Kết quả thu thập và đánh giá một nguồn gen lúa cạn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Nguồn gen lúa cạn ngày một suy giảm, hiện
tại các giống lúa cạn còn được đồng bào các
dân tộc thiểu số trồng ở các vùng núi cao và
mật độ dân số thưa. Đã thu thập được 284
giống lúa cạn tại 63 xã thuộc 32 huyện của 12
tỉnh. Tỷ lệ giống lúa nếp nhiều hơn lúa cạn và
tại các tỉnh tỷ lệ lúa nếp cũng cao hơn lúa tẻ.
Tập đoàn giống lúa có loài phụ Japonica
nhiều hợn Indica. Về chất lượng gạo: các
giống lúa có tỷ lệ bạc bụng thấp, số giống lúa
không bạc bụng và bạc bụng ít chiếm tỷ lệ
cao, số giống bạc bụng nhiều có tỷ lệ không
đáng kể. Nhóm giống có độ phân hủy trong
kiềm chiếm tỷ lệ cao nhóm có độ phân hủy
trong kiềm cao chiếm tỷ lệ thấp.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả thu thập và đánh giá một nguồn gen lúa cạn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Đức Thạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 135 - 139
135
KẾT QUẢ THU THẬP VÀ ĐÁNH GIÁ MỘT NGUỒN GEN LÚA CẠN
TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Nguyễn Đức Thạnh*
Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Đề tài đã thu thập được 284 mẫu giống lúa cạn tại 63 xã thuộc 32 huyện của 12 tỉnh miền núi phía
Bắc. Các mẫu giống lúa cạn thu được nhiều ở tỉnh Hà Giang 69 mẫu, Bắc Kạn 57 mẫu, Cao Bằng
54 mẫu.... Trên cơ sở tên gọi, đặc điểm hình thái của các giống, một số giống thu trùng lặp đã
được loại bỏ còn lại 223 giống. Trong tổng số giống thu được giống lúa nếp có tỷ lệ cao hơn chiểm
59,5%, giống lúa tẻ chiếm 40,5%, Tại các tỉnh giống lúa nếp chiếm tỷ lệ cao hơn lúa tẻ. Số lượng
loài phụ Japonica chiếm tỷ lệ lớn 70,9% , loài phụ Indica chiếm tỷ lệ 29.1%. Trong đó đối với loài
Japonica nhóm lúa nếp có số lượng và tỷ lệ cao hơn lúa tẻ và ngược lại. Về chất lượng gạo có
56,1% không bạc bụng, ở điểm 1 bạc bụng ít có 34,7%, trong khi đó số lượng giống có độ bạc
bụng nhiều chỉ chiếm 1% và số lượng giống có độ bạc bụng trung bình chiếm 8,2%. Các nhóm
giống lúa có độ phân hủy kiềm trung bình là nhiều nhất chiếm 82,1%, nhóm có độ phân hủy kiềm
thấp không có, nhóm có độ phân hủy kiềm cao là 17,9%.
Từ khóa: Lúa cạn, Loài phụ lúa, Chất lượng gạo
MỞ ĐẦU*
Việt Nam là một đất nước đa dạng sinh học
nông nghiệp, trong nửa thế kỷ qua, Việt Nam
đã trải qua một giai đoạn lịch sử phức tạp, hậu
quả của chiến tranh đã ảnh hưởng to lớn đến
đa dạng sinh học. Nhà nước Việt Nam đã có
những nỗ lực to lớn để ngăn chặn suy giảm đa
dạng sinh học nói chung và tài nguyên di
truyền thực vật nói riêng [1].
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh,
thiên tai như lũ lụt, hạn hán và do tác động
của các yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội, yếu tố
sinh học nhiều giống lúa địa phương quí hiếm
có nguy cơ cao bị xói mòn nguồn gen [2].
Nhằm góp phần sử dụng bền vững nguồn gen
giống lúa, trong đó có nguồn gen lúa cạn, bảo
vệ các tri thức bản địa và sự đa dạng sinh học
đối với cây lúa, chúng tôi thực hiện đề tài thu
thập và đánh giá nguồn gen cây lúa cạn tại
một số tỉnh miền núi phía Băc Việt Nam và
bước đầu đánh giá nhanh một số tính trạng
của tập đoàn đã thu thập.
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
THÍ NGHIỆM
Nội dung nghiên cứu
- Thu thập các giống lúa cạn tại một số tỉnh
phía Bắc Việt Nam;
*
Tel: 0989.153.954
- Phân loại lúa nếp và lúa tẻ;
- Phân loại các loài phụ;
- Đánh giá một số đặc điểm về chất lượng.
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập các giống lúa theo mẫu sưu tập
giống.
- Đánh giá các chỉ tiêu:
+ Phân loại lúa nếp lúa tẻ bằng dung dịch I-
KI 1%.
+ Phân loại loài phụ của lúa theo phương
pháp phân loại nhanh của Oka (1958) [5]
+ Xác định nhiệt độ hóa hồ, độ bạc bụng của
hạt, dạng tinh bột của nội nhũ theo phương
pháp Quốc tế của IRRI [3].
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Kết quả thu thập
Để bảo tồn sự đa dạng di truyền nguồn gen
lúa cạn ở các tỉnh miền núi phía Bắc cần thu
thập nguồn tài nguyên quý này, chúng tôi tiến
hành thu thập các giống lúa cạn trên cơ sơ
điều tra những địa phương có nhiều giống lúa
để thu thập và một phần dựa vào lực lượng
sinh viên trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên thu thập tại một số địa phương. Sau
khi xác định được những địa phương có
nguồn gen lúa cạn khá phong phú, chúng tôi
tiến hành liên hệ, hướng dẫn những sinh viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Đức Thạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 135 - 139
136
thu thập theo mẫu phiếu sưu tập giống lúa. Từ
tháng 2 đến tháng 7 năm 2009 đã thu thập
được nhiều mẫu giống lúa cạn tại 63 xã thuộc
32 huyện của 12 tỉnh miền núi phía Bắc. Kết
quả thu thập các giống lúa cạn được trình bày
ở bảng 1.
Bảng 1. Số giống lúa thu được tại các tỉnh
TT Tỉnh Số huyện
Số
xã
Số
giống
1 Bắc Kạn 6 11 57
2 Cao Bằng 6 12 54
3 Điện Biên 1 1 4
4 Hà Giang 5 19 69
5 Lào Cai 1 1 1
6 Lai Châu 3 5 38
7 Nghệ An 1 1 4
8 Sơn La 4 5 15
9 Thanh Hóa 1 1 9
10 Thái Nguyên 1 2 9
11 Tuyên Quang 1 1 4
12 Yên Bái 2 4 20
Tổng số 32 63 284
Kết quả sau khi loại bỏ các giống trùng lặp
đã thu được 284 mẫu giống. Trong đó tỉnh
Hà Giang nơi thu thập được số mẫu giống
nhiều nhất 69 mẫu, Bắc Kạn 57 mẫu, Cao
Bằng 54 mẫu.
Phân loại giống lúa nếp lúa tẻ
Phân loại theo phẩm chất hạt gạo chủ yếu dựa
vào cấu tạo của tinh bột. Mặt khác còn dựa
vào đặc điểm hình dạng, chất lượng, hàm
lượng dinh dưỡng của hạt gạo.
Hiện nay, nhu cầu lúa gạo về mặt phẩm chất
rất khác nhau tùy từng vùng và tập quán. Lúa
tẻ và lúa nếp khác nhau là do cấu tạo và thành
phần tinh bột. Lúa tẻ có thành phần tinh bột là
amyloza cao hơn lúa nếp, lúa nếp có thành
phần amylopectin cao hơn lúa tẻ. Do vậy để
phân biệt 2 loại này, có thể dùng phản ứng
đặc trưng của tinh bột với Iodua kali (I-KI).
Nước ta có nhiều giống nếp địa phương, qua
thu thập tại một số tỉnh phía Bắc, chúng tôi
thu thập được 169 giống lúa nếp trong tổng số
284 giống, kết quả tỷ lệ giống ở bảng 2.
Trong tổng số giống thu được cho thấy giống
lúa nếp có tỷ lệ cao hơn chiểm 59,5%, giống
lúa tẻ chiếm 40,5%. Trừ những tỉnh có số
mẫu ít nên chưa đại diện, kết quả thu thập ở
các tỉnh có số lượng mẫu lớn cho thấy giống
lúa nếp chiếm tỷ lệ cao hơn lúa tẻ. Do có sự
trùng lặp giữa các giống lúa do đó sau khi loại
bỏ các giống trùng lặp tại các địa phương
chúng tôi thu được 223 giống lúa để tiếp tục
đánh giá, trong đó có 125 giống lúa nếp
chiếm 56,1% và 98 giống lúa tẻ chiếm 43,9%,
tỷ lệ nếp/tẻ 127,5%.
Bảng 2. Tỷ lệ lúa nếp lúa tẻ ở các địa phương
TT Tỉnh
Tổng số giống Lúa nếp Lúa tẻ
Tỷ lệ
nếp (%) Số lượng Tỷ lệ %
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
1 Bắc Kạn 57 20.1 33 19.5 24 20.9 57.9
2 Cao Bằng 54 19.0 32 18.9 22 19.1 59.3
3 Điện Biên 4 1.4 2 1.2 2 1.7 50.0
4 Hà Giang 68 23.9 41 24.3 27 23.5 60.3
5 Lào Cai 1 0.4 0 0.0 1 0.9 0.0
6 Lai Châu 38 13.4 23 13.6 15 13.0 60.5
7 Nghệ An 4 1.4 2 1.2 2 1.7 50.0
8 Sơn La 15 5.3 10 5.9 5 4.3 66.7
9 Thanh Hóa 9 3.2 7 4.1 2 1.7 77.8
10 Thái Nguyên 10 3.5 6 3.6 4 3.5 60.0
11 Tuyên Quang 4 1.4 2 1.2 2 1.7 50.0
12 Yên Bái 20 7.0 11 6.5 9 7.8 55.0
284 100.0 169 100.0 115 100.0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Đức Thạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 135 - 139
137
Phân loại các giống lúa theo loài phụ
Phân loại các loài phụ là rất quan trọng bởi vì
các loài phụ có sự cách biệt rõ rệt về mặt di
truyền khi lai với nhau có tỷ lệ bất thụ cao và
phân ly kéo dài ở các thế hệ sau. Việc xác
định đúng các loài phụ để chọn tổ hợp lai là
rất cần thiết trong công tác giống.
Loài lúa Oryza sativa có 3 loài phụ là Indica,
Japonica và Javanica, mỗi loài có đặc điểm
hình thái và nơi phân bố khác nhau. Năm
1987 Glaszmann đã dựa trên phương pháp
đẳng men (Isozime) để phân loài O.sativa
thành 6 nhóm, trong đó Japonica và Indica là
2 nhóm đối cực. Ông cũng chứng minh được
Japonica và Javanica tuy khác nhau về hình
thái và phân bố địa lý nhưng bản chất di
truyền gần gũi nên gọi chung là Japonica.
Japonica truyền thống gọi là Japonica ôn đới
còn Javanica gọi là Japonica nhiệt đới.
Phương pháp đẳng men dựa vào thành phần
allele của 5 lico đẳng men là Pgi1, Pgi2,
Amp-1, Amp-2, Amp-3. Phương pháp phân
loại nhanh của OK (1958) chỉ phân biệt 2 loài
phụ Indica và Japonica. Kết quả phân loại tập
đoàn được trình bày ở bảng 3.
Kết quả bảng 3 cho thấy số lượng loài phụ
Japonica chiếm tỷ lệ lớn 70,9% với số lượng
158 giống. Loài phụ Indica chỉ có 65 giống
chiếm tỷ lệ 29.1%. Trong đó đối với loài
Japonica nhóm lúa nếp có số lượng và tỷ lệ
cao hơn lúa tẻ. Ngược lại loài Indica có số
lượng và tỷ lệ ở nhóm lúa tẻ cao hơn nhóm
lúa nếp. Theo Nguyễn Hữu Nghĩa và Lưu
Ngọc Trình (2000) lúa Japonica được phân
bố rộng khắp và chủ yếu tại miền Bắc, miền
Trung và giảm dần vào miền Nam. Riêng khu
vực đồng bằng sông Cửu Long thì chủ yếu là
lúa Indica [4].
Hình 1 cho thấy Japonica nhóm lúa nếp cao
hơn lúa tẻ (43%/29%) và Indica nhóm lúa tẻ
cao hơn nhóm lúa nếp (15%/13%).
Đánh giá tập đoàn theo chất lượng gạo
Độ bạc bụng hạt gạo
Hiện tượng bạc bụng được quyết định bởi
giống và ngoại cảnh. Nói chung bạc bụng là
do sự chín chưa hoàn toàn của nội nhũ. Hiện
tượng đục của hạt gạo nếp là do bản thân cấu
trúc hạt tinh bột. sự vắng mặt của các phân tử
amylose ở lúa nếp làm hạt tinh bột còn khe hở
trúc hạt tinh bột. Vì vậy người ta chỉ xét độ
bạc bụng ở nhóm lúa tẻ. Độ bạc bụng của nội
nhũ một phần do yếu tố di truyền nhưng điều
kiện môi trường mà chủ yếu là nhiệt độ sau
khi lúa trỗ cũng ảnh hưởng đến đặc tính này.
Kết quả đánh giá đối với 98 nguồn gen lúa tẻ
được trình bày ở bảng 4.
Bảng 3. Phân loại các loài phụ của các giống lúa
TT Loài phụ Tổng số giống Nếp Tẻ Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Japonica 158 70.9 95 76.0 64 65.3
2 Indica 65 29.1 30 24.0 34 34.7
223 100.0 125 100.0 98 100.0
Bảng 4. Độ bạc bụng của các giống lúa tẻ
Điểm Mức độ bạc bụng Số lượng Tỷ lệ %
0 Không 55 56.1
1 Ít 34 34.7
5 Trung bình 8 8.2
9 Nhiều 1 1.0
Tổng số 98 100.0
43%
29%
13%
15%
Japonica Nếp Japonica Tẻ Indica Nếp Indica Tẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Đức Thạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 135 - 139
138
Qua kết quả phân tích chúng tôi thấy trong
tổng số 98 giống lúa tẻ được đánh giá thì số
lượng giống không bạc bụng và bạc bụng rất
ít chiếm tỷ lệ rất cao. Có 56,1% không bạc
bụng, ở điểm 1 bạc bụng ít có 34,7%, trong
khi đó số lượng giống có độ bạc bụng nhiều
chỉ chiếm có 1% và số lượng giống có độ bạc
bụng trung bình chiếm 8,2%. Điều này cho
thấy nếu chỉ xét riêng ở chỉ tiêu này thì nguồn
gen lúa tẻ trong tập đoàn có được đặc tính tốt
đó là độ bạc bụng rất thấp và thậm chí là
không bạc bụng phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng. Ngoài sự phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng thì đặc tính này
cũng ảnh hưởng rất lớn đến kỹ nghệ xay xát.
Sự phân bố vết đục trong hạt gạo cũng ảnh
hưởng lớn đến kỹ nghệ này. Có lợi nhất là khi
vết đục nằm về một bên, những giống có vết
đục nằm ở tâm nội nhũ hay bị vỡ khi xay xát.
Nhiệt độ hóa hồ
Nhiệt độ hóa hồ của tinh bột gạo là nhiệt độ
mà khi lên đến đó nước được hấp thụ và hạt
tinh bột phồng lên đồng thời dạng tinh thể
biến mất. Nhiệt độ hóa hồ của các mẫu giống
được xác định thông qua mức độ phân hủy
trong dung dịch KOH. Mức độ phân hủy
trong dung dịch KOH tỷ lệ nghịch với nhiệt
độ hóa hồ của tinh bột, điều này có nghĩa là
những giống có độ phân hủy kiềm cao thì
nhiệt độ hóa hồ thấp và ngược lại. Kết quả
đánh giá mức độ phân hủy trong dung dịch
kiềm được trình bày ở bảng 5.
Dựa trên kết quả này cho thấy nếu xét ở mức
độ tổng thể mẫu nghiên cứu thì nhóm có độ
phân hủy kiềm trung bình là nhiều nhất chiếm
82,1%, trong khi đó nhóm có độ phân hủy
kiềm thấp không có, nhóm có độ phân hủy
kiềm cao là 17,9%. Nếu đánh giá ở mức độ
nhóm lúa nếp, tẻ thì có sự khác biệt nhỏ.
Nhóm lúa nếp có độ phân hủy trong kiềm ở
mức trung bình cao hơn lúa tẻ 84,0/79,6% và
ngược lại nhóm lúa tẻ có độ phân hủy trong
kiềm ở mức cao lớn hơn nhóm lúa nếp
20,4/16,0%.
KẾT LUẬN
Nguồn gen lúa cạn ngày một suy giảm, hiện
tại các giống lúa cạn còn được đồng bào các
dân tộc thiểu số trồng ở các vùng núi cao và
mật độ dân số thưa. Đã thu thập được 284
giống lúa cạn tại 63 xã thuộc 32 huyện của 12
tỉnh. Tỷ lệ giống lúa nếp nhiều hơn lúa cạn và
tại các tỉnh tỷ lệ lúa nếp cũng cao hơn lúa tẻ.
Tập đoàn giống lúa có loài phụ Japonica
nhiều hợn Indica. Về chất lượng gạo: các
giống lúa có tỷ lệ bạc bụng thấp, số giống lúa
không bạc bụng và bạc bụng ít chiếm tỷ lệ
cao, số giống bạc bụng nhiều có tỷ lệ không
đáng kể. Nhóm giống có độ phân hủy trong
kiềm chiếm tỷ lệ cao nhóm có độ phân hủy
trong kiềm cao chiếm tỷ lệ thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Khoa học – Công nghệ - Môi trường -
Quyết định 2117/1997/QĐ-BKHCNMT ngày
30/12/1997, Quy chế về quản lý bảo tồn nguồn gen
thực vật, động vật và vi sinh vật.
[2]. Cần quan tâm đến công tác bảo tồn nguồn
gen động thực vật, 2005/Số 6/Thành tựu khoa học
và công nghệ:-Tri thức và phát triển.
[3]. IRRI (1996), Standard Evaluation System for
rice.
[4]. Nguyễn Hữu Nghĩa, Lưu Ngọc Trình (2000),
“Sử dụng bền vững tài nguyên di truyền lúa trong
chọn tạo giống mới và trong sản xuất”, Báo cáo
tại Hội nghị bảo tồn in-situ TNDTTV phục vụ cho
mục tiêu lương thực và nông nghiệp, Hà Nội 21 –
23/3/2000.
5. OK , HI (1958), Intervariental variation and
classification of cultivated rice”, Ind J Genet, and
Pit Breed.
Bảng 5. Độ phân hủy trong kiềm của các giống lúa
TT Mức độ phân hủy trong kiềm
Tổng thể mẫu Nhóm lúa Nếp Nhóm lúa Tẻ
Số
lượng Tỷ lệ %
Số
lượng Tỷ lệ %
Số
lượng Tỷ lệ %
1 Thấp 0 0.0 0 0.0 0 0.0
2 Trung bình 183 82.1 105 84.0 78 79.6
3 Cao 40 17.9 20 16.0 20 20.4
Tổng số 223 100.0 125 100.0 98 100.0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Đức Thạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 135 - 139
139
SUMMARY
RESULTS OF A COLLECTION AND EVALUATION OF UPLAND RICE
GENETIC RESOURCE IN SOME MOUNTAINOUS PROVINCES OF
NORTHERN VIET NAM
Nguyen Duc Thanh*
College of Agriculture and Forestry - TNU
In the study,
284 samples of rice varieties in 63 communes of 32 districts in 12 northern
mountainous provinces were collected. A large number of upland rice verieties were collected in
Ha Giang with 69 samples, Bac Kan 57 samples and Cao Bang 54 samples. On the basis of the
names, morphological characteristics of these varieties, some of the overlapse varieties collected
from other places were removed.Finally 223 different varieties were collected and evaluated.The
percentage of the glutious rice was the highest, making up 59.5%, the ordinary rice accounted for
40.5% of the total rice varieties collected. In the provinces invested, the percentage of glutious rice
was higher than that of the ordinary rice
Japonica subspecies had larger proportion with 70.9%, Indica subspecies accounted for only
29.1%. In Japonica rice species, the rate of glutious rice group had higher amount and percentage
than that of the ordinary rice and vice versa. With regard to quality of rice, 56.1% weren’t chalky.
At point one 34.7% were chalky.The varieties which were more chalky accounted only for 1% and
the varieties which had average amount of chalkiness accouted for 8.2%. The groups having
average alkaline decomposition. made up the highest percentage: 82.1%, There were no groups
with low alkaline decomposition.The group with high alkaline decomposition accounted for 17.9%
Key words: Upland rice, Rice subspecies, Rice quality
*
Tel: 0989153954
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_thu_thap_va_danh_gia_mot_nguon_gen_lua_can_tai_mot_s.pdf