngẫu nhiên chỉ là hiện tượng chưa tìm ra nguyên nhân. - Về nhận thức, ông cho rằng nhận thức bắt nguồn từ cảm giác. Nhưng nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức mờ tối; chỉ có nhận thức lý tính mới phát hiện ra nguyên tử. - Về con người: Đêmôcrit bác bỏ quan niệm thần thánh sinh ra con người. Ông đưa ra tư tưởng về sự xuất hiện con người trên trái đất như là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên. Linh hồn con người được cấu tạo từ nguyên tử có hình cầu, nóng rực và linh động. - Về chính trị, ông đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, chống lại đường lối Platôn. Tuy nhiên, ông vẫn coi chế độ nô lệ là hợp lý. Lênin coi cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ở Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối: đường lối Đêmôcrit và đường lối Platôn. 6) Triết học Platôn Platôn (Plato), 427-347 TCN, sinh ở Aten thuộc dòng dõi quý tộc, là học trò của Xôcrat (Socrates). Platôn là người sáng lập Viện Hàn lâm (Academia) ở Aten, trường đại học đầu tiên của thế giới. - Học thuyết về ý niệm Platôn cho rằng ý niệm (ιδεα trong tiếng Hy Lạp dịch ra tiếng Anh là form (hình thức) hoặc idea (ý niệm) là thực thể tinh thần có trước thế giới vật cảm tính. Ý niệm thì vĩnh cữu, bất biến là tồn tại chân thực. Vật cảm tính (tức sự vật được cảm nhận bằng giác quan) luôn luôn biến đổi, chỉ là cái bóng của ý niệm, nên là tồn tại không chân thực. Ý niệm là bản chất chung của mọi sự vật, là cơ sở thống nhất của thế giới, là linh hồn của vũ trụ. - Học thuyết về linh hồn: Linh hồn con người có cấu trúc 3 phần: phần bản năng được Platôn gọi là sự háu ăn (appetite) có nhu cầu thỏa mãn những đòi hỏi vật chất của cơ thể; phần tâm lý được ông gọi là tinh thần (spirit) như sự trọng danh dự, kiêu hãnh, hiếu thắng, nguyên nhân gây ra sự tức giận, phẩn nộ và phần lý trí (reason) luôn luôn vươn tới chân lý và đây là phần quan trọng nhất trong nhân cách. - Học thuyết về nhận thức: Platôn cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý niệm, chỉ cho ta những kiến thức (opinions), chứ không phải là tri thức (knowledge) chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính, tức nhận thức ý niệm (khái niệm) mới đạt đến tri thức chân thực. - Học thuyết về nhà nước lý tưởng (ideal state): Platôn phê phán cả ba loại nhà nước đã từng tồn tại: nhà nước quân chủ, nhà nước quân phiệt, nhà nước dân chủ. Theo ông, nhà nước lý tưởng đó là nhà nước cộng hòa (republic) bao gồm 3 đẳng cấp tương ứng với 3 loại linh hồn. - Nhà triết học là tầng lớp cai trị, vì trong linh hồn của họ, phần lý trí chiếm ưu thế. - Vệ binh bảo vệ xã hội. - Lao động sản xuất nuối sống xã hội 7) Triết học Arixtôt Arixtôt (Aristotle), 384-322 TCN, sinh ở Stagira, Macedonia. Năm 17 tuổi vào học tại Viện hàn lâm của Platôn và ở đó 20 năm. Arixtốt là nhà khoa học có đầu óc bách khoa. Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực: vật lý học, sinh học, triết học, lôgic học, tâm lý học, đạo đức học, mỹ học, chính trị học … Năm 335 TCN Arixtôt thành lập một trường học riêng gọi là Học viện (Lyceum) hay còn gọi là “Trường tản bộ” (Peripatetic School), vì ông có thói quen trao đổi với học trò trong khi đi dạo. Học trò của ông cũng được gọi là “phái tản bộ” (Peripatetics) - Học thuyết về tồn tại: Arixtôt phê phán học thuyết ý niệm của Platôn vì học thuyết này tách rời ý niệm với sự vật cảm tính. Arixtôt cho rằng bản chất sự vật tồn tại trong bản thân sự vật không thể tồn tại trước và ngoài sự vật. Arixtôt đưa ra quan niệm duy vật về tồn tại. Ông cho rằng tồn tại là vật chất (mặc dù thừa nhận có tinh thần vũ trụ đầu tiên). Ông đưa ra 4 nguyên nhân tạo nên tồn tại: vật chất, hình thức, vận động, mục đích. Sai lÇm cña «ng lµ t¸ch rêi vËt chÊt víi h×nh thøc. ¤ng nhÇm lÉn gi÷a x· héi lµ ho¹t ®éng cã môc ®Ých víi tù nhiªn kh«ng cã môc ®Ých. Trong Thiên văn học, Arixtôt coi vũ trụ là vật chất có giới hạn, nó có hình cầu, quả đất nằm ở trung tâm. Quả đất được tạo thành từ 4 yếu tố; đất, nước, lửa, không khí. Trời được tạo bởi một yếu tố thứ năm là ête. - Về con người Ông khẳng định linh hồn không thể tồn tại nếu không có cơ thể. Ông chia linh hồn thành linh hồn thực vật, linh hồn động vật và linh hồn lý tính. Linh hồn con người là loại linh hồn lý tính. - Về nhận thức: Arixtôt cho rằng nhận thức bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, từ sự quan sát bằng giác quan. Ông được coi là người cha của phương pháp khoa học được sử dụng cho đến ngày nay. Aixtôt đã dành cả cuộc đời để tích lũy một khối lượng lớn những sự kiện, cứ liệu quan sát được (mặc dù cũng có không ít nhầm lẫn) làm cơ sở cho vật lý học. Tuy coi nhận thức cảm tính là điểm xuất phát của nhận thức, nhưng Arixtôt nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức lý tính, tức nhận thức bằng tư duy trừu tượng. - Lôgíc học: Là người sáng lập ra lôgíc học hình thức. Là người đặt nền tảng cho các quy luật cơ bản của lôgíc hình thức: quy luật đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn, quy luật loại trừ cái thứ ba. Ông đề xuất ra tam đoạn luận là hình thức suy có 3 phán đoán: hai tiền đề, một kết luận. - Về đạo đức, Arixtôt chủ trương một nền đạo đức trung vị (phẩm chất đạo đức ở giữa hai cực đoan). Thí dụ, Hèn nhát - Dũng cảm - Liều lĩnh Bủn xỉn - Hào phóng - Hoang phí Kiêng dè - Điều độ - Vô độ - Về chính trị, Arixtôt ủng hộ chế độ dân chủ do một tầng lớp trung lưu cai trị. B. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm Xã hội Tây Âu từ thế kỷ IV - XIV là xã hội phong kiến. Đế quốc La Mã tan rã, các vương quốc phong kiến được thành lập. Hai giai cấp cơ bản trong xã hội được hình thành: giai cấp địa chủ quý tộc và giai cấp nông nô. Nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng có những bước phát triển nhất định, tuy rất chậm chạp. Ki tô giáo (Christianity) trở thành tôn giáo chính thống. Nhà thờ Kitô giáo cùng với thế lực phong kiến trở thành một lực lượng thống trị xã hội. Các nhà sử học gọi thời kỳ là “đêm trường Trung cổ”. Đặc điểm của triết học trong thời kỳ này: - Triết học mất vai trò độc lập, trở thành đầy tớ của tôn giáo, được coi là công cụ chứng minh cho niềm tin tôn giáo. - Chủ nghĩa kinh viện (scholasticism) là khuynh hướng thống trị trong triết học. Đó là khuynh hướng kết hợp thần học chính thống của Kitô giáo với triết học Hy Lạp cổ đại (Platôn, Arixtôt). Nó được coi là triết học chính thống, được nghiên cứu và giảng dạy trong các trường học. II. Chủ nghĩa kinh viện Tây Âu Trung cổ 1) Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học: phái duy danh và phái duy thực Cuộc đấu tranh giữa hai phái này diễn ra suốt hàng chục thế kỷ chung quanh vấn đề mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, giữa khái niệm với sự vật. - Phái duy thực (realism) Cho rằng cái chung, cái phổ biến, khái niệm là thực tại có trước thế giới vật chất. Nó là thực thể tinh thần không phụ thuộc vào sự vật cụ thể. Các đại biểu: Ôguyxtanh (St. Augustine, 354-430), Giônxcôt Erigiena (John Scotus Erigena, 815-877), Tômat Aquin (Thomas Aquinas, 1225-1274), Anxem (St. Anselm, khoảng 1033-1109). - Phái duy danh (nominalism) Cho rằng cái chung, cái phổ biến, khái niệm không có tính thực tạị. Nó chỉ là tên gọi mà con người đặt cho các sự vật, hiện tượng. Đại biểu: Rôxelanh ở Côngpienhơ (Roscelin de Compiègne, khoảng 1050-1125), Pie Abêla (Pierre Abélard, 1079-1142), Guyliam Ôccam (William of Ockham, 1300-1350). Tômat Aquin (Thomas Aquinas), 1225-1274, sinh ở Aquino (Italia), là nhà thần học nổi tiếng Tây Âu trung cổ. Triết học của ông được Nhà thờ Kitô giáo coi là học thuyết duy nhất đúng đắn và lấy làm hệ tư tưởng của mình. 2) Triết học Tômat Aquin - Về quan hệ giữa niềm tin và lý trí: + Tômat điều hòa giữa niềm tin và lý trí, chứng minh cho sự đúng đắn của những tín điều Kitô giáo. Tômat kế thừa những yếu tố duy tâm trong học thuyết của Arixtôt như quan niệm về động lực đầu tiên, về mục đích, hình dạng … để chứng minh cho sự tồn tại của Thượng đế. + Tômát coi những tri thức triết học là chân lý của lý trí, tri thức trong các sách thánh là chân lý của lòng tin. + Cảm giác, lý trí và lòng tin tôn giáo không mâu thuẫn với nhau. Nhận thức bắt nguồn từ cảm giác, nhưng những tư liệu cảm tính chỉ có thể được hiểu bằng lý tính, và lý tính phải được nâng lên trình độ lòng tin để lĩnh hội được những vấn đề phi vật chất như linh hồn, thiên thần, Thượng đế. + Theo Tômat, lòng tin tôn giáo cao hơn lý trí nhỏ bé của con người, vì lòng tin có nguồn gốc thần thánh. Vì thế, Tômat coi triết học chỉ là “đầy tớ” của tôn giáo. - Lập luận 5 cách: Trong Summa Theologica, Tômat dùng lập luận với 5 điểm (5 cách) để chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Một là, Thượng đế là động lực đầu tiên của mọi vận động. Hai là, Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên. Ba là, Thượng đế là tính tất nhiên đầu tiên. Bốn là, Thượng đế là cái hoàn thiện nhất trong các mức độ hoàn thiện khác nhau trong vũ trụ. Năm là, Thượng đế là lý trí tối cao thiết kế và điều khiển toàn bộ vũ trụ. - Về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, Tômat đứng trên lập trường duy thực ôn hòa. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên 3 phương diện: 1) Tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Thượng đế; 2) Tồn tại trong sự vật với tư cách là tạo vật của TĐ 3) Tồn tại sau sự vật trong trí tuệ của con người bằng con đường trừu tượng hóa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pptĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC - CHƯƠNG III KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC Phần A & B.ppt
Tài liệu liên quan