Nghiên cứu cho thấy: Sự biến động đội tàu khai
thác tỉnh Bến Tre giai đoạn từ năm 2008 - 2012 theo
xu hướng giảm số tàu công suất nhỏ và tăng tàu
công suất lớn để mở rộng ngư trường khai thác ra
vùng biển xa bờ, phù hợp với định hướng phát triển
nghề khai thác của tỉnh.
Hiệu quả khai thác của nghề đánh giá qua chỉ
tiêu tổng sản lượng và sản lượng trung bình của 1
tàu trong năm tăng trưởng ổn định từ năm 2008 đến
năm 2012. Tổng sản lượng chung tăng bình quân
14%/năm. Sản lượng bình quân năm của 1 tàu tăng
bình quân 18,2%/tàu/năm.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 164 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu về thực trạng nghề khai thác cá biển tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
62 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG NGHỀ KHAI THÁC
CÁ BIỂN TỈNH BẾN TRE
RESEARCH RESULTS ON MARINE CAPTURE FISHERIES STATE
BEN TRE PROVINCE
Hoàng Văn Tính1, Phan Nhật Thanh2
Ngày nhận bài: 05/11/2013; Ngày phản biện thông qua: 20/3/2014; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014
TÓM TẮT
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Nghề khai thác cá biển tỉnh Bến Tre có 7 nghề chính. Nghề lưới kéo phát triển mạnh
nhất, chiếm tỷ trọng 69,23% về số tàu và 87,46% về sản lượng khai thác của Tỉnh (năm 2012).
Biến động đội tàu khai thác giai đoạn từ năm 2008 - 2012 giảm dần về số lượng chung, tăng dần nhóm tàu công suất
lớn (từ 90 CV trở lên).
Lao động đánh bắt của tỉnh thiếu hụt nhiều. Đội ngũ thuyền trưởng phải sử dụng 20 - 30% lao động ngoài Tỉnh.
Sản lượng hải sản khai thác được tăng từ 89981,6 tấn (năm 2008) đến 151321,3 tấn (năm 2012), vượt chỉ tiêu quy
hoạch về nghề cá của Tỉnh.
Hiệu quả khai thác của đội tàu lưới kéo công suất dưới 90 CV đạt thấp, đạt 6% tổng sản lượng toàn Tỉnh, nhưng
chiếm tới 30,66% số tàu và 15,63% lao động khai thác của Tỉnh.
Nghề câu mực sử dụng ánh sáng những năm gần đây giảm về số tàu và lao động, do hiệu kinh tế không cao. Thu nhập
bình quân cao nhất là nhóm tàu 35 - < 90 CV (4.695.000 đồng/người/chuyến biển), thấp nhất là nhóm tàu 250 - < 400 CV
(3.567.000 đồng/người/chuyến biển). 64% số tàu điều tra có xu hướng muốn chuyển nghề.
Từ khóa: nghề khai thác cá biển, tỉnh Bến Tre
ABSTRACT
The study results showed that marine fi sheries Ben Tre province has 7 main occupation. Trawlers fastest growing,
accounting for 69,23% of the vessels and 87,46% of the province’s mining output (2012).
Movements fi shing fl eet in the period 2008 - 2012 reduced the number of general, increased the capacity of large
groups of the vessels (from 90 CV or more).
Fishing labor in the province defi cient. Team captains must use 20 - 30% of workers outside the province.
Seafood catches increased from 89981,6 tonnes (2008) to 151,321.3 tons (in 2012), exceeding the target of fi sheries
planning in the province.
Effective exploitation of the trawl fl eet below 90 CV was low, reaching 6% of total production in the province, but
accounted for 30,66 % of the vessels and 15,63 % the exploiting labor of the province.
Squid fi shing using light in recent years to reduce the number of ships and labor, due to low economic effi ciency. The
average income was the highest vessels group 35 -<90 CV (4,695 million VNĐ/person/fi shing trip), the lowest was vessels
group 250 -< 400 CV (3,567 million VNĐ/person/fi shing trip). 64% of survey vessels tend to switch jobs.
Keywords: marine capture fi sheries, Ben Tre Province
1 TS. Hoàng Văn Tính: Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
2 KS. Phan Nhật Thanh: Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Bến Tre
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bến Tre là một trong những địa phương phát
triển về nghề khai thác hải sản của vùng Nam Bộ và
của cả nước. Bình quân công suất của một tàu đạt
193,45 CV/tàu, gấp hơn 4,0 lần so với cả nước.
Nghề khai thác cá biển của tỉnh Bến Tre có 7
nghề chính: Lưới kéo, lưới vây, lưới rê, nghề câu,
nghề đáy, nghề bẫy, nghề khác. Tuy nhiên, cơ cấu
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 63
và sự phát triển của các nghề có sự khác nhau. Bài
viết phân tích, đánh giá thực trạng nghề khai thác cá
biển của tỉnh Bến Tre và xác định một số dữ liệu về
nghề câu mực sử dụng nguồn sáng của tỉnh.
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tham khảo tài liệu về quản lý và quy hoạch
nghề cá của tỉnh Bến Tre để trích xuất, phân tích,
đánh giá thực trạng về nghề khai thác cá biển tỉnh
Bến Tre với các nội dung chính: đội tàu khai thác,
lao động khai thác, sản lượng khai thác.
- Nghiên cứu, khảo sát trực tiếp theo mẫu phiếu
điều tra xây dựng về nghề câu tay khai thác mực
sử dụng ánh sáng với các nội dung: tàu thuyền và
trang thiết bị, ngư cụ và trang thiết bị, lao động khai
thác, mùa vụ khai thác, ngư trường khai thác, hiệu
quả khai thác.
- Phương pháp điều tra theo mẫu ngẫu nhiên
và đại diện.
- Xử lý số liệu điều tra: Theo phương pháp mô
tả thống kê, dựa vào phần mềm toán học Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đội tàu khai thác tỉnh Bến Tre
1.1. Biến động đội tàu khai thác tỉnh Bến Tre giai
đoạn 2008 - 2012
Nghiên cứu biến động đội tàu khai thác tỉnh Bến
Tre giai đoạn 2008 - 2012, thu được kết quả ở đồ
thị trên hình 1.
trở lên để khai thác xa bờ là 1.800 chiếc. Nhưng hiện
nay, tổng công suất đội tàu cá của Tỉnh và nhóm tàu
công suất từ 90 CV trở lên đã vượt chỉ tiêu của quy
hoạch và tổng số tàu thấp hơn quy hoạch 689 chiếc.
Điều này thể hiện sự phát triển của nghề khai thác cá
biển và định hướng mở rộng ngư trường khai thác xa
bờ của nghề cá tỉnh Bến Tre bước đầu đã có kết quả.
1.2. Cơ cấu tàu cá theo nhóm công suất
Nghiên cứu cơ cấu đội tàu khai thác cá biển tỉnh
Bến Tre năm 2012 theo nhóm công suất, thu được
kết quả ở đồ thị trên hình vẽ 2.
Hình 1. Biến động số lượng và công suất tàu
Đồ thị trên hình 1 cho thấy: Tổng số tàu cá tỉnh
Bến Tre giai đoạn 2008 - 2012 giảm dần qua các
năm, nhưng số tàu công suất từ 90 CV trở lên tăng
dần (bình quân tăng 125 tàu/năm).
Tổng công suất đội tàu cá toàn tỉnh giai đoạn từ
năm 2008 - 2012 tăng 155,5% (từ 484.576 CV, năm
2008 lên 752.703 CV, năm 2012). Bình quân công
suất của một tàu tăng dần từ 109,58 CV/tàu (năm
2008) lên 193,45 CV/tàu (năm 2012).
Theo quy hoạch nghề cá được Ủy ban nhân
dân Tỉnh phê duyệt, đến năm 2015 đội tàu cá của
Tỉnh giữ ở mức 4.500 tàu với tổng công suất phải đạt
là 676.500 CV, trong đó đội tàu công suất từ 90 CV
Hình 2. Cơ cấu tàu theo công suất
Tổng số tàu cá toàn Tỉnh năm 2012 có 3891
chiếc. Đồ thị trên hình 2 cho thấy: Nhóm tàu công
suất từ 90 CV trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất (46,67%).
Nhóm tàu công suất dưới 20 CV có 102 tàu (chiếm
2,62%). Điều này thể hiện sự phát triển nghề khai
thác cá biển của tỉnh Bến Tre với xu hướng giảm tàu
công suất nhỏ, tăng tàu công suất lớn để mở rộng
ra khai thác ở ngư trường xa bờ. Thực trạng này đòi
hỏi nguồn lao động nghề khai thác, nhất là lao động
có trình độ chuyên môn.
1.3. Cơ cấu tàu cá theo nghề
Nghề khai thác cá biển tỉnh Bến Tre thuộc loại
đa nghề. Thống kê số lượng tàu thuyền theo các
nghề chính năm 2012 được thể hiện ở hình 3.
Hình 3. Cơ cấu tàu theo nghề
Biểu đồ trên hình 3 cho thấy: Nghề lưới kéo
có số lượng tàu cao nhất, chiếm 69,23% tổng số
tàu cá toàn Tỉnh. Trong đó, số tàu lưới kéo công
suất dưới 90 CV có 1.193 chiếc, chiếm tỷ lệ 30,66%
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
64 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
tàu cá toàn Tỉnh, nhưng sản lượng chỉ đạt 6%. Điều
này thể hiện sự phát triển thiếu cân đối trong cơ cấu
nghề khai thác của Tỉnh và cần được quan tâm khi
quy hoạch nghề khai thác trong thời gian tới.
1.4. Cơ cấu tàu cá theo địa phương
Nghề khai thác cá biển của tỉnh Bến Tre tập
trung ở 3 huyện Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú. Phân
bố tàu thuyền khai thác theo địa phương được thể
hiện ở biểu đồ trên hình 4.
Hình 5. Lao động khai thác phân bố theo nghề
Tổng số lao động nghề khai thác hải sản tỉnh
Bến Tre năm 2012 có 18.891 người, nhưng phân
bố khác nhau giữa các nghề và nhóm công suất tàu
(hình 5).
Lao động nghề lưới kéo chiếm tỷ lệ cao nhất
(68,82%). Trong đó, lao động nghề lưới kéo đơn
của nhóm tàu công suất dưới 90 CV chiếm 15,63%.
Điều này cần được quan tâm nếu quy hoạch chuyển
đổi nghề của nhóm tàu này.
Kết quả nghiên cứu của ngành thủy sản tỉnh
Bến Tre cho thấy, lao động đánh bắt có chất lượng
thấp, hầu hết chưa được đào tạo về chuyên môn
nghiệp vụ. Ngành chưa quản lý được lực lượng lao
động khai thác thủy sản. Hầu hết người lao động
và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng lời nói,
không có hợp đồng. Lao động có kinh nghiệm đang
thiếu hụt nghiêm trọng. Đội ngũ thuyền trưởng phải
thu hút từ ngoài Tỉnh khoảng 20 -3 0%.
3.3. Sản lượng khai thác
Trong quản lý nghề khai thác hải sản ở nước
ta, sản lượng là một trong những tiêu chí quan trọng
đánh giá hiệu quả sản xuất và sự phát triển của một
nghề cá. Hiệu quả khai thác của nghề cá Bến Tre
thể hiện trên đồ thị ở hình 6, hình 7.
Hình 4. Cơ cấu tàu theo địa phương
Biểu đồ trên hình 4 cho thấy: Phân bố tàu
cá tỉnh Bến Tre có sự khác nhau nhiều giữa các
địa phương. Hai huyện Bình Đại và Ba Tri chiếm
72,19% tổng số tàu cá toàn Tỉnh và 96,5% nhóm tàu
công suất từ 90 CV trở lên.
Ba Tri là huyện có số lượng tàu cá nhiều nhất,
chiếm 42,22% tàu cá toàn Tỉnh và 65,62% nhóm tàu
công suất từ 90 CV trở lên. Điều này chứng tỏ Ba Tri
là địa phương có nghề khai thác thủy sản phát triển
mạnh của Tỉnh.
3.2. Lao động khai thác
Lao động khai thác hải sản của tỉnh Bến Tre
phân bố khác nhau giữa các nhóm tàu. Phân bố lao
động khai thác năm 2012 được thể hiện trên biểu
đồ hình 5.
Hình 6. Sản lượng bình quân của 1 tàu Hình 7. Tổng sản lượng và sản lượng bình quân của 1 CV
Đồ thị trên hình 6, hình 7 cho thấy:
- Giai đoạn từ năm 2008 - 2012, sản lượng
hải sản khai thác được của tỉnh Bến Tre tăng hàng
năm. Sản lượng năm 2012 tăng 170% so với năm
2008. Bình quân một năm tăng thêm 14%. So với
quy hoạch nông nghiệp, thủy sản của Tỉnh giai đoạn
2011 - 2020, thì sản lượng khai thác hải sản khai
thác được của 2012 đã vượt 20% so với sản lượng
dự kiến sẽ đạt được vào năm 2015 của quy hoạch.
- Sản lượng bình quân trên một tàu thuyền của
nghề khai thác tỉnh Bến Tre giai đoạn 2008 - 2012
tăng dần hàng năm. So với năm 2008, sản lượng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 65
bình quân năm của một tàu tăng 191%. Trung bình
một năm tăng thêm 18,2%.
- Sản lượng bình quân năm trên 1 CV trong giai
đoạn 2008 - 2012 biến đổi không theo quy luật, tăng
từ năm 2008- 2009, sau đó giảm dần đến năm 2011
và khôi phục lại vào năm 2012.
Các chỉ số về sản lượng đã được phân tích trên
thể hiện giai đoạn từ năm 2008 - 2012, nghề khai
thác cá biển tỉnh Bến Tre phát triển khá ổn định.
Điều này chứng tỏ vấn đề tăng tàu có công suất lớn
để khai thác ngư trường xa bờ của nghề cá tỉnh Bến
Tre bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Phân
tích sản lượng khai thác theo nghề của năm 2012,
được thể hiện trên hình 8.
của nghề lưới kéo nói riêng và các nghề khác nói
chung, nhằm giảm khai thác ở vùng biển ven bờ, bảo
vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản ở vùng biển này.
Đồ thị trên hình 8 cho thấy, nghề câu mực có
sản lượng khai thác thấp nhất, chiếm tỷ trọng không
đáng kể (0,34%) trong cơ cấu sản lượng. Tuy nhiên,
sản phẩm của nghề câu mực có giá trị ở thị trường
trong và ngoài nước.
3.4. Nghề câu mực sử dụng ánh sáng
Câu mực sử dụng ánh sáng (ngư dân gọi câu
tay) là một trong 4 nghề thu hút nhiều lao động nhất
của nghề khai thác hải sản tỉnh Bến Tre.
Ba Tri là huyện có số tàu nghề câu nhiều nhất,
chiếm 48,47% số tàu câu của Tỉnh (hình 4). Số
lượng tàu câu mực tỉnh Bến Tre năm 2012 được thể
hiện trên hình 9. Những năm gần đây do hiệu quả
đánh bắt ngày càng giảm nên số lượng tàu câu mực
sụt giảm đáng kể. So với giai đoạn trước năm 2010,
lao động của một tàu thuộc nhóm tàu công suất từ
90 - 250 CV giảm 3 - 4 người
Hình 9. Tàu câu mực theo nhóm công suất
Điều tra ngẫu nhiên 50 tàu câu mực với các
thông tin về lao động khai thác, thu nhập trung bình
của người lao động trong mùa khai thác chính và
phụ thu được kết quả ở bảng 1.
Hình 8. Sản lượng khai thác năm 2012
Đồ thị trên hình 8 cho thấy: Cơ cấu sản lượng
hải sản khai thác được của năm 2012 tập trung chủ
yếu ở nghề lưới kéo, chiếm 87,46% tổng sản lượng.
Nhóm lưới kéo ven bờ công suất dưới 90 CV có tỷ
trọng về sản lượng khá thấp (đạt 6,% sản lượng
toàn Tỉnh), nhưng chiếm đến 30,66% tổng số tàu
và 15,63% lực lượng lao động khai thác toàn Tỉnh.
Con số này chứng tỏ khai thác kém hiệu quả của
nhóm tàu này. Định hướng của tỉnh sẽ rà soát quy
hoạch sản xuất cho nhóm tàu công suất dưới 90 CV
Bảng 1. Lao động và thu nhập bình quân của nghề câu mực (năm 2012)
Nhóm công suất tàu
(CV)
Số mẫu điều
tra (tàu)
Số lao động
(người/tàu) Thu nhập bình quân (Tr.đ/người/chuyến biển)
Thấp nhất Cao nhất Mùa chính Mùa phụ Cả năm
35 - < 90 30 5 9 5,35 3,86 4,695
90 – < 150 11 7 9 4,67 3,40 4,036
150 - < 250 3 7 8 4,83 3,53 4,183
250 - < 400 6 6 9 4,53 2,60 3,367
Bảng 1 cho thấy: Thu nhập bình quân của
người lao động trong một chuyến biển của nhóm
tàu công suất từ 35 - < 90 CV cao nhất (bình quân
cả năm 4.695.000 đồng/người/chuyến biển), thấp
nhất nhóm tàu công suất từ 250 - < 400 CV (bình
quân cả năm 3.367.000 đồng/người/chuyến biển).
Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì hiệu quả khai
thác của nghề câu mực tay phụ thuộc vào một số
yếu tố chính như kỹ thuật câu, kinh nghiệm xác định
ngư trường khai thác của thuyền trưởng, số lao
động biên chế trên tàu. Song biên chế lao động của
các nhóm tàu không có sự khác nhau (bảng 1). Tàu
công suất lớn chi phí chuyến biển cao, nên thu nhập
của người lao động sẽ thấp. Đây là một trong những
nguyên nhân tạo nên sự giảm sút tàu câu mực và
lao động của nghề câu mực trong những năm qua,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
66 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
trong đó có sự thu hút lao động của nghề câu mực
sang các nghề khác có hiệu quả cao và ổn định hơn
như: nghề lưới kéo đôi, lưới vây kết hợp ánh sáng.
Do hiệu quả khai thác giảm nên một số tàu có xu
hướng chuyển nghề. Kết quả điều tra về xu hướng
chuyển nghề của 50 tàu được thể hiện ở bảng 2.
Kết quả bảng 2 cho thấy: Có 36% số tàu phỏng
vấn giữ nguyên nghề hiện tại, 20% số tàu muốn
chuyển nghề nhưng chưa xác định được nghề mới
cần chuyển đến, 44% số tàu có nhu cầu chuyển
sang nghề khai thác mực bằng câu vàng. Đây là
vấn đề cần được quan tâm khi quy hoạch nghề khai
thác của Tỉnh.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu cho thấy: Sự biến động đội tàu khai
thác tỉnh Bến Tre giai đoạn từ năm 2008 - 2012 theo
xu hướng giảm số tàu công suất nhỏ và tăng tàu
công suất lớn để mở rộng ngư trường khai thác ra
vùng biển xa bờ, phù hợp với định hướng phát triển
nghề khai thác của tỉnh.
Hiệu quả khai thác của nghề đánh giá qua chỉ
tiêu tổng sản lượng và sản lượng trung bình của 1
tàu trong năm tăng trưởng ổn định từ năm 2008 đến
năm 2012. Tổng sản lượng chung tăng bình quân
14%/năm. Sản lượng bình quân năm của 1 tàu tăng
bình quân 18,2%/tàu/năm.
Cơ cấu nghề khai thác cá biển của Tỉnh chưa
cân đối giữa các nghề. Nghề lưới kéo chiếm ưu thế:
69,23% số tàu và 87,46% tổng sản lượng hải sản
khai thác được của Tỉnh.
Đội tàu lưới kéo công suất dưới 90 CV khai
thác kém hiệu quả, chiếm tới 15,63% lao động và
30,66% số tàu cá của Tỉnh, nhưng chỉ đạt 6% sản
lượng chung toàn Tỉnh.
Ba Tri là địa phương có nghề khai thác mạnh
của Tỉnh, chiếm 42,22 tổng số tàu toàn Tỉnh và
65,62% nhóm tàu công suất từ 90 CV trở lên.
Nghề câu mực kết hợp ánh sáng đã giảm
trong những năm gần đây về số lượng tàu và lao
động khai thác; hiệu quả khai thác không cao,
thu nhập bình quân trong một chuyến biển của 1
lao động cao nhất là 4.695.000 đồng (nhóm tàu
35 - < 90 CV), thấp nhất là 3.567.000 đồng (nhóm tàu
250 - < 400 CV), nên một số tàu có xu hướng muốn
chuyển nghề.
Bảng 2. Kết quả điều tra ý định chuyển nghề
Nhóm công suất tàu
(CV)
Số mẫu điều tra
(tàu)
Có ý định chuyển nghề Không có ý định
chuyển nghềChưa xác định nghề Nghề câu vàng mực
35 - < 90 30 7 11 12
90 – < 150 11 1 6 4
150 - < 250 3 1 1 1
250 - < 400 6 1 4 1
Tổng 50 10 22 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Bến Tre, 2012. Thống kê số lượng tàu thuyền, lao động khai thác, sản lượng
khai thác tỉnh Bến Tre từ năm 2008 - 2012.
2. UBND tỉnh Bến Tre, 2011. Quyết định “Phê duyệt quy hoạch nông nghiệp, thủy sản tỉnh Bến Tre đến năm 2020”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_nghien_cuu_ve_thuc_trang_nghe_khai_thac_ca_bien_tinh.pdf