Nhằm phát triển bền vững nghề nuôi tôm he
chân trắng ở địa phương, Hải Phòng cần có qui định
và kế hoạch giám sát chặt chẽ hoạt động nuôi tôm
đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh thực phẩm.
Bên cạnh các vấn đề chuyên môn, thành phố
cần liên kết với các ngân hàng ban hành chính sách
hỗ trợ vốn ưu đãi cho trang trại nuôi.
Ngoài ra, trước thực trạng rủi ro cao của nghề
nuôi tôm, chính sách bảo hiểm tôm nuôi cần được
sớm đưa vào thực tế sản xuất.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng và giải pháp phát triển nghề nuôi tôm he chân trắng (Penaeus vannamei Boone, 1931) ở Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI TÔM HE
CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei Boone, 1931) Ở HẢI PHÒNG
CURRENT STATUS AND DEVELOPMENT SOLUTIONS OF WHITE-LEG SHRIMP
(Penaeus vannamei Boone, 1931) FARMING IN HAI PHONG
Nguyễn Văn Hòa1, Vũ Văn Dũng2
Ngày nhận bài: 26/9/2012; Ngày phản biện thông qua: 26/10/2012; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành từ 5/2010 đến 3/2011 bằng cách thu thập thông tin và tiến hành điều tra, phỏng vấn 50
trang trại nuôi tôm he chân trắng tại Hải Phòng nhằm đánh giá hiện trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp thiết thực phát
triển nghề nuôi tôm he chân trắng nơi đây. Kết quả cho thấy, diện tích nuôi tôm he chân trắng của Hải Phòng tăng từ 16
ha trong năm 2006 đến 156 ha trong năm 2010; sản lượng nuôi đạt 1.653 tấn với năng suất bình quân khoảng 9 tấn/ha/vụ.
Trang trại có doanh thu cao nhất là 1.295 triệu đồng/ha; doanh thu trung bình của mỗi trang trại là 532 triệu đồng/ha với
lợi nhuận trung bình đạt 195 triệu đồng/ha. Có 72% trang trại nuôi có lãi và 28% trang trại bị thua lỗ; có 70% trang trại
nuôi gặp khó khăn về con giống, 42% về vốn, 36% về kỹ thuật nuôi, 16% về thị trường và 14% về thuê lao động. Tôm he
chân trắng được nuôi tại Hải Phòng theo 2 hình thức thâm canh và bán thâm canh; mật độ thả từ 20 - 140 con/m2; thời gian
nuôi từ tháng 4 đến tháng 10. Việc nuôi tôm he chân trắng đang góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập cho người dân ven biển và đóng góp hàng chục tỷ đồng mỗi năm cho thành phố Hải Phòng.
Từ khóa: tôm he chân trắng, Penaeus vannamei, nuôi trồng thủy sản, hiệu quả kinh tế - xã hội.
ABSTRACT
A survey was conducted from May 2010 to March 2011 for collecting related data from local agencies and 50
white-leg shrimp farmers in Hai Phong in order to evaluate the situation and suggest some solutions for development.
The results showed that total white-leg shrimp farming area in Hai Phong reached 156 ha in 2010; production reached
1.653 tons at an average yield of about 9 tons/ha/crop. Farm with the highest turnover reached 1.295 million VNDs/ha; the
average turnover was about 532 millions/ha with an average profi t of 195 million VND/ha. Out of total 50 farms, there were
36 farms gained profi t; some farms have been facing diffi culty in seed supply, farming capital, culture techniques, market
and labor at the percentage of 70%, 40%, 36%, 16% and 14%, respectively. In Hai Phong, white-leg shrimp was basically
cultured by intensive and semi-intensive methods at an average stocking density of 140 shrimp/m2; culture season is from
April to October. White-leg shrimp farming is contributing to the improvement of production structure, solving the problem
of job and income of Hai Phong coastal citizens.
Keywords: white-leg shrimp, Penaeus vannamei, aquaculture, social-economic benefi t.
1 Nguyễn Văn Hòa: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Vũ Văn Dũng: Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôm he chân trắng là loài ngoại nhập có tiềm
năng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam nhờ khả năng
thích nghi cao và sức sống chịu tốt với biến động
của một số yếu tố môi trường [3]. Thực tế đã chứng
minh hoạt động sản xuất giống, nuôi thương phẩm
và chế biến xuất khẩu tôm he chân trắng ở nước ta
phát triển mạnh tron g giai đoạn 2000 - 2010 [5]. Hải
Phòng là một trong những tỉnh đầu tiên đưa tôm he
chân trắng vào nuôi thương phẩm ở Việt Nam. Nghề
nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng đang phát triển
mạnh với nhiều lợi ích đi cùng mức độ rủi ro cao bởi
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 91
thiếu qui hoạch và định hướng phát triển [3]. Nhằm
phát triển nghề nuôi tôm he chân trắng bền vững
ở Hải Phòng, việc phân tích hiện trạng kinh tế - kỹ
thuật và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả là
công tác quan trọng và cấp thiết hiện nay. Dựa trên
kết quả phân tích những tồn tại hiện có, báo cáo này
giới thiệu một số giải pháp thiết thực có thể áp dụng
tại Hải Phòng nhằm phát triển ổn định hoạt động
nuôi tôm he chân trắng nơi đây.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành với các trang trại nuôi tôm
he chân trắng ở thành phố Hải Phòng, trong thời
gian từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 3 năm 2011.
2. Phương pháp thu thập số liệu
Các số liệu thứ cấp được thu thập thông qua số
liệu thống kê, tổng kết của Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hải Phòng, Phòng Kinh tế, Chi cục
Thống kê, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn các quận/huyện trên địa phận thành phố Hải
Phòng. Ngoài ra, một số báo cáo tổng kết đề tài, dự
án cũng như báo cáo tham luận liên quan đến hoạt
động nuôi tôm he chân trắng cũng được tham khảo.
Số liệu sơ cấp được thu thập qua khảo sát thực
tế, phỏng vấn cán bộ quản lý thủy sản và người
dân nuôi tôm địa phương dựa trên bộ câu hỏi được
chuẩn bị nhằm thu thập các thông tin chung về chủ
trang trại, hiện trạng kỹ thuật nuôi, hiệu quả kinh tế
và những khó khăn thường gặp của chủ hộ nuôi,...
Trên cơ sở tổng số khoảng 150 hộ nuôi tôm chân
trắng tại Hải Phòng tập trung tại vùng nuôi chính
như An Hải, Cát Hải, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo và Dương
Kin, tiến hành thu mẫu và điều tra ngẫu nhiên 50
hộ nuôi [7]. Số lượng hộ nuôi được điều tra tại mỗi
vùng khoảng 10 hộ nhằm đảm bảo tính khách quan
của bộ số liệu thu được.
3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu thu thập được được mã hoá và xử lý theo
các nội dung của bộ câu hỏi điều tra sử dụng. Các số
liệu được lưu trữ, xử lý bằng phần mềm MS Excel với
chức năng phân tích thống kê kinh tế. Tổng chi phí,
doanh thu và lợi nhuận của trang trại nuôi tôm được
tính bằng các công thức thông thường.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Thông tin chung về chủ các trang trại nuôi
tôm he chân trắng ở Hải Phòng
Tuổi trung bình của chủ các trang trại nuôi tôm
he chân trắng tại Hải Phòng là 46,5 ± 12,4; dao động
trong khoảng từ 24 đến 68 tuổi. Số người trong độ
tuổi từ 30 đến 50 chiếm đa số (62%) với tỉ lệ chủ
trang trại là nữ rất thấp, chỉ 7,5%.
Hình 1. Cơ cấu độ tuổi của chủ các trang trại nuôi tôm he
chân trắng tại Hải Phòng
Qua điều tra cho thấy, 8,6% chủ các trang trại
nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng có dưới 3 năm
kinh nghiệm; 41,5% có số năm kinh nghiệm từ 3 - 5
năm và số chủ trang trại có kinh nghiệm trên 5 năm
nhiều nhất chiếm 49,9%. Người nuôi tôm có nhiều
năm kinh nghiệm thường quản lý ao nuôi tốt hơn với
chi phí thấp và hiệu quả sản xuất cao hơn [1], [2].
Hình 2. Kinh nghiệm nuôi tôm chân trắng của chủ
các trang trại tại Hải Phòng
Kết quả cho thấy, số chủ trang trại nuôi tôm
chân trắng không có bằng cấp chiếm 34%; nhóm
tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn chiếm 42%;
nhóm có trình độ trung cấp chiếm 18% và nhóm có
trình độ đại học chiếm 6%. Số chủ trang trại có trình
độ học vấn cấp 1 chiếm tỷ lệ 24%; số có trình độ
cấp 2 chiếm 30% và 46% trong số đó có trình độ
học vấn cấp 3.
Hình 3. Trình độ chuyên môn của chủ các trang trại
nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
92 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
2. Hiện trạng kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng ở
Hải Phòng
2.1. Diện tích và sản lượng nuôi
Mặc dù tôm he chân trắng xuất hiện ở Hải
Phòng sớm hơn nhiều địa phương khác nhưng
diện tích nuôi loài tôm này ở Hải Phòng không đáng
kể, chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích nuôi tôm sú.
Tuy vậy, tỉ lệ diện tích nuôi tôm he chân trắng có xu
hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Từ
xấp xỉ 0,5% vào năm 2006, tỉ lệ diện tích tôm chân
trắng so với tôm sú tăng lên 3% trong năm 2008 và
5% trong năm 2010 [6],[7].
Bảng 1. Diện tích nuôi và sản lượng tôm nuôi tại Hải Phòng giai đoạn 2006 - 2010
Năm 2006 2008 2010
Diện tích nuôi tôm sú (ha) 3.299 1.900 3.022
Diện tích nuôi tôm he chân trắng (ha) 16 58 156
Sản lượng nuôi (tấn) 124 1.000 1.653
Sản lượng tôm he chân trắng nuôi tại Hải
Phòng cũng chỉ được ghi nhận từ năm 2006 [6],[7].
Tuy vậy, bảng 1 cho thấy sản lượng tôm he chân
trắng nuôi tăng nhanh trong những năm gần đây và
đạt trên 1.600 tấn trong năm 2010 (gấp 15 lần sản
lượng năm 2006) [6],[7].
2.2. Đặc điểm ao nuôi
Đa số các trang trại nuôi tôm he chân trắng
ở Hải Phòng có diện tích dưới 2ha (chiếm 86%);
còn lại là các trang trại nuôi có tổng diện tích từ 2
đến 25ha. Ao nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
thường có độ sâu từ 1,6 đến 2,0m. Độ sâu này
nhìn chung cao hơn độ sâu ao nuôi thường thấy
(dưới 1,5m) ở các địa phương khác như Sóc Trăng,
Bạc Liêu [1],[4].
Ao nuôi tôm chân trắng ở Hải Phòng thường có
hình chữ nhật hoặc hình vuông, được gia cố bởi 3
phương pháp khác nhau thường thấy. Trong đó, ao
lót bạt nilon chiếm tới 69%, ao đất chiếm 18% và ao
gia cố bê-tông chiếm tỉ lệ thấp nhất là 13%.
Chất đáy ao nuôi tôm he chân trắng ở Hải
Phòng chủ yếu là cát bùn (42% số trang trại nuôi)
và bùn cát (38%). Đây là loại chất đáy tốt cho hoạt
động nuôi tôm he nói chung [3]. Ngoài ra, một số
ao nuôi có đáy bùn, chiếm 8%; còn lại là các ao có
chất đáy khác (sét, sét bùn,...), chiếm 12% số trang
trại nuôi.
2.3. Các hình thức nuôi
Tôm he chân trắng ở Hải Phòng chỉ được nuôi
theo hai hình thức là nuôi thâm canh và bán thâm
canh. Trong đó, 36% số trang trại nuôi theo hình
thức thâm canh và 64% trang trại nuôi theo hình
thức bán thâm canh. Do chi phí đầu tư cao và khả
năng quản lý dịch bệnh chưa thật tốt, hình thức nuôi
thâm canh chưa phải là lựa chọn hàng đầu của các
trang trại ở Hải Phòng.
2.4. Kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi
Kết quả điều tra cho thấy, tất cả các trang trại
đều thực hiện vét bùn, vệ sinh, diệt tạp và khử trùng
ao nuôi trong chuẩn bị ao nuôi; đa số các trang trại
tiến hành phơi đáy ao nuôi (92%), số còn lại không
phơi được đáy ao khi cải tạo ao.
2.5. Quản lý và chăm sóc ao nuôi
Kết quả điều tra cho thấy, 25% số trang trại nuôi
tôm he chân trắng ở Hải Phòng thực hiện thay nước
thường xuyên trong thời gian nuôi. Số còn lại nuôi
theo hình thức khép kín, không hoặc rất ít thay nước
trong suốt chu kỳ nuôi. Lý do dẫn đến đa số trang
trại nuôi hạn chế thay nước trong quá trình nuôi là
những khó khăn trong cấp thoát nước cũng như lo
ngại lây nhiễm bệnh tôm từ nguồn nước bên ngoài.
Điều này cho thấy việc quản lý nước thải nuôi tôm
và dịch bệnh tôm trong khu vực còn nhiều bất cập,
chưa tuân thủ tốt các qui định nuôi tôm thâm canh
thường thấy [6].
Về phương pháp cho ăn, đa số trang trại nuôi
tôm có kiểm tra tình hình tôm sử dụng thức ăn khi
cho tôm ăn (78%); số trang trại nuôi còn lại chỉ cho
ăn dựa vào cảm tính và kinh nghiệm thực tế. Hầu
hết các trang trại nuôi tôm chân trắng cho tôm ăn 4
lần/ngày vào các thời điểm sáng, trưa, chiều và tối
(thường vào các thời điểm 6h, 12h, 18h và 24h).
3. Hiệu quả kinh tế
3.1. Tổng chi phí trong nuôi tôm he chân trắng
ở Hải Phòng
Chi phí trong nuôi tôm he chân trắng tại Hải
Phòng tăng dần qua các năm, năm 2008 tổng chi
phí cho 1 ha ao nuôi tôm he chân trắng là 306,6 triệu
đồng, năm 2009 là 334,8 triệu đồng và năm 2010 là
356,9 triệu đồng. Mức chi lớn nhất của một trang
trại nuôi tôm chân trắng là 613 triệu đồng/ha, mức
chi thấp nhất là 80 triệu đồng/ha và mức chi trung
bình của một trang trại nuôi ở Hải Phòng là 336 triệu
đồng/ha với tỉ lệ lớn nhất thường thuộc về chi phí
thức ăn, có thể đạt đến 60% tổng chi phí vào cuối vụ
nuôi. Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên
cứu khác về tình hình sử dụng thức ăn ở các tỉnh
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 93
phía Nam với mức chi phí thức ăn chiếm trên 50%
tổng chi phí đầu tư cho mỗi vụ nuôi [4].
3.2. Giá bán tôm he chân trắng nguyên liệu
Tôm nguyên liệu được định giá tùy thuộc vào
cỡ tôm thu hoạch. Trong năm 2010, tôm he chân
trắng nguyên liệu tại Hải Phòng có giá bán bình
quân từ 30.000 đến 85.000 đồng. Trong đó, tôm he
chân trắng loại 30 - 40 con/kg có giá 80 - 85.000
đồng/kg, loại 40 - 50 con/kg có giá 70.000 đồng/kg,
loại 50-60 con/kg có giá 60.000 đồng/kg và loại trên
60 con/kg có giá 30 - 50.000 đồng/kg.
3.3. Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động nuôi tôm
he chân trắng ở Hải Phòng
Trong năm 2010, trang trại nuôi tôm he chân
trắng có doanh thu bình quân cao nhất là 1.295
triệu đồng/ha và thấp nhất là 0 triệu đồng/ha (đây
là những trang trại tôm bị thiệt hại sớm). Doanh thu
trung bình của mỗi trang trại nuôi tôm he chân trắng
đạt mức 532 triệu đồng/ha.
Cũng trong năm 2010, qua điều tra cho thấy,
có 14 trên tổng số trang trại nuôi tôm he chân trắng
thua lỗ; số trang trại còn lại có lãi với lợi nhuận bình
quân đạt 195 triệu đồng/ha. Trong đó, trang trại có
lợi nhuận bình quân cao nhất đạt 681 triệu đồng/ha;
trang trại bị thua lỗ nhiều nhất là 117 triệu đồng/ha.
4. Hiệu quả xã hội
Hoạt động nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
giải quyết được vấn đề việc làm cho hơn 400 lao
động cố định. Ngoài ra, nghề nuôi tôm chân trắng
còn tạo công ăn việc làm cho nhiều bộ phận cung
cấp dịch vụ như con giống, thức ăn, thuốc, hóa chất,
chế phẩm vi sinh xử lý và cải tạo ao nuôi, đội ngũ
thu mua, sơ chế tôm thương phẩm; tạo sản phẩm
góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu. Trong năm 2010, nghề nuôi tôm he chân
trắng ở Hải Phòng đã đóng góp khoảng 59 tỷ đồng
vào ngân sách thành phố.
5. Những khó khăn thường gặp, kiến nghị và
hướng phát triển của trang trại nuôi
5.1. Những khó khăn thường gặp của các trang trại
nuôi tôm he chân trắng
Kết quả điều tra - phỏng vấn cho thấy, đa số
các trang trại nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
đều gặp phải những khó khăn trong hoạt động nuôi
trồng. Những khó khăn này thường là các vấn đề
như vốn, con giống, kỹ thuật, dịch bệnh, thị trường
tiêu thụ,... Mức độ gặp phải khó khăn của các trang
trại nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng với từng chỉ
tiêu được thể hiện trong bảng 2.
Bảng 2. Những khó khăn gặp phải trong nuôi tôm he chân trắng hiện nay ở Hải Phòng
STT Chỉ tiêu Số hộ (n=50) Tỷ lệ (%)
1 Con giống 35 70
2 Thiếu vốn 21 42
3 Kỹ thuật 18 36
4 Thị trường 8 16
5 Lao động 7 14
5.2. Kiến nghị và hướng phát triển của các hộ nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng
Đa số người nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng đều mong muốn được các cơ quan chức năng giúp đỡ
họ vượt qua những khó khăn về con giống, vốn, kỹ thuật nuôi, dịch bệnh và thị trường tiêu thụ. Cụ thể, kết quả
điều tra cho thấy: 70% số trang trại đề nghị được trợ giúp về con giống, 42% về vốn, 36% về kỹ thuật nuôi và
16% muốn có thị trường tiêu thụ ổn định.
Về hướng phát triển trong thời gian tới, 64% số trang trại điều tra không muốn thay đổi phương thức sản
xuất; số còn lại có kế hoạch nâng cấp, đầu tư thêm trang thiết bị cũng như mở rộng diện tích nuôi.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên 90% số trang trại nuôi tôm he chân trắng ở Hải Phòng được điều hành bởi lao động từ 3 năm kinh
nghiệm trở lên. Tuy trình độ học vấn nhìn chung cao, tỷ lệ chủ trang trại có trình độ chuyên môn nuôi trồng thủy
sản còn thấp, chỉ chiếm khoảng 20%.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Với chi phí cho 1 ha ao nuôi khoảng 350 triệu
đồng và lợi nhuận bình quân vào khoảng 200 triệu
đồng/ha, các trang trại nuôi tôm he chân trắng Hải
Phòng còn giải quyết được công ăn việc làm cho
hơn 400 lao động cố định và nhiều lao động trong
các lĩnh vực dịch vụ hậu cần khác có liên quan.
Ngoài ra, nghề nuôi tôm he chân trắng ở Hải
Phòng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế
về nguồn vốn, con giống và dịch bệnh nên cần được
giúp đỡ kịp thời nhằm phát triển nghề nuôi theo
hướng bền vững.
2. Kiến nghị
Nhằm phát triển bền vững nghề nuôi tôm he
chân trắng ở địa phương, Hải Phòng cần có qui định
và kế hoạch giám sát chặt chẽ hoạt động nuôi tôm
đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh thực phẩm.
Bên cạnh các vấn đề chuyên môn, thành phố
cần liên kết với các ngân hàng ban hành chính sách
hỗ trợ vốn ưu đãi cho trang trại nuôi.
Ngoài ra, trước thực trạng rủi ro cao của nghề
nuôi tôm, chính sách bảo hiểm tôm nuôi cần được
sớm đưa vào thực tế sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, 2009. Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng thâm canh. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Bộ Thủy Sản, 2007. Báo cáo tổng kết ngành thủy sản năm 2006, Hà Nội.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, 2009. Báo cáo tình hình nuôi tôm mặn lợ năm 2008 và kế hoạch thực
hiện năm 2009, Hải Phòng.
4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, 2010. Báo cáo tình hình nuôi tôm mặn lợ năm 2009 và kế hoạch thực
hiện năm 2010, Hải Phòng.
5. Nguyễn Thị Trâm Anh, Huỳnh Phan Thúy Vi, 2010. Tiếp cận chuỗi cung ứng nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho mặt
hàng tôm thẻ chân trắng -Trường hợp Công ty Cổ phần Nha Trang Seafood F17. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học
Đà Nẵng, số 5(40), 286-295.
6. Lê Thanh Hùng, Ong Mộc Quý, 2011. Hiện trạng sử dụng và quản lý thức ăn nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Thủy sản toàn quốc 2011, trang 151-160.
7. Bùi Quang Tề, 2009. Nuôi thâm canh tôm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm theo mô hình GQqP. Trung tâm Khuyến nông
Khuyến ngư Quốc gia, 122 trang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hien_trang_va_giai_phap_phat_trien_nghe_nuoi_tom_he_chan_tra.pdf