Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò vị trí của mình hay không lại phụ thuộc vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để thực hiện vai trò và trách nhiệm đã được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở.
Sau một thời gian dài chuẩn bị về hàng lang pháp lý, trang thiết bị, nhân lực, nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức khai trương vào ngày 12/7/2000. Trải qua hơn 5 năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, cũng như các công cụ chính sách tiền tệ khác của Ngân hàng nhà nước, nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Số lượng các tổ chức tín dụng tham gia ít, doanh số giao dịch nhỏ, hàng hoá giao dịch chưa nhiều, các quy định về quy trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, nhu cầu đổi mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở là hết sức cấp bách và cần thiết. Nhận thức được điều dó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu của Luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ, công cụ chính sách tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương.
- Phân tích, đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê . Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số biểu, bảng để minh hoạ.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương
Chương 2. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1981 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tính thanh khoản của các GTCG do các TCTD nắm giữ được tăng cường. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ cấp, giúp cho các TCTD yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của Chính phủ, khuyến khích các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ.
Nhiều TCTD không chỉ coi việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức đầu tư an toàn mà còn là hình thức dự trữ thanh khoản có hiệu quả cao. Khi cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán, các TCTD có thể sử dụng các GTCG trong các giao dịch OMO cũng như các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung, tạo điều kiện cho các TCTD điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ suất đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Qua theo dõi, phân tích các kết quả hoạt động OMO được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin, các TCTD có thể tham khảo về diễn biến thị trường để quyết định việc tham gia các hoạt động thị trường tiền tệ, nắm bắt tín hiệu về định hướng điều hành CSTT của NHNN để có hướng cân đối nguồn vốn thích hợp.
Thứ năm, công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các TCTD làm cơ sở cho việc quyết định giao dịch OMO ngày càng được tăng cường.
Bộ phận quản lý vốn khả dụng đã cố gắng cải tiến phương pháp dự báo, nâng cao chất lượng dự báo vốn khả dụng, khắc phục khó khăn trong thu thập thông tin, khai thác tối đa các nguồn thông tin khác, thường xuyên trao đổi với các TCTD nhất là các NHTMNN để nắm bắt diễn biến thị trường, qua đó giảm sai số khi dự báo, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của công cụ này.
Bằng việc đưa hệ thống thông tin báo cáo mới của NHNN theo Quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN vào áp dụng, NHNN đã bước đầu có điều kiện khai thác một số thông tin về vốn khả dụng qua mạng. Thông tin về vốn khả dụng của các TCTD đã được phản ánh toàn diện và kịp thời hơn. Các thành viên OMO đã có sự quan tâm, chú trọng hơn đối với việce theo dõi, phân tích và dự báo luồng vốn, thực hiện quản lý vốn ngày càng hiệu quả hơn để có thể tăng cường tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ, nhất là nghiệp vụ OMO.
2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
a. Những hạn chế
Qua 5 năm triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả khả quan của hoạt động OMO thì vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế
- Công cụ OMO chủ yếu phát huy vai trò điều tiết khối lượng vốn khả dụng của các TCTD hơn là điều tiết lãi suất của thị trường. Nguyên nhân là do NHNN đang thực hiện khối lượng tiền chứ không phải điều tiết lãi suất.
- Mặc dù lãi suất thị trường mở mang tính thị trường nhưng NHNN vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo mang tính hành chính trong một số phiên giao dịch OMO, để qua đó có thể can thiệp tới lãi suất của thị trường. Ngoài ra mối quan hệ giữa lãi suất OMO cũng như các lãi suất khác của NHNN và lãi suất thị trường chưa thật chặt chẽ.
- Doanh số giao dịch OMO thấp, bình quân 373 tỷ đồng/phiên, nên mức độ tác động của OMO đến các điều kiện thị trường vẫn còn khá khiêm tốn.
- Chưa có mối liên hệ rõ ràng giữa hoạt động của thị trường mở với tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết, OMO tác động trực tiếp đến số dư tiền gửi của các ngân hàng tại NHNN, là một bộ phận của tiền cơ sở MB. Mặt khác, MB lại là nhân tố cấu thành M2. Vì vậy, về mặt lý thuyết thì giữa số dư ròng OMO và M2 phải có mối quan hệ hàm số với nhau.
Qua theo dõi sự biến động theo từng quý của số dư ròng OMO và M2 tại Việt Nam trong 5 năm qua (22 quan sát), có thể nhận xét như sau: Nhìn chung giữa số dư ròng của OMO và M2 có sự biến động không cùng chiều với nhau và không có mối quan hệ hàm số. Cụ thể: M2 tăng trưởng đều hàng quý, với tỷ lệ tăng trưởng hàng quý bình quân khoảng 6,05% trong khi số dư ròng OMO biến động không đều, lúc tăng lúc giảm với biên độ khá lớn.
Thứ hai, hoạt động thị trường mở còn một số bất cập
- Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa NHNN và các thành viên còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao dịch với NHNN;
- Các ngân hàng khi muốn lưu ký GTCG để tham gia các giao dịch với NHNN đều phải đến trực tiếp Sở Giao dịch NHNN để hoàn thành các thủ tục. NHNN chưa cho phép đăng ký lưu ký GTCG thông qua trang Web của NHNN để giảm thiểu thủ tục giấy tờ và việc nhập liệu thủ công của Sở Giao dịch NHNN.
Bảng 2.5. M2 và số dư ròng OMO qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
12/1999
3/2000
6/2000
9/2000
12/2000
3/2001
6/2001
M2
145.959
161.525
171.272
180.135
202.822
216.993
226.566
Số dư TCV
72
231
0
15
312
975
266
Số dư ròng OMO
0
0
0
-220
335
-320
4
Chỉ tiêu
9/2001
12/2001
3/2002
6/2002
9/2002
12/2002
3/2003
M2
239.669
254.600
263.776
275.438
286.626
299.526
314.597
Số dư ròng OMO
-120
-610
440
-15
-1460
-1386
-5500
Chỉ tiêu
6/2003
9/2003
12/2003
3/2004
6/2004
9/2004
12/2004
M2
335.301
347.792
374.222
398.046
417.569
441.122
484.435
Số dư ròng OMO
-5800
-10500
-11944
-11958
-14050
-10300
-3940
Chỉ tiêu
3/2005
6/2005
9/2005
12/2005
M2
504.024
529.170
556.223
590.659
Số dư ròng OMO
-7252
-8460
-10981
-7098
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính toán của tác giả
- NHNN không thông báo định hướng phân bổ tỷ trọng mua/bán giữa các loại GTCG như trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, công trái … trước từng phiên giao dịch. Nhiều ngân hàng đã bị trượt thầu trong một số phiên do không nắm được định hướng tỷ lệ phân bổ xét thầu cho từng loại GTCG của NHNN nên đã đặt thầu giao dịch với các loại GTCG mà NHNN mua/bán với khối lượng thấp mặc dù đã đặt thầu ở mức lãi suất cạnh tranh.
- NHNN chưa chấp nhận hoàn toàn các chữ ký điện tử trong các giao dịch với NHNN. Hiện nay mặc dù bản đăng ký mua bán GTCG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng đều được ký duyệt chữ ký điện tử trên mạng, Sở Giao dịch NHNN yêu cầu phải có chữ ký của lãnh đạo NHTM trên bản in để chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký điện tử và chữ ký cấp phòng của NHTM được uỷ quyền.
- Thời gian để rút được GTCG lưu ký ra khỏi NHNN phải chờ đợi lâu (thường đến 5-7 ngày), do Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM phải đợi bản gốc văn bản của NHNN gửi đến mới hoàn tất thủ tục cho khách hàng.
Thứ ba, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động.
Tuy thời gian triển khai không còn ngắn nhưng công cụ OMO vẫn đang còn là một nghiệp vụ mới đối với một số các TCTD, nhất là các NHTMCP. Việc tham gia thị trường mở vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, hạn chế. Các NHTMCP tham gia không thường xuyên và không nhiều. Điều này xuất phát từ nguyên nhân các NHTMCP chưa nhận thức được đầy đủ các ưu điểm của công cụ này. Bên cạnh đó, vấn đề tâm lý khi giao dịch với NHNN vẫn chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn.
Trong mỗi phiên giao dịch OMO thường chỉ có từ 1 đến 5 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp so với tổng số các thành viên đăng ký tham gia OMO và chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số các TCTD. Các thành viên tích cực tham gia vẫn là các NHTMNN và một số NHTMCP. Điều này làm giảm hiệu quả và mức độ tác động của NHNN tới dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, kỳ hạn mua bán GTCG ngắn và chưa đa dạng
Hiện nay, NHNN chỉ thực hiện thống nhất một loại kỳ hạn giao dịch trong một phiên đấu thầu. Điều này đã hạn chế sự lựa chọn về kỳ hạn của các thành viên thị trường, mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian của các thành viên là khác nhau. Bên cạnh đó, NHNN chỉ thực hiện giao dịch theo một chiều nhất định (mua hoặc bán GTCG) trong một phiên và chủ yếu thực hiện việc mua GTCG nên các TCTD cũng không thể tham gia nếu không phù hợp với nhu cầu vốn của họ. Điều này đã được chứng minh trong thực tế khi tại nhiều phiên giao dịch, không có thành viên nào tham gia.
Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182 ngày nhưng trên thực tế, NHNN thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7-30 ngày, dẫn đến các khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời gian ngắn và tăng gánh nặng thanh toán cho các NHTM.
b. Nguyên nhân
Thứ nhất, thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các kênh truyền dẫn tác động CSTT chưa hoàn thiện làm hạn chế hiệu quả các công cụ CSTT. Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ còn nhiều khó khăn. Đến nay NHNN vẫn chưa có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng vẫn còn có những khó khăn nhất định. Trong khi đó, bản thân một số TCTD thành viên cũng gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình thị trường thông qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác diễn biến thực tế.
Chính vì vậy cho đến nay, NHNN vẫn chưa xây dựng được cơ chế truyền tải của CSTT và chưa lượng hoá được mức độ tác động của các công cụ CSTT đến M2 và các chỉ tiêu vĩ mô khác của nền kinh tế. Đây là một trong những nhược điểm lớn trong điều hành CSTT của NHNN.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO còn bất cập. Sự không đồng bộ trong ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn chế số lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTMCP (các chương trình phần mềm ứng dụng từ năm 2000-2004 còn có sự tách biệt nên khó sử dụng đối với các thành viên ít giao dịch). Việc nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho các nghiệp vụ thị trường mở nói riêng và các nghiệp vụ của NHNN nói chung còn chậm làm hạn chế đến tiến độ triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại vào các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ trong đó có nghiệp vụ OMO.
Thứ ba, nhiều TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu quả của công cụ này. NHNN đã tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức tập huấn triển khai hoạt động thị trường mở … nhằm phát triển hoạt động OMO nói riêng cũng như các hoạt động thị trường tiền tệ nói chung nhưng vẫn chưa được một số TCTD thực sự quan tâm. Số lượng thành viên thường xuyên tham gia OMO đã tăng nhưng vẫn còn hạn chế, chỉ có 14/29 TCTD thường xuyên tham gia các giao dịch OMO. Điều này không chỉ làm hạn chế sự tác động của OMO đến thị trường mà còn hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của TCTD.
Thứ tư, hàng hoá của OMO tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa thực sự đa dạng hoá. Trong thời gian từ năm 200-2003, công cụ giao dịch OMO chỉ bao gồm các GTCG ngắn hạn. Thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, danh mục GTCG đã được mở rộng, lượng GTCG có thể giao dịch trong OMO đã tăng lên, song vẫn tập trung tại các NHTMNN.
Kỳ hạn của trái phiếu, tín phiếu Chính phủ - loại hàng hoá chủ yếu trong OMO - vẫn chưa thực sự đa dạng hoá, nhất là các tín phiếu kho bạc với thời hạn dưới 364 ngày ít được phát hành. Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện đầu tư vào GTCG, tạo hàng hoá tham gia OMO và các nghiệp vụ thị trường tiền tệ khác.
CHƯƠNG III.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Định hướng xây dựng và phát triển hệ thống công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới
Để nâng cao hiệu lực xây dựng và điều hành CSTT của NHNN, định hướng quan trọng là phải phối hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ các công cụ của CSTT, tạo nên một hệ thống công cụ thực sự hợp lý và hiệu quả.
Việc thiết kế tổng thể hệ thống các công cụ CSTT trong thời gian tới cần phải lưu ý và cân nhắc 2 vấn đề:
Một là, xác định những công cụ mà NHNN sẽ sử dụng để điều hành CSTT, lựa chọn các công cụ ưu tiên;
Hai là, xác lập hệ thống các công cụ, đưa ra cơ chế vận hành của hệ thống và hướng hoàn thiện tiếp theo của hệ thống đó.
Nhiệm vụ quan trọng đặt ra là một mặt phải hoàn thiện những công cụ đã và đang sử dụng, mặt khác phải nhanh chóng triển khai các công cụ khác nếu cần thiết, nhằm tạo dựng một hệ thống công cụ đáp ứng tốt yêu cầu thực thi CSTT trong điều kiện mới.
Trước mắt trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, công cụ OMO đang mang dáng dấp thử nghiệm, công cụ TCV và DTBB chưa thực sự phát huy hiệu quả, NHNN cần phải phối hợp tốt giữa công cụ tỷ giá và công cụ lãi suất, tạo nên trục cơ bản cho điều hành CSTT. Mối quan hệ giữa tỷ gía và lãi suất ngày càng thể hiện trọng tâm điều tiết của NHNN. Sự quan tâm điều tiết của NHNN sẽ có tác động mạnh tới tâm lý của người gửi tiền vào ngân hàng.Vì vậy NHNN cần làm rõ tính quy luật và khả năng lượng hoá mối quan hệ giữa tỷ giá và chính sách lãi suất một cách đồng bộ và nhịp nhàng, đảm bảo hiệu lực của chính sách mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho nền kinh tế và tâm lý xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, NHNN vẫn phải tiếp tục lựa chọn mục tiêu hoạt động là dự trữ ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, chưa thể áp dụng mục tiêu hoạt động là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hoặc lãi suất thị trường mở. Chính vì vậy, các công cụ hiện có vẫn đã và đang là những công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT.
Bên cạnh đó, cần phải triệt để khai thác các công cụ OMO, TCV, DTBB để tác động vào khối lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của các TCTD, đồng thời là những yếu tố tác động thêm tỷ giá và lãi suất theo định hướng của CSTT. Đồng thời tạo môi trường, điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhanh chóng ba công cụ này, đưa chúng vào vị trí quan trọng nhất trong điều hànhh CSTT.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, thị trường mở đã từng bước khẳng định được vai trò là công cụ quan trọng trong điều hành CSTT của NHNN. Trong thời gian tới, mục tiêu của NHNN là nâng dần vị trí, vai trò của công cụ OMO trong các công cụ điều hành của NHNN, đồng thời kết hợp với các công cụ khác để thực hiện tốt mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ.
Những tiền đề thuận lợi để thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển công cụ OMO trong thời gian tới là:
- Các TCTD đang từng bước cơ cấu lại để có đủ khả năng cạnh tranh và thực hiện đa dạng các nghiệp vụ ngân hàng của nền kinh tế thị trường;
- Nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động tài chính - ngân hàng nói riềng đang chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, với việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ, tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO);
- Các công cụ thực hiện CSTT của NHNN đã và đang từng bước được đổi mới và phát huy tác dụng; NHNN xác định sẽ xây dựng công cụ OMO trở thành công cụ chủ yếu và quan trọng nhất để thực hiện CSTT trong thời gian tới.
Để từng bước ổn định và đưa hoạt động OMO trở thành công cụ chủ đạo trong việc thực hiện mục tiêu CSTT, định hướng cụ thể cho công cụ này như sau:
3.1.2.1. Định hướng lâu dài
- Phấn đấu đến năm 2007, NHNN sẽ tổ chức các phiên giao dịch OMO hàng ngày vào 10 giờ sáng và tiến tới sẽ giao dịch đủ lượng cần mua, lượng cần bán, đáp ứng nhu cầu thừa, thiếu vốn khả dụng của các TCTD, để hoạt động OMO thực sự trở thành công cụ quan trọng thực hiện CSTT.
- Tạo điều kiện thúc đẩy sự hoạt động của các thị trường như: thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, thị trường mua bán lại GTCG giữa các TCTD, giữa TCTD với khách hàng … nhằm tạo động lực thúc đẩy hoạt động thị trường mở.
- Từng bước mở rộng và đa dạng hoá các loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường mở. Trước mắt vẫn duy trì các loại hàng hoá như hiện nay. NHNN sẽ từng bước xem xét mở rộng thêm các loại GTCG khác như trái phiếu do các tổ chức tài chính, TCTD, UBND các tỉnh, thành phố lớn phát hành.
- Thực hiện cơ cấu lại tình hình tài chính và tổ chức của các NHTMCP nhằm nâng cao năng lực tài chính và mức độ tín nhiệm trong việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, đáp ứng yêu cầu đổi mới trong nền kinh tế thị trường.
3.1.2.2. Định hướng trước mắt
- Trên cơ sở duy trì các loại GTCG như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN làm “hàng hoá’ chủ yếu cho các phiên giao dịch thị trường mở, từng bước mở rộng và đa dạng hoá các loại hàng hoá của thị trường mở như: tín phiếu, kỳ phiếu của các NHTMNN, trái phiếu của Quỹ Hỗ trợ phát triển, trái phiếu đô thị do các tỉnh, thành phố lớn, đã tự chủ ngân sách phát hành;
- Rà soát lại các quy định của NHNN về các vấn đề có liên quan đến hoạt động thị trường mở để điều chỉnh cho phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD tham gia;
- Phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả giữa công cụ OMO với các công cụ khác để thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT;
- Làm tốt hơn công tác thông tin, tuyên truyền, tập huấn nghiệp vụ để các TCTD ngày càng thấy rõ hiệu quả của việc tham gia vào các phiên giao dịch của thị trường mở. NHNN nên định kỳ sơ kết, đánh giá hoạt động thị trường mở với các thành viên để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các TCTD khi tham gia OMO;
- Cải tiến và nâng cao chất lượng thu thập, dự báo và phân tích vốn khả dụng của các NHTM, để làm cơ sở cho Ban điều hành OMO đưa ra các quyết định chính xác, kịp thời cho các phiên giao dịch OMO.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.2.1. Các giải pháp chủ yếu
3.2.1.1. Bổ sung thêm hàng hoá giao dịch trên thị trường mở
Để hoạt động trên thị trường thực sự sôi động thì một trong những điều kiện cần thiết là phải bổ sung thêm các loại hàng hoá cho thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN cần xem xét bổ sung thêm các loại GTCG được phép giao dịch trên thị trường mở.
Bên cạnh các GTCG do Bộ Tài chính phát hành thì NHNN có thể chấp thuận các loại GCTG khác do các tổ chức tài chính, tín dụng lớn, có uy tín, các chính quyền địa phương hoặc các tổng công ty lớn của Nhà nước được phép giao dịch trên thị trường mở như: trái phiếu của Quỹ Hỗ trợ phát triển, trái phiếu của các NHTMNN, trái phiếu đô thị của UBND các tỉnh, thành phố lớn đã tự chủ được ngân sách địa phương, trái phiếu của các Tổng công ty dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Việc đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở sẽ thúc đẩy các NHTM đầu tư vào các GTCG này, từ đó tăng thêm tính thanh khoản của các GTCG này và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán trái phiếu.
3.2.1.2. Đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều kỳ hạn trong một phiên
Hiện nay, phần lớn trong một phiên giao dịch chỉ có một kỳ hạn và giao dịch theo một chiều mua hoặc bán nên các thành viên thị trường mở không có nhiều sự lựa chọn. Kỳ hạn giao dịch ngắn nhất là 7 ngày và thường giao dịch với kỳ hạn 15 ngày và 30 ngày.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong việc lựa chọn kỳ hạn giao dịch, NHNN cần đa dạng hoá hơn nữa các kỳ hạn giao dịch trong một phiên giao dịch. Trong thời gian trước mắt, NHNN có thể áp dụng 2 kỳ hạn giao dịch trong một phiên. Việc áp dụng nhiều kỳ hạn trong một phiên sẽ cho phép các thành viên có thêm sự lựa chọn phù hợp với dự báo nhu cầu vốn của họ. Qua đó, sẽ tạo thêm cơ hội và tăng sự hấp dẫn của thị trường mở đối với các thành viên.
Bên cạnh đó, NHNN cần phân bổ hợp lý các kỳ hạn giao dịch. Trong thời gian chưa triển khai được việc đa dạng kỳ hạn giao dịch trong một phiên, NHNN cần phân bổ kỳ hạn hợp lý nhằm tránh tình trạng các thành viên phải dồn trả nhiều hợp đồng vào cùng một ngày hoặc vào các ngày quá gần nhau làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của họ, ví dụ hợp đồng 30 ngày và hợp đồng 15 ngày đáo hạn cùng một thời điểm.
NHNN cũng cần tiến tới áp dụng giao dịch mua bán kỳ hạn qua đêm đối với OMO. NHNN sẽ định hướng đưa ra giao dịch repo kỳ hạn qua đêm để thúc đẩy thị trường hoạt động linh hoạt và kịp thời. Công tác dự đoán và quản lý vốn của NHNN và NHTM do đó được tiến hành trên cơ sở từng ngày, đảm bảo chính xác và hiệu quả. Để giao dịch ở kỳ hạn này, NHNN và NHTM cần có những cải tiến và hoàn thiện về mặt quản lý, trình độ và công nghệ. Đây là một đòn bẩy để giúp thị trường vốn phát triển theo xu hướng quốc tế.
3.2.1.3. Tăng tần suất giao dịch trên thị trường mở, tiến tới giao dịch 02 phiên/ngày
Hiện nay, tần suất giao dịch thị trường mở là 3 phiên/tuần, nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của thị trường, nhất là vào những thời kỳ mà nhu cầu vốn của hệ thống ngân hàng tăng nhanh. Chính vì vậy, việc gia tăng tần suất giao dịch của thị trường mở là hết sức cần thiết để tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng thêm mức độ can thiệp của NHNN đến thị trường.
Trước mắt, trong năm 2006, NHNN có thể định kỳ tổ chức 01 phiên/ngày vào lúc 11 giờ sáng, tức là 5 phiên/tuần, tăng thêm 2 phiên/tuần so với hiện nay. Điều này cho phép NHNN có thể bổ sung hoặc hấp thụ vốn kịp thời từ hệ thống ngân hàng, tăng thêm khả năng và mức độ can thiệp thị trường của NHNN. Ngoài ra cũng cho phép NHNN có thể kịp thời sửa chữa các sai lầm của mình trong các phiên trước đó.
Sau đó, cùng với sự gia tăng của các thành viên thị trường và khối lượng giao dịch trên thị trường, NHNN cần tiến tới tổ chức giao dịch 2 phiên/ngày vào lúc 11 giờ sáng và 3 giờ chiều. Khi đó, NHNN có thể can thiệp kịp thời tới thị trường để đáp ứng đầy đủ, nhanh chóng nhu cầu vốn của các TCTD thành viên cũng như hệ thống ngân hàng.
3.2.1.4. Hoàn thiện các quy định lưu ký giấy tờ có giá tại Ngân hàng Nhà nước
Hiện nay, mặc dù việc đặt thầu, xét thầu và thông báo đều đã thực hiện qua mạng nhưng việc theo dõi, lưu ký GTCG của NHNN thực hiện hoàn toàn thủ công bằng văn bản. Điều này làm kéo dài thời gian giao nhận GTCG giữa NHNN và các TCTD khi thực hiện các giao dịch thị trường mở. Vì vậy, việc theo dõi lưu ký GTCG bằng phần mềm sẽ góp phần khắc phục hạn chế này. Phần mềm lưu ký GTCG phải cho phép nối mạng giữa NHNN, các thành viên thị trường và các tổ chức lưu ký. Khi các TCTD có nhu cầu giao dịch với NHNN thì việc giao nhận GTCG cần được thực hiện nhanh chóng. Các GTCG đang lưu ký tại các tổ chức lưu ký như Trung tâm giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán, các công ty chứng khoán có thể nhanh chóng được chuyển vào tài khoản lưu ký GTCG của NHNN. NHNN cũng có thể kiểm tra tức thời các tài khoản lưu ký GTCG này để thực hiện các giao dịch với các TCTD.
Mặt khác, NHNN cần tiến tới việc quản lý lưu ký GTCG trong hệ thống NHNN tập trung về Hội sở chính của NHNN. Việc quản lý lưu ký GTCG của NHNN hiện nay đang thực hiện phân tán tại Sở Giao dịch NHNN và các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Điều này cho phép Ban điều hành OMO và các đơn vị liên quan tại NHNN có thể theo dõi sự luân chuyển GTCG chặt chẽ hơn.
3.2.1.5. Cải tiến, nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng công nghệ cho thị trường mở
Bên cạnh việc cải tiến, hoàn thiện các quy định thì NHNN cần thực hiện đồng bộ việc cải tiến, nâng cấp hạ tầng công nghệ của thị trường mở. Để làm được điều đó, NHNN cần phải thực hiện một số biện pháp sau :
- Tiếp tục nâng cấp và đồng bộ hoá các trang thiết bị phần cứng, hoàn thiện chương trình phần mềm ứng dụng đối với OMO để tạo điều kiện cho các TCTD thành viên thực hiện nghiệp vụ một cách nhanh chóng, thông suốt, đáp ứng yêu cầu phát triển của nghiệp vụ này;
- Hiện nay tốc độ đường truyền giữa NHNN với các TCTD đã được nâng lên tới 64kps nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về tốc độ. Hiện tượng quá tải và nghẽn mạch đường truyền đã xảy ra khi cùng lúc có nhiều thành viên đăng nhập giao dịch. Chính vì vậy, NHNN cần phải nhanh chóng tăng tốc độ đường truyền. NHNN có thể tăng cường tốc độ đường truyền bằng cách mở rộng băng thông đường truyền, nhất là đường truyền giữa các TCTD và NHNN và giữa Sở Giao dịch NHNN với Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Việc nâng cấp đường truyền cần được thực hiện nhanh chóng để đáp ứng sự gia tăng về thành viên và khối lượng giao dịch của thị trường mở trong tương lai. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần xây dựng các kênh dự phòng để đảm bảo giao dịch được thực hiện thông suốt, không bị đứt quãng.
- NHNN cần tích hợp phần mềm giao dịch OMO với phần mềm đấu thầu tín phiếu kho bạc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý GTCG, thao tác nghiệp vụ và luân chuyển thông tin giữa 2 thị trường sơ cấp và thứ cấp.
- Kết nối với hệ thống lưu ký GTCG, hệ thống kế toán, thanh toán để thống nhất quản lý GTCG từ khi phát hành, luân chuyển giữa các TCTD, thanh quyết toán và sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng và thị trường chứng khoán.
- NHNN cũng cần tăng cường an ninh trên mạng máy tính, nhất là với các thông tin mang tính nhạy cảm của NHNN. Đến nay, mặc dù chưa để xảy ra trường hợp thông tin bị lấy cắp hay can thiệp trái phép trên đường truyền nhưng không vì thế mà công tác an ninh mạng có thể lơ là. Bên cạnh việc sử dụng các tính năng bảo mật của các phần mềm thì NHNN cần trang bị các thiết bị an ninh mạng chuyên dụng và tăng cường nhân lực về công nghệ thông tin để đảm bảo an toàn, bảo mật các thông tin trong giao dịch thị trường mở, đảm bảo mạng máy tính hoạt động thông suốt, an toàn, phát hiện và xử lý kịp thời các truy nhập, can thiệp trái phép vào hệ thống.
3.2.1.6. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, thông tin rộng rãi về OMO để thu hút thêm các TCTD tham gia thị trường mở
Mở rộng hệ thống công nghệ thông tin OMO từ chỗ chỉ là nơi thuần tuý thực hiện các giao dịch mua bán GTCG phát triển thành cổng thông tin của thị trường tiền tệ như thông tin về nhu cầu vốn khả dụng, nhu cầu mua bán GTCG của các TCTD, thông tin về khối lượng GTCG do NHNN và Bộ Tài chính phát hành, khối lượng GTCG do NHNN và các TCTD nắm giữ.
Hiện nay, dù đã qua 5 năm hoạt động nhưng số lượng thành viên tham gia còn ít, nhất là các NHTMCP và chi nhánh NHNg. Điều này làm hạn chế tính hiệu quả của công cụ và giảm mức độ can thiệp của NHNN đối với thị trường tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Do đó, việc tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về tính ưu việt, tiện dụng, hiệu quả của nghiệp vụ OMO là hết sức cần thiết. Mục tiêu là đến năm 2007 phải đạt được 40 thành viên tham gia OMO và có tới 25 thành viên hoạt động thường xuyên.
Để thực hiện được mục tiêu này, NHNN cần tăng cường biện pháp trao đổi thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường để kịp thời nắm bắt diễn biến thị trường làm cơ sở cho việc thực hiện OMO nói riêng và điều hành CSTT nói chung. NHNN cần công bố tỷ lệ định hướng xét thầu giữa các loại GTCG trong từng phiên để các thành viên có cơ sở đặt thầu cạnh tranh. Việc công bố định hướng điều hành của NHNN có thể thông qua Website của NHNN. NHNN cũng cần cho phép các thành viên thị trường mở có thể theo dõi trực tiếp các GTCG của mình đang lưu ký tại Sở Giao dịch NHNN và tình trạng giao dịch của các GTCG đó, đồng thời bổ sung kịp thời các thông tin về kết quả chi tiết của các phiên đấu thầu thị trường mở như thông tin cập nhật trên mạng tin Reuters.
Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần quan tâm hơn nữa đến các tín hiệu và cảnh báo của NHNN trên thị trường tiền tệ để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
3.2.1.7. Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường mở
Con người luôn là yếu tố then chốt và quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết vừa lâu dài.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia điều hành thành công CSTT thì năng lực và kinh nghiệm của các cán bộ xây dựng và điều hành CSTT được đặc biệt chú trọng. Tại một số quốc gia, như Mỹ, Hội đồng lãnh đạo NHTW có nhiệm kỳ làm việc rất dài. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ NHTW cao hơn chế độ thông thường.
Do vậy, để hoàn thiện và triển khai hiệu quả OMO tại Việt Nam, điều quan trọng là phải nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành OMO, không chỉ tại NHNN mà còn tại các TCTD thành viên. NHNN và các ngân hàng cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ. Chương trình đào tạo cần phải được chuẩn hoá và phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đào tạo lý thuyết cơ bản thì cũng cần tiến hành các khoá học ở trong nước và nước ngoài.
3.2.1.8. Mở rộng các thành viên thị trường mở
Hiện nay, thành viên thị trường mở chủ yếu là các ngân hàng và tại Việt Nam vẫn chưa hình thành các nhà giao dịch sơ cấp. Điều này là phù hợp với thực tế và trình độ quản lý hiện nay của NHNN cũng như các TCTD.
Trong tương lai, để tăng cường khả năng can thiệp của NHNN thông qua thị trường mở, NHNN cần nghiên cứu mở rộng các thành viên thị trường. Theo đó, các tổ chức như Quỹ Hỗ trợ phát triển, Kho bạc Nhà nước, Quỹ Bảo hiểm xã hội, Công ty tiết kiệm bưu điện ... sẽ được chấp thuận là thành viên của thị trường mở. Điều kiện tiên quyết là các tổ chức này phải có tài khoản giao dịch tại NHNN và có hệ thống máy tính nối mạng với NHNN. Việc mở rộng thành viên thị trường mở cho phép các tổ chức sử dụng vốn nhàn rỗi hiệu quả hơn trên thị trường.
3.2.1.9. Công nhận chữ ký điện tử trong các giao dịch thị trường mở
Hiện nay, mặc dù tại các bản đăng ký mua, bán GCTG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng đều được ký duyệt trên mạng nhưng NHNN vẫn yêu cầu phải có chữ ký của lãnh đạo các TCTD trên các bản in để thực hiện chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký điện tử hay chữ ký của người được uỷ quyền. Tại các TCTD, hiện nay việc thực hiện các giao dịch trên thị trường tiền tệ thường do Lãnh đạo của bộ phận phụ trách nguồn vốn trực tiếp thực hiện. Do đó, việc yêu cầu các giấy tờ có chữ ký của lãnh đạo các TCTD đã tăng thêm các thủ tục hành chính trong các giao dịch giữa NHNN với các TCTD.
Để giảm bớt thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian hoàn thành các giao dịch thị trường mở, NHNN cần chấp nhận sử dụng các chữ ký điện tử của lãnh đạo TCTD hoặc những người được uỷ quyền trong các giao dịch này. Để thực hiện được điều này, NHNN cần bổ sung quy định về việc sử dụng chữ ký điện tử trong các giao dịch tiền tệ với NHNN và chấp nhận hoàn toàn chữ ký điện tử trong các giao dịch thị trường mở. Các TCTD cần thông báo và đăng ký các chữ ký của những người chịu trách nhiệm thực hiện các giao dịch thị trường mở với NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần tăng cường công tác bảo mật chữ ký điện tử và an ninh mạng nhằm tránh trường hợp các chữ ký này bị sử dụng ngoài ý muốn của TCTD và các hoạt động thị trường mở bị can thiệp bất hợp pháp.
3.2.2. Các giải pháp bổ trợ
3.2.1.1. Đa dạng hoá thời hạn và tăng khối lượng phát hành của các giấy tờ có giá
Các GTCG như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc là những loại GTCG được ưa thích đối với các TCTD và NHNN, do vậy việc phát hành các loại GTCG này là cần thiết. Tuy nhiên hiện nay, kỳ hạn của các loại GTCG này khá đơn điệu, không có tính liên tục. Do vậy, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trong việc phát hành các loại GTCG như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc ... sao cho các kỳ hạn phát hành đủ nhiều, gồm từ thời hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng đến các kỳ hạn dài hơn như 18 tháng, 2 năm, 3 năm, 5 năm, 10 năm ... để hình thành nên các lãi suất chuẩn (có tính tham chiếu) cho thị trường và tránh sự trùng lắp giữa kỳ hạn của các GTCG do NHNN và Bộ Tài chính phát hành. Nếu Bộ Tài chính phát hành các loại GTCG có thời hạn từ 6 tháng trở lên thì NHNN có thể phát hành tín phiếu NHNN với thời hạn từ 7 ngày đến 182 ngày, nhằm bù đắp sự thiếu hụt về kỳ hạn của thị trường giao dịch GTCG.
Việc đa dạng hoá các kỳ hạn phát hành của GTCG giúp cho các thành viên có thêm sự lựa chọn để đầu tư và giao dịch, đồng thời giúp cho NHNN có thêm loại hàng hoá với khối lượng lớn để can thiệp thị trường khi cần thiết.
3.2.2.2. Hình thành cơ chế chuyển tải các tác động của chính sách tiền tệ
Sơ đồ 3.1. Cơ chế chuyển tải tác động của CSTT
NHTW
TCV
DTBB
OMO
Lãi suất liên ngân hàng
(mục tiêu hoạt động của CSTT)
Tỷ giá hối đoái
Giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Lãi suất dài hạn trên thị trường
NHNN cần phải thiết lập rõ ràng cơ chế chuyển tải tác động và hệ thống mục tiêu CSTT một cách nghiêm chỉnh. Cơ chế chuyển tải CSTT là các quá trình mà CSTT tác động đến giá cả và các hoạt động kinh tế vĩ mô, bao gồm kênh giá cả (kênh lãi suất, kênh tỷ giá, kênh giá tài sản) và kênh số lượng (kênh tiền tệ và kênh tín dụng). Về lý thuyết, cơ chế truyền tải và những mục tiêu này ở Việt Nam giống như mục tiêu chung của CSTT ở các nước. Nhưng ở Việt Nam điều này không dễ dàng. Trong điều kiện của chúng ta chưa có thị trường tiền tệ phát triển, công tác dự báo chưa áp dụng được mô hình kinh tế lượng thì các kênh số lượng tác động đến các mục tiêu vĩ mô mạnh hơn là các kênh giá cả thông qua thị trường tín dụng, tuy chưa phải là hoàn hảo. NHNN thường sử dụng khối lượng tiền MS để qua đó tác động đến lãi suất thị trường. Hiện nay, kênh tín dụng và tiền tệ là các kênh chính, song cũng chưa truyền tải được các tác động của CSTT trong CSTT nới lỏng vì độ nhạy cảm chưa cao, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế kém, chất lượng tín dụng kém. Kênh lãi suất bị hạn chế do độ nhạy cảm của đầu tư và tiêu dùng đối với lãi suất thấp trong khi độ nhạy cảm của cầu tiền đối với lãi suất cao. Thị trường bất động sản biến động bất thường làm cho M2 biến động ngoài tầm kiểm soát của NHNN, thị trường chứng khoán chưa phát triển làm cho kênh giá tài sản kém hiệu quả. Kênh tỷ giá bị hạn chế do cơ chế tỷ giá chưa linh hoạt, ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát lượng tiền cung ứng của NHNN. Như vậy, chỉ khi thiết lập được cơ chế chuyển tải các tác động chính sách của NHNN đến thị trường thì các công cụ OMO, TCV và DTBB của NHNN mới thực sự phát huy được vai trò định hướng, điều tiết thị trường.
3.2.2.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ
Để hoạt động thị trường mở có hiệu quả, thì phải có sự tồn tại của một thị trường tiền tệ phát triển. Đó là nơi các GTCG được giao dịch với nhiều kỳ hạn khác nhau. Có 3 loại thị trường là: (i) thị trường giao dịch các GTCG ngắn hạn của Chính phủ và NHTW,(ii) thị trường mua bán nợ, (iii) thị trường giao dịch các công cụ nợ ngắn hạn khác như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng ...
Phát triển thị trường tiền tệ có thể nói là điều kiện quan trọng để xây dựng được một cơ chế chuyển tải CSTT nhạy cảm với cơ chế điều hành qua kênh giá cả và nâng cao hiệu quả điều hành các công cụ CSTT của NHTW.
Để phát triển thị trường tiền tệ, NHNN cần thực hiện:
- Tập trung xây dựng và hoàn chỉnh các quy chế cho các thị trường tiền tệ theo hướng mở rộng khả năng phát hành các công cụ có khả năng thanh toán và các công cụ mới của các NHTM và nâng cao khả năng kiểm soát và điều tiết thị trường của NHNN.
- Xây dựng thị trường mua bán lại GTCG nhằm tăng cường tính thanh khoản của các GTCG và khả năng thanh toán của NHTM.
- Nghiên cứu để hoàn thiện các công cụ hiện có và áp dụng công cụ mới cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhất là các công cụ phòng chống rủi ro về tỷ giá.
- Hiện nay, tại Việt Nam chưa hình thành được các lãi suất chuẩn trên thị trường. Chính vì vậy, việc mua bán các GTCG chưa hoàn toàn theo giá thị trường. Lãi suất của trái phiếu chính phủ hiện nay còn cạnh tranh với lãi suất huy động của các ngân hàng làm ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Để hình thành được các lãi suất chuẩn thì thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu cần được phát triển. Để phát triển thị trường tiền tệ, trước hết cần: (i) Tăng cường việc phát hành GTCG của Chính phủ qua kênh TCTD và giảm thiểu việc phát hành qua kênh bán lẻ trực tiếp cho dân chúng; (ii) Việc phát hành cần thực hiện qua kênh đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước. Đối tượng mua chỉ là các định chế tài chính. Thị trường chứng khoán chỉ là nơi mua bán lại trái phiếu chính phủ, không nên là nơi phát hành lần đầu. Khi đó, hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán sẽ đảm nhận việc huy động vốn từ khu vực dân cư.
3.2.2.4. Tăng cường khả năng dự đoán cung cầu vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng
Để điều hành CSTT hiệu quả, một yêu cầu đặt ra là NHNN phải thực hiện quản lý nguồn vốn khả dụng của các ngân hàng. Tức là phải xác định mức độ dự trữ đối với tiền dự trữ của các NHTM, dự báo mức dự trữ thực tế trong từng thời kỳ trên cơ sở tổng hợp, phân tích các số liệu liên quan ảnh hưởng đến tiền dự trữ của các NHTM tại NHNN. Trên cơ sở đó xác định mức độ, thời gian tác động của các công cụ CSTT, nhất là các công cụ TCV, nghiệp vụ thị trường mở, vào vốn khả dụng của các NHTM, nhằm điều tiết thị trường vốn một cách linh hoạt hơn, nhạy bén hơn, đảm bảo các mục tiêu đề ra.
Để quản lý vốn khả dụng, yêu cầu đặt ra đối với NHNN và các NHTM là:
(1) Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vốn khả dụng của NHTM, như:
- Cân đối tiền mặt trong hệ thống NHTM
- Dự trữ bắt buộc duy trì và quỹ dự trữ của NHTM
- Tình hình thu chi ngân sách nhà nước (thông qua số dư tiền gửi của hệ thống kho bạc tại NHTM),
- Hoạt động can thiệp đồng bản tệ trong ngày thông qua việc cung ứng tiền của NHNN
- Dự báo tính thời vụ của tín dụng,
- Nhu cầu giải ngân, thanh toán của NHTM trong ngày và trong những ngày tới
(2) Thiết lập cơ sở dữ liệu lịch sử và hiện tại để phân tích mức độ ảnh hưởng và xu thế biến động của từng yếu tố và tổng mức vốn khả dụng
- Tính toán và dự báo khả năng thanh toán thừa hay thiếu, để làm cơ sở quyết định việc bơm tiền ra hay rút tiền khỏi lưu thông
- Sử dụng các kỹ thuật dự báo để dự báo mức tiền dự trữ cho kỳ kế hoạch, dự trữ hàng ngày.
3.2.2.5. Hoàn thiện công tác thanh toán trong hệ thống ngân hàng
Mặc dù hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã được NHNN đưa vào sử dụng từ năm 2003 nhưng đến nay, nhiều giao dịch thanh toán giữa các TCTD vẫn chưa được thực hiện qua hệ thống này. Lý do xuất phát từ việc thực hiện thanh toán phân tán giữa các TCTD tại các địa phương và hệ thống thanh toán của nhiều TCTD còn chưa kết nối được với hệ thống thanh toán điện tử của NHNN.
Để tăng cường khả năng quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các TCTD, công tác thanh toán trong hệ thống ngân hàng cần nhanh chóng được hoàn thiện. Các TCTD cũng cần hiện đại hoá hệ thống thanh toán của mình, tiến tới thực hiện quản lý nguồn vốn tập trung tại Hội sở chính và chỉ thực hiện giao dịch giữa các TCTD với nhau thông qua hệ thống thanh toán của NHNN.
Bên cạnh đó, NHNN cần phải đẩy mạnh tiến độ và mở rộng phạm vi, đối tượng áp dụng của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. NHNN cần mở rộng phạm vi thanh toán đối với các luồng thanh toán giá trị thấp của TCTD và hạn chế việc thực hiện thanh toán bù trừ tại chi nhánh NHNN ở các địa phương.
3.2.2.6. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Để nâng cao được năng lực điều hành các công cụ CSTT, trước hết cần đánh giá và xem xét lại cơ chế điều hành của từng công cụ CSTT và đề ra phương án cải tiến, hoàn thiện đồng thời nghiên cứu đưa thêm công cụ mới vào hoạt động. NHNN cần hoàn thiện các công cụ CSTT như sau:
- Hoàn thiện các công cụ TCV theo hướng trở thành công cụ quan trọng của NHNN khi muốn bổ sung vốn cho hệ thống ngân hàng. NHNN xây dựng lộ trình và từng bước từ bỏ hình thức chiết khấu GTCG đối với các ngân hàng và hình thức cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ; Bổ sung hình thức cho vay qua đêm là một hình thức TCV của NHNN;
- Bổ sung hình thức nhận tiền gửi ngắn hạn (thường là qua đêm) của các NHTM tại NHNN là một công cụ CSTT của NHNN. Lãi suất tiền gửi có tính định hướng như lãi suất sàn trên thị trường liên ngân hàng, các NHTM sẽ gửi tại NHNN khi không thể đầu tư dưới hình thức nào khác.
- Hoàn thiện công cụ DTBB nhằm nâng cao khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và tạo điều kiện cho các NHTM sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả hơn. Theo đó NHNN không trả lãi đối với tiền gửi dự trữ vượt mức và trả lãi tiền dự trữ bắt buộc, mở rộng diện tiền gửi phải DTBB. Tỷ lệ DTBB cần được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh các công cụ khác của CSTT.
3.2.2.7. Phối hợp đồng bộ trong quá trình sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ
Toàn bộ hệ thống điều hành CSTT có nhiều loại công cụ khác nhau. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và mục tiêu điều tiết trong từng thời kỳ, NHNN xác định và lựa chọn sử dụng công cụ nào, bao nhiêu công cụ cùng một lúc, mức độ quan trọng của từng công cụ. Sự phối hợp giữa các loại công cụ khác nhau trong điều hành tức là tìm ra phương án sử dụng linh hoạt các công cụ với nhau sao cho hiệu quả quản lý cao nhất. Khi phối hợp các công cụ như vậy phải tuân thủ nguyên tắc: phải tạo ra hiệu lực cao; tạo ra tính đồng bộ; và có sự phù hợp với các điều kiện của thị trường. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, có thể xảy ra hai tình huống:
Thứ nhất, phối hợp công cụ lãi suất với công cụ tỷ giá. Sự phối hợp này hướng vào mục tiêu tỷ giá nhằm tạo ra sự cân bằng bên ngoài trên cơ sở tỷ giá ổn định. Đạt được mục tiêu tỷ giá sẽ góp phần ổn định các hoạt động kinh tế ngoại thương và đặc biệt là khắc phục được dòng chảy từ nội tệ sang ngoại tệ hoặc ngược lại. Mặt khác phối hợp chặt hai công cụ này còn góp phần ổn định đầu tư tạo ra sự cân bằng bên trong trên cơ sở lạm phát được kiểm soát.
Thứ hai, phối hợp nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và tái cấp vốn. Sự phối hợp này hướng vào mục tiêu kiểm soát tổng lượng M2 nhằm tạo ra sự cân bằng bên trong trên cơ sở lạm phát được kiểm soát. Đây là phương án phối hợp nhằm có được sự ổn định trên cơ sở khối lượng tiền phù hợp với các yêu cầu đòi hỏi. NHNN làm tăng hay giảm khối lượng tiền để tác động vào đầu tư, sản lượng và các mục tiêu xây dựng khác bằng cách sử dụng đồng thời các công cụ trên theo nguyên tắc cùng chiều hoặc ngược lại.
3.2.2.8. Nâng cao hơn nữa sự độc lập của Ngân hàng Nhà nước
Luật NHNN đã được sửa đổi năm 2004 nhưng những quy định cơ bản về vị thế của NHNN hầu như vẫn được giữ nguyên theo Luật cũ. Với những quy định như vậy, NHNN chưa đủ tính chủ động để điều hành CSTT quốc gia. Việc hoạch định và thực thi CSTT của NHNN vẫn còn lệ thuộc nhiều vào Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư... Việc chỉnh sửa Luật là cần thiết tuy nhiên là cả một quá trình. Trong bối cảnh hiện nay và sắp tới, chúng ta cũng chưa thể thay đổi mạnh mẽ vị thế của NHNN nhưng có thể kiến nghị một số điều để làm tăng tính chủ động cho NHNN:
- Đề nghị Chính phủ cho phép NHNN có quyền chủ động hơn trong quyền hạn, cơ chế, chính sách và nghiệp vụ của NHNN thông qua việc tăng cường chức năng NHTW cho NHNN, giảm vai trò quản lý nhà nước đối với những hoạt động không phải là ngân hàng. Toàn bộ chính sách của NHNN nên căn cứ vào điều kiện của kinh tế thị trường để độc lập xây dựng, Quốc hội là người quyết định những chỉ tiêu cần thiết và Chính phủ phê duyệt các chính sách cơ bản. NHNN cần được chủ động hơn trong việc quyết định lượng tiền cung ứng, Chính phủ chỉ khống chế tỷ lệ lạm phát hàng năm cần phải đạt tới.
- Giảm các khoản vay mượn của Chính phủ từ NHNN; tách hẳn các hoạt động can thiệp của Chính phủ vào các khoản tín dụng chỉ định. Tách các hoạt động phục vụ ngân sách trong hoạt động của NHNN.
3.2.2.9. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành liên quan trong điều hành chính sách tiền tệ
Hiện nay, NHNN chỉ có một thành viên trong Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia. Vì vậy, NHNN không thể chủ động và độc lập trong việc xây dựng và điều hành CSTT. Do đó, cần có một cơ chế phối hợp hành động giữa các Bộ ngành và NHNN trong điều hành CSTT nhằm hạn chế những tác động ngược chiều của các chính sách kinh tế vĩ mô, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành CSTT. Để thực hiện điều đó, NHNN cần:
- Đảm bảo sự phối hợp, thống nhất về mục tiêu từng chính sách kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ
- Xây dựng cơ chế phối hợp cung cấp thông tin giữa các Bộ, ngành (Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Bộ Thương mại, …) và NHNN để đảm bảo NHNN có thể dự báo được vốn khả dụng và kiểm soát được toàn bộ lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, cụ thể:
+ Thiết lập một kênh thông tin kết nối giữa các Bộ ngành với hệ cơ sở dữ liệu trung tâm của NHNN. Riêng NHNN với Bộ Tài chính cần tạo dựng mối quan hệ thường xuyên và mật thiết hơn trong việc trao đổi thông tin, tạo sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành CSTT với điều hành chính sách tài khoá;
+ Quy định rõ trách nhiệm của các Bộ ngành trong việc phối kết hợp cung cấp thông tin;
+ Thống nhất với Tổng cục Thống kê về việc tính toán lạm phát cơ bản.
3.3. KIẾN NGHỊ
Để thực hiện được các giải pháp trên, nhằm hoàn thiện công cụ OMO và tiến tới hoàn thiện cơ chế điều hành CSTT, tác giả kiến nghị Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan Bộ ngành một số vấn đề sau:
3.3.1. Đối với Quốc hội
Để triển khai có hiệu quả các giải pháp nhằm hoàn thiện công cụ OMO của NHNN thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng là hết sức cần thiết. Để thực hiện điều đó, NHNN kiến nghị Quốc hội như sau:
- Chỉ đạo Chính phủ xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý liên quan đến các hoạt động ngân hàng;
- Tiếp tục sửa đổi hoặc thay thế các Luật hiện hành về hoạt động ngân hàng như Luật NHNN và Luật các TCTD. Mặc dù 2 Luật này đã được sửa đổi trong năm 2003 và 2004 nhưng vẫn chưa giải quyết được các vấn đề bất cập hiện nay.
3.3.2. Đối với Chính phủ và các Bộ ngành
NHNN là người chủ trì xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội phê duyệt và quyết định. NHNN đồng thời cũng là người tổ chức thực hiện khi dự án CSTT đã được phê chuẩn. Việc thực hiện CSTT sẽ kém khả thi và CSTT không đạt hiệu quả cao nếu không có sự phối hợp đồng bộ từ các Bộ, ngành khác. Sự phối hợp này thể hiện ở chỗ cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin cần thiết cho NHNN.
3.3.2.1. Chính phủ
- Đề nghị Chính phủ trình Quốc hội tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa một số quy định của Luật NHNN, cụ thể:
+ Bỏ mục 12 Điều 9 Luật NHNN vì hiện nay NHNN thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận nên không cần thiết đặt ra lãi suất cơ bản là lãi suất cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay, mà NHNN có thể dùng hành lang lãi suất tiền gửi qua đêm và lãi suất TCV để điều hành lãi suất thị trường tiền tệ.
+ Sửa Điều 18 Luật NHNN theo hướng bãi bỏ quy định NHNN phải công bố lãi suất cơ bản. NHNN chỉ công bố lãi suất tiền gửi qua đêm, lãi suất TCV và lãi suất trên thị trường mở để thực hiện CSTT.
- Chính phủ cần đôn đốc, chỉ đạo các Bộ ngành triển khai thực hiện cơ chế phối hợp thông tin với NHNN để NHNN có đủ căn cứ làm cơ sở xây dựng và điều hành CSTT.
- Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành liên quan soạn thảo và hoàn thiện các Đề án Luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng.
3.3.2.2. Bộ Tài chính
- Cung cấp các thông tin về thu chi ngân sách, nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách; kế hoạch vay và trả nợ của Chính phủ; tình hình cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Các thông tin này là cần thiết để NHNN dự báo các diễn biến tiền tệ và vốn khả dụng của các NHTM.
- Thực hiện nghiêm túc các cam kết về khoản tạm ứng từ NHNN; việc xác định số lượng phát hành tín phiếu kho bạc bán lẻ để không ảnh hưởng tới quá trình điều hành CSTT của NHNN.
- Cung cấp thông tin về sự biến động giá cả thị trường để NHNN có cơ sở đưa ra mục tiêu kiểm soát lạm phát.
3.3.2.3. Bộ Kế hoạch và đầu tư
Cung cấp các thông tin chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế. Các thông tin này là cơ sở cho NHNN dự báo nhu cầu về tín dụng, tiền tệ của nền kinh tế.
3.3.2.4. Bộ Thương mại
Cung cấp các thông tin về chính sách thương mại, tình hình xuất nhập khẩu … để phân tích cán cân thanh toán quốc tế, qua đó dự báo sự biến động của tỷ giá, tài sản có ngoại tệ.
3.3.2.5. Tổng cục Thống kê
- Cung cấp các số liệu tổng hợp về các chỉ tiêu kinh tế xã hội của cả nước có liên quan đế việc hoạch định và thực thi CSTT, kịp thời thông báo các chỉ tiêu kinh tế trong từng thời kỳ để NHNN nắm được diễn biến tình hình, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.
- Thống nhất với NHNN trong việc tính toán lạm phát cơ bản.
KẾT LUẬN
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu trong thực thi CSTT. Tại các nước phát triển, OMO có ý nghĩa hết sức quan trọng và được sử dụng chủ yếu trong điều tiết lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường. Ở các nước đang phát triển, OMO ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng khi các điều kiện thực hiện đã và đang chín muồi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện công cụ OMO có ý nghĩa thực tiễn tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Với kết cấu gồm 3 chương và 76 trang, luận văn “Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” đã tập trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở và thực tiễn hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian từ năm 2000 đến nay. Luận văn đã hoàn thành các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hoá một số nội dung cơ bản về chính sách tiền tệ, các công cụ CSTT nói chung và công cụ OMO nói riêng. Ngoài ra, tác giả còn đề cập một số kinh nghiệm vận hành OMO của NHTW một số nước với các trình độ phát triển kinh tế khác nhau, từ đó rút ra các kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Thứ hai, luận văn đã tiến hành phân tích, đánh giá hoạt động OMO của NHNN Việt Nam từ khi đưa vào hoạt động đến nay và trên nhiều khía cạnh như: khuôn khổ pháp lý, tổ chức và điều hành nghiệp vụ, hàng hoá giao dịch trong thị trường mở, các thành viên thị trường, lãi suất thị trường mở, tần suất giao dịch, doanh số giao dịch ….
Thứ ba, bên cạnh đó, tác giả cũng đã đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của hoạt động OMO từ khi triển khai đến nay; phân tích những nhân tố ảnh hưởng và các nguyên nhân hạn chế để từ đó rút ra những vấn đề nổi bật cần phải nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới và khẳng định cần có giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để đảm bảo thực hiện hiệu quả các mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Thứ tư, tác giả đã đưa ra các nhóm giải pháp góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của NHNN gồm những giải pháp trực tiếp hoàn thiện công cụ này và những giải pháp nhằm tạo các điều kiện về môi trường, về hàng hoá ... để đáp ứng yêu cầu vừa có tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tiền tệ.
Do kiến thức còn hạn hẹp, nhất là về NHTW và CSTT, nên luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Rất mong được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình hoàn thiện luận văn, tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình, cẩn thận của thầy giáo và sự động viên hỗ trợ từ gia đình./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.doc