+ Tỷ lệ thu nhập từ cây nông nghiệp
trong các dạng hệ thống NLKH tại địa
phương là khá lớn chiếm tỷ lệ từ 46,36%
- 83,66% so với tổng thu nhập của hệ
thống. Tiếp đó là chăn nuôi chiếm tỷ lệ
thu nhập từ 34,61- 43,03%. Cuối cùng là
thu nhập từ rừng chiếm tỷ lệ thấp nhất từ
7,87 - 23,71%.
+ Hiệu quả kinh tế trung bình của các dạng
hệ thống theo chỉ tiêu tổng thu nhập: Cao
nhất là RCheRg đạt 13.892.000
đồng/ha/năm; VAC đạt 13.074.000
đồng/ha/năm; RVAC 11.297.000
đồng/ha/năm. Sau đó là 2 dạng hệ thống
RVCRg và RVACRg cho thu hiệu quả
kinh tế ở mức trung bình, tổng thu nhập
đạt 8.560.000 đ/ha/năm và 7.884.000
đ/ha/năm. Cuối cùng là dạng hệ thống RRg
tổng thu nhập chỉ đạt 4.482.000 đ/ha/năm.
+ Dạng hệ thống được người dân đánh
giá cho hiệu quả kinh tế cao nhất là
RACRg với 43 điểm, tiếp theo là RVCRg
với 41 điểm; RcheRg 40 điểm, 2 dạng hệ
thống RRg và RVAC là 37 và 39 điểm.
Thấp nhất là dạng hệ thống VAC với 34
điểm.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả kinh tế của một số dạng hệ thống nông lâm kết hợp (NLKH) trên địa bàn huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA MỘT SỐ DẠNG HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
(NLKH) TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
Đàm Văn Vinh1*, Đặng Kim Vui1
1 Trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thông qua điều tra về hệ thống sinh thát nông nghiệp tại khu vực huyện Võ Nhai,
kết quả nghiên cứu cho thấy:
Các hệ thống đem lại tổng thu nhập cao nhất trên 1ha là RcheRg (Rừng – Chè-
Ruộng) và hình thức VAC (Vườn-ao-chuồng) với tổng thu nhập là 13.892.000 và
13.074.000 VNĐ. Đứng sau hai loại hình đề cập ở trên là RVCRg và RVACRg
với tổng thu nhập là 8.560.000 và 7.884.000 VNĐ. Hệ thống đem lại thu nhập
thấp nhất là RRg 4.482.000 VNĐ.
Hệ thống nhận được kết quả đánh giá cao nhất của nông dân tham gia vào cuộc
điều tra này là RACRg với 43 điểm; tiếp đó là đến RVCRg (41 điểm), RcheRg
(40 điểm), RVAC (39 điểm) và 2RRg (37 điểm). VAC nhận được số điểm đánh
giá thấp nhất với 34 điểm.
Từ khóa: ảnh hưởng kinh tế, hệ thống nông lâm kết hợp
∗
Võ Nhai là một huyện vùng núi cao của
tỉnh Thái Nguyên có địa hình phức tạp
chủ yếu là đồi núi và thung lũng đan xen
nhau. Toàn huyện có tổng diện tích đất
đai là: 84.510,41 ha. Trong đó đất nông
nghiệp là: 6.325,0 ha chiếm tỷ lệ 7,48%;
đất lâm nghiệp là: 55.469,41 ha chiếm tỷ
lệ 65,64% [2]. Kể từ năm 1991 trở lại đây
nhờ có sự đầu tư của Chính phủ thông qua
các dự án 327, 661..., sự phối hợp tư vấn
kỹ thuật của các tổ chức, các cơ quan
nghiên cứu người dân Võ Nhai đã nh ận
thức được vai trò của việc canh tác đất
dốc. Đặc biệt là việc xây dựng hệ thống
nông lâm kết hợp (NLKH) trên đất dốc đã
giúp nhiều hộ trong vùng vươn lên trở
thành những hộ làm kinh tế giỏi, góp
phần cải thiện bộ mặt nông thôn miền núi.
Tuy nhiên sản xuất theo phương thức
NLKH trên địa bàn huyện hiện vẫn còn
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
∗ Đàm Văn Vinh: Tel: NR 02803753544,
Khoa Lâm Nghiệp trường ĐH Nông Lâm – ĐH TN
manh mún, năng suất cây trồng, vật nuôi
nhìn chung còn thấp nên hiệu quả kinh tế
chưa cao [5].
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
+ Phương pháp điều tra thực địa
- Chọn một số hệ thống NLKH mang tính
đại diện trong khu vực theo địa hình, đ ất
đai, thành phần kết hợp trong hệ thống...
- Điều tra quan sát trực tiếp về thành
phần loài cây trồng, vật nuôi, tỷ lệ kết hợp
giữa các thành phần trong hệ thống...
+ Phương pháp PRA (Đánh giá nông thôn
có sự tham gia của người dân) [1] để thu
thập các thông tin về đất đai, chi phí, thu
nhập hàng năm của hệ thống.
Tiêu chí đánh giá: Hệ thống nghiên cứu
mang tính đại diện cho mỗi dạng hệ thống
trong khu vực, tương đối dễ áp dụng, chi
phí không quá cao. Đáp ứng được mục
đích kinh doanh, được người d ân địa
phương chấp nhận.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (TỪ 2007-
2008)
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.1. Một số dạng hệ thống NLKH hiện
có trên địa bàn huyện Võ Nhai
Khi điều tra thực trạng về các hệ thống
NLKH hiện có trên địa bàn huyện Võ
Nhai [4] chúng tôi đã đưa ra k ết quả với
địa hình, đ ịa thế đa dạng, hệ thống cây
trồng, vật nu ôi tương đối đ a dạng cùng
với những phong tục tập quán khác nhau,
nên trong huyện hình thành 3 khu vực
sinh thái có những đặc thù riêng với nhiều
dạng hệ thống NLKH khác nhau, song
chủ yếu tập trung vào 6 dạng hệ thống
đang được người dân địa phương áp dụng
phổ biến là:
(1) VACRg (Vườn - ao - chuồng - ruộng);
(2) RVAC (Rừng - vườn - ao - chuồng);
(3) VAC (Vườn - ao - chuồng);
(4) RCheRg (Rừng - chè- ruộng);
(5) RRg (Rừng - ruộng);
(6) RVCRg (Rừng - vườn - chuồng -
ruộng).
Kết quả tổng hợp từ điều tra khảo sát các
hệ thống NLKH tại địa phương chúng tôi
thống kê được thành phần các loài cây
trồng, vật nuôi sau.
Bảng 1. Thành phần cây trồng, vật nuôi trong các hệ thống NLKH
Nhóm loài cây/con Loài cây trồng/vật nuôi
Cây rừng tự nghiên Rừng thứ sinh gồm các loài cây ưa sáng
Cây trồng lâm nghiệp Keo, mỡ, quế, bạch đàn, xoan, điền trúc, tre Bát độ...
Cây ăn quả Vải, nhãn, hồng, na, bưởi, cam, mận, xoài, dứa...
Cây công nghiệp Chè, lạc, đậu đỗ, mía
Hệ thống cây lương thực Lúa, ngô, sắn, khoai
Hệ thống cây rau Su hào, bắp cải, cải bẹ, hành, tỏi...
Vật nuôi: Trâu, bò, lợn, gà vịt, ngan, dê...
Cây thức ăn gia súc Cỏ voi
Ao cá: Trắm cỏ, trôi ấn độ, rô phi lai, mè, trôi ta...
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu điều tra)
Bảng 2. Cơ cấu thu nhập (%) từ các thành phần của mỗi dạng hệ thống/năm/ha
Nguồn
thu
Loại hệ thống
Cây ăn quả
+ cây chè
(%)
Lương thực
thực phẩm
(%)
Tổng thu
từ cây NN
(%)
Cây lâm
nghiệp
(%)
Chăn
nuôi (%)
RVACRg 41.77 14.64 56,41 8.98 34.61
RVAC 48.57 7.24 55,81 7.87 36.32
VAC 49.83 7.14 57,07 0 43.03
RCheRg 57.28 27.38 83,66 15.34 0
RRg 0 76.29 76,29 23.71 0
RVCRg 38.33 8.03 46,36 12.11 41.53
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu điều tra)
Bảng 3. Tổng hợp hiệu quả kinh tế bình quân /ha/năm của các công thức sản xuất
theo từng dạng hệ thống (ĐV: 1000 đồng)
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chỉ tiêu
Dạng
HT
RVA
C
Rg
RVA
C VAC
RChè
Rg RRg
RVC
Rg
1. Giá trị sản xuất Đơn
vị
Giá trị sản xuất/ ha 1000đ 10.65
9
13.96
8
16.25
9
18.39
3
6.39
9
11261
Giá trị sản xuất/ chi phí
SX
lần 3,40 3,69 4,22 3,42 3,26 3,23
Giá trị sản xuất/ ngày
người LĐ
1000đ 33,74 37,94 43,37 38,88 28,0
7
38,01
2. Chi phí sản xuất
Tổng chi phí SX/ ha 1000đ 3.122 3.781 3.884 5.385 1.96
2
3.477
Chi phí biến đổi/ ha 1000đ 2.525 2.920 3.185 4.502 1.49
5
2.906
Chi phí cố định/ ha 1000đ 597 860 699 884 467 776
3. Tổng thu nhập
Tổng thu nhập/ ha 1000đ 7.884 11.29
7
13.07
4
13.89
2
4.88
2
8.560
Tổng thu nhập/ chi phí SX lần 2,48 2,99 3,39 2,58 2,47 2,45
Tổng thu nhập/ ngày
người LĐ
1000đ 25,80 29,94 38,00 29,37 21,4
7
31,12
4. Thu nhập thuần
Thu nhập thuần/ ha 1000đ 7.530 10.85
5
12.37
5
13.00
8
4.43
7
7.784
Thu nhập thuần/ chi phí
SX
lần 2,36 2,69 3,14 2,42 2.23 2,38
Thu nhập thuần/ ngày người
LĐ
1000đ 23,79 27,63 36,16 27,48 19,3
8
25,90
5. Tổng số công LĐ ngày 314 368 338 472 222 299
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả tính toán hiệu quả kinh tế của các dạng HT)
3.2. Cơ cấu thu nhập của các thành
phần trong hệ thống NLKH
Mỗi dạng hệ thống khác nhau có nhiều
công thức sản xuất khác nhau do việc
phối kết hợp các thành phần cây trồng, vật
nuôi có sự khác nhau, vì vậy mà cơ cấu
thu nhập từ mỗi thành phần của các dạng
hệ thống cũng khác nhau. Để thấy rõ vai
trò của các thành phần trong hệ thống
NLKH đối với hiệu quả kinh tế của từng
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dạng hệ thống chúng tôi tính toán tỷ lệ thu
nhập từ các thành phần.
Kết quả trên cho thấy tỷ lệ thu nhập từ
cây nông nghiệp trong các dạng hệ thống
NLKH tại địa phương là khá lớn. Trong
tất cả các hệ thống, cây nông nghiệp cho
tỷ lệ thu nhập thấp nhất là dạng hệ thống
RVCRg thì cũng đã lên t ới gần một nửa
tổng thu nhập của cả hệ thống (46,36%).
Tất cả các dạng hệ thống còn lại đều cho
tỷ lệ thu nhập khá cao từ 55,81% -
83,66% so với tổng thu nhập của hệ
thống. Kết quả nghiên cứu này khẳng
định vai trò kinh tế của các thành phần
cây nông nghiệp trong các dạng hệ thống
NLKH là rất lớn, đặc biệt là các hệ thống
có chè thì thu nhập lại càng cao, bởi cây
chè ở thời điểm hiện tại đang được giá.
Tiếp đó là chăn nuôi chiếm tỷ lệ thu nhập
từ 34,61- 43,03%. Cuối cùng là thu nhập
từ rừng chiếm tỷ lệ thấp trong các dạng
hệ thống chỉ chiếm từ 7,87 - 23,71%.
3.3. Hiệu quả kinh tế của mỗi dạng hệ
thống NLKH huyện Võ Nhai
Mỗi dạng hệ thống có thành phần cây
trồng, vật nuôi khác nhau, với những công
thức sản xuất khác nhau, vì vậy mà hiệu
quả kinh tế của mỗi dạng hệ thống cũng
khác nhau [3]. Để dễ dàng nhận thấy hiệu
quả kinh tế trung bình của các dạng hệ
thống trong huyện Võ Nhai hiện nay
chúng tôi tổng hợp kết quả ở bảng 03.3.
Kết quả tính toán ở bảng trên cho thấy
hiệu quả kinh tế trung bình của các dạng
hệ thống có sự khác nhau khá rõ.
Dạng hệ thống cho hiệu quả kinh tế cao
nhất là: RcheRg cho tổng thu nhập trung
bình đ ạt 13.892.000 đ/ha/năm. Do trong
dạng hệ thống này cây chè là cây chủ lực
của địa phương, vài năm gần đây sản
phẩm chè khô của huyện Võ Nhai đang có
chất lượng tốt lên và bán được giá nên
cho thu nhập cao, tuy nhiên tổng chi phí
của dạng hệ thống này cũng khá l ớn lên
tới 5.385.000 đ/ha/năm. Tiếp đến là dạng
hệ thống VAC cũng cho thu hiệu quả kinh
tế khá cao. Tổng thu nhập đạt 13.074.000
đ/ha/năm. Do trong dạng hệ thống này thu
nhập chủ yếu là từ chăn nuôi và cây ăn
quả, không có thành phần rừng là một
trong những thành phần làm cho tổng thu
nhập bình quân/ha/năm c ủa các dạng hệ
thống giảm đi.
Tiếp theo là dạng hệ thống RVAC cũng
cho thu hiệu quả kinh tế tương đối cao.
Tổng thu nhập đạt 11.297.000 đ/ha/năm.
Do trong dạng hệ thống này thu nhập từ
nhiều thành phần, trong đ ó có cả chăn
nuôi gia súc, gia cầm và nuôi cá. Tiếp
đến là 2 dạng hệ thống RVCRg và
RVACRg cho hiệu quả kinh tế ở mức
trung bình. Tổng thu nhập đạt 8.560.000
đ/ha/năm và 7.884.000 đ/ha/năm. Do
trong dạng hệ thống này thu nhập từ
nhiều thành phần, trong đ ó có cả rừng,
cây ăn quả, cây màu, chăn nuôi gia súc,
gia cầm và nuôi cá.
Cuối cùng là dạng hệ thống RRg cho hiệu
quả kinh tế thấp nhất. Tổng thu nhập chỉ
đạt 4.482.000 đ/ha/năm. Do trong dạng hệ
thống này thu nhập chỉ có 2 thành phần là
rừng và lúa, ngô hoặc cây màu.
Như vậy hiệu quả kinh tế của các dạng hệ
thống phụ thuộc chặt chẽ vào thành phần
cây trồng, vật nuôi của hệ thống. Tuy
nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng
có thể áp dụng dạng hệ thống có hiệu quả
kinh tế cao vào sản xuất NLKH mà phải
tuỳ vào từng điều kiện cụ thể.
3.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các
dạng hệ thống NLKH có sự tham gia
Để tham khảo ý kiến của các chủ hệ thống
những người đã có nhiều trải nghiệm
trong sản xuất nhằm khảng định lại những
kết quả nghiên cứu của chúng tôi, cũng
như hướng gợi mở giúp các hộ lựa chọn
các dạng hệ thống phù hợp nhằm mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn. Chúng tôi đã
cùng chia sẻ và đánh giá hiệu quả kinh tế
của các dạng hệ thống theo một số tiêu
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chí. Dạng hệ thống được đánh giá cho
hiệu quả kinh tế cao nhất là RACRg với
43 điểm, tiếp theo là RVCRg với 41 điểm
và RCheRg 4 0 điểm, 2 dạng hệ thống
RRg và RVAC là 37 và 39 điểm. Thấp
nhất là dạng hệ thống VAC với 34 điểm.
Kết quả đánh giá trên cho thấy người dân
địa phương đã r ất am hiểu và có nhiều
kinh nghiệm trong quá trình canh tác quản
lý hệ thống về mặt thu chi.
Họ đánh giá không chỉ về mặt lợi
nhuận/ha/năm mà còn đánh giá v ề các
mặt khác như mức độ rủi ro, vốn đầu tư,
sự tiêu thụ của sản phẩm...
3.5. Hiệu quả kinh tế của một số hệ
thống cây trồng nông nghiệp trong hệ
thống NLKH huyện Võ Nhai
Đối với các cây nông nghiệp như ngô,
sắn, đậu, lạc, mía, chè... do trong quá
trình canh tác: gieo trồng, chăm sóc, thu
hoạch... đất đai thường bị cày xới nhiều.
Mặt khác những cây này có tán lá mỏng,
thân yếu nên khi canh tác trên đất dốc đất
đai bị xói mòn, rửa trôi làm độ phì của đất
giảm, năng suất cây trồng giảm, nếu được
kết hợp với cây lâu năm và cây rừng sẽ có
hiệu quả kinh tế cũng như môi trường rất
rõ nét.
Chúng tôi đánh giá hiệu quả kinh tế một
số cây trồng nông nghiệp trong các hệ
thống NLKH và cây trồng độc canh trên
đất dốc có các điều kiện về địa hình, đ ất
đai, chăm sóc... tương đối đồng nhất làm
cơ sở so sánh.
Bảng 4. Hiệu quả kinh tế của các dạng hệ thống NLKH có sự tham gia
Dạng HT
Tiêu chí
RVAC
Rg RVAC
RVC
Rg
RChe
Rg
VAC
RRg
Đầu tư ít 8 7 9 7 6 10
Sản phẩm dễ bán 8 7 8 8 7 7
Mức độ rủi ro thấp 10 8 9 8 5 7
Thu nhập ổn định 9 8 8 9 7 8
Hiệu quả kinh tế
cao
8 9 7 8 9 5
Tổng điểm 43 39 41 40 34 37
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu RRA và PRA)
Bảng 5. Hiệu quả kinh tế một số cây trồng nông nghiệp chính trong hệ thống NLKH
(Đơn vị tính: 1000 đồng/ha/năm)
Loài cây
Tổng chi Tổng thu Lãi
So sánh Lãi
(Tăng +,
giảm -) NLKH
Độc
canh NLKH
Độc
canh NLKH
Độc
canh
Ngô cả 2
vụ
9.090 9.090 16.640 16.050 7.550 6.960 + 590
Ngô xuân 4.545 4.545 9.278 8.957 4.733 4.407 + 326
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mía 7.700 7.700 11.038 11.350 3.338 3.650 - 312
Sắn 4.252 4.252 7.721 7.650 3.419 3.398 + 21
Đậu tương 7.075 7.075 14.750 14.426 7.675 7.351 + 324
Chè 8.102 8.102 18.500 17.128 10.398 9.026 + 1.372
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu điều tra)
Từ bảng 5 cho thấy phần lớn hiệu quả
kinh tế của cây nông nghiệp trồng trong
hệ thống NLKH phần lớn đều cao hơn so
với cây trồng độc canh. Trong đó cây chè
cho hiệu quả kinh tế tăng nhiều nhất
1.372.000 đồng/ha/năm, cây ngô và đậu
tương cũng tăng 326.000 đồng/ha/năm và
324.000 đồng/ha/năm.
Cây sắn thì gần như không có biểu hiện
tăng giảm, chỉ tăng rất ít (21.000
đồng/ha/năm). Duy chỉ có cây mía khi
trồng kết hợp trong hệ thống thì hiệu quả
kinh tế giảm tương đối rõ nét
(312.000đồng/ha/năm). Rõ ràng NLKH
đã không những tận dụng đất đai mà còn
làm tăng năng suất cây trồng nông nghiệp.
Tuy nhiên không phải bất kỳ cây nông
nghiệp nào chúng ta cũng k ết hợp được
với cây lâu năm trong hệ thống NLKH.
4. KẾT LUẬN
+ Tỷ lệ thu nhập từ cây nông nghiệp
trong các dạng hệ thống NLKH tại địa
phương là khá lớn chiếm tỷ lệ từ 46,36%
- 83,66% so với tổng thu nhập của hệ
thống. Tiếp đó là chăn nuôi chiếm tỷ lệ
thu nhập từ 34,61- 43,03%. Cuối cùng là
thu nhập từ rừng chiếm tỷ lệ thấp nhất từ
7,87 - 23,71%.
+ Hiệu quả kinh tế trung bình của các dạng
hệ thống theo chỉ tiêu tổng thu nhập: Cao
nhất là RCheRg đạt 13.892.000
đồng/ha/năm; VAC đạt 13.074.000
đồng/ha/năm; RVAC 11.297.000
đồng/ha/năm. Sau đó là 2 dạng hệ thống
RVCRg và RVACRg cho thu hiệu quả
kinh tế ở mức trung bình, tổng thu nhập
đạt 8.560.000 đ/ha/năm và 7.884.000
đ/ha/năm. Cuối cùng là dạng hệ thống RRg
tổng thu nhập chỉ đạt 4.482.000 đ/ha/năm.
+ Dạng hệ thống được người dân đánh
giá cho hiệu quả kinh tế cao nhất là
RACRg với 43 điểm, tiếp theo là RVCRg
với 41 điểm; RcheRg 40 điểm, 2 dạng hệ
thống RRg và RVAC là 37 và 39 điểm.
Thấp nhất là dạng hệ thống VAC với 34
điểm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chambers R. (1994), “Participatory
Rural Atrraisal (PRA) challenges,
potentials, and paradigm” World
development, Vol. 22, No.10. pp 1437-
1454.
[2]. Phòng Nông nghiệp Võ Nhai (2005),
Số liệu thống kê nông nghiệp huyện Võ
Nhai 2005.
[3]. Đàm Văn Vinh (2004), “Hiệu quả
kinh tế của một số mô hình nông lâm kết
hợp trên địa bàn huyện Phú Lương, Tỉnh
thái Nguyên”. Tạp chí KH&CN, Đại học
Thái Nguyên, số 1, tr 66 - 68, Đại học
Thái Nguyên.
[4]. Đàm Văn Vinh (2005), "Thực trạng
phát triển Nông - lâm kết hợp tại Võ
Nhai Thái Nguyên". Tạp chí KH&CN
Đại học Thái Nguyên, số 3. tr 109 -115.
[5]. Đặng Kim Vui, Đàm Văn Vinh, Đỗ
Hoàng Sơn (2004), "Thử nghiệm một số
biện pháp kỹ thuật cải tiến các mô hình
nông - lâm kết hợp tại huyện Võ Nhai,
tỉnh Thái Nguyên". Báo cáo kết quả
nghiên cứu KH đề tài cấp Bộ.
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
SUMMARY
ECONOMIC EFFECT OF AGROFORESTRY SYSTEMS IN VO NHAI DISTRICT,
THAI NGUYEN
Dam Van Vinh1*, Dang Kim Vui1
1 College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University
∗
∗ Đam Van Vinh:
By doing survey of the current agroforestry systems in the eological areas of Vo Nhai
district, the research results showed that:
The system types which have highest gross income per ha are RcheRg ( forest – tea- paddy
field) and VAC ( garden- pond – cattle), the gross incomes are 13.892.000 and 13.074.000
VND respectively. Following the two types mentioned are RVCRg and RVACRg whose
incomes are 8.560.000 and 7.884.000 VND respectively. The lowest one is RRg with the
income of 4.482.000 VND.
The system type which received highest score from farmers who participated in the
survey is the RACRg system (43 points ). The following systems received evaluation in
recessive order: RVCRg (41 points), RcheRg (40 points), RVAC (39 points) and 2RRg
(37 points) The system which received lowest evaluation is the VAC with 34 points.
Key words: economical effect, agroforestry systems.
Tel:CQ:02803851427; NR: 02803753544
College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_kinh_te_cua_mot_so_dang_he_thong_nong_lam_ket_hop_n.pdf