Những nghiên cứu như vậy có thể góp phần tạo cơ sở thông tin và dữ liệu cho
việc xây dựng các chương trình vừa đào tạo tăng cường đội ngũ cán bộ của hệ thống
chính trị, vừa nâng cao dân trí, kiến thức và kỹ năng tham gia của người dân. Trước
mắt, những thông tin như vậy có thể trực tiếp giúp triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở hiện nay thành công, giúp tìm ra các biện pháp tăng cường sức mạnh hệ
thống chính trị cơ sở “từ dân”. Và sau nữa, về lâu dài, chúng sẽ hỗ trợ cho quá trình
thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, theo đường lối xây dựng một xã hội "công
bằng, dân chủ, văn minh" ở những trình độ ngày một cao hơn.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn qua ý kiến người dân (Một số vấn đề thực tiễn và giả thuyết nghiên cứu), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 1 (77), 2002 3
hệ thống chính trị cơ sở
ở nông thôn qua ý kiến ng−ời dân
(Một số vấn đề thực tiễn và giả thuyết nghiên cứu)
Trịnh Duy Luân
Xây dựng Hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu
quả cao đang là một yêu cầu bức thiết ở n−ớc ta hiện nay. Tại các địa bàn cơ sở ở
nông thôn với hơn một vạn xã và gần 60 triệu dân, việc lãnh đạo và quản lý sự phát
triển kinh tế xã hội là một nhiệm vụ rất phức tạp, đang đặt trên vai hệ thống chính
trị cơ sở. Vấn đề Đổi mới và nâng cao chất l−ợng hệ thống chính trị cơ sở là một trong
những chủ đề quan trọng đ−ợc đặt ra trong Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung −ơng Đảng khóa IX vừa qua.
Là một hệ thống tổ chức gồm nhiều yếu tố hợp thành và nhiều cấp độ khác
nhau, nghiên cứu và tiếp cận hệ thống chính trị cơ sở đòi hỏi phải quán triệt các
quan điểm cơ bản của lý luận khoa học xã hội Mác xít và các lý thuyết xã hội học, mà
tr−ớc hết phải kể đến quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm
hệ thống khi nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp xã đòi hỏi phải nhìn nhận nó nh−
một thực thể trong hệ thống chính trị quốc gia, có mối quan hệ hữu cơ với nhiều
thành tố khác bên trong và ngoài hệ thống đó. Bên cạnh đó quan điểm lịch sử cụ thể
đòi hỏi phải xem xét hệ thống chính trị cấp xã trong bối cảnh nông thôn n−ớc ta hiện
nay, cho dù đã có những tiến bộ trong hơn một thập niên Đổi mới, song về cơ bản vẫn
còn nghèo và lạc hậu, đời sống kinh tế và dân trí vẫn còn thấp.
Từ cách tiếp cận xã hội học, hệ thống chính trị cấp xã, ngoài việc hoàn thành
những chức năng nhiệm vụ đ−ợc ghi trong các văn bản pháp lý, phải xử lý và điều
hòa lợi ích của các nhóm dân c− địa ph−ơng rất khác nhau, trong đó có các nhóm
"yếu thế" và các nhóm "có lợi thế", và nhiều nhóm lợi ích khác trong khuôn khổ
pháp luật. Việc hệ thống chính trị cơ sở có ổn định vững chắc hay không, có hoàn
thành các chức năng nhiệm vụ hay không và hoàn thành ở mức độ nh− thế nào sẽ
phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố nh−: trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ
dân trí, mức sống, đặc điểm lịch sử và truyền thống văn hóa của địa ph−ơng; trình
độ chính trị, chuyên môn lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ thuộc hệ thống
chính trị cơ sở, và tất nhiên, còn phụ thuộc cả vào các tác nhân khác thuộc môi
tr−ờng thể chế vĩ mô.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
4 Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn qua ý kiến ng−ời dân
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hệ thống chính trị cơ sở là
cần thiết để góp phần nhận diện thực trạng và những vấn đề mà hệ thống này đang
phải trải nghiệm. Từ góc độ xã hội học, nghiên cứu chủ đề này có thể đ−ợc thực hiện
theo nhiều h−ớng, bằng nhiều ph−ơng pháp, trong đó có việc tiến hành điều tra khảo
sát, lấy ý kiến công dân nhằm thu thập các ý kiến, nhận định, đánh giá của ng−ời
dân về các yếu tố và hoạt động của hệ thống trong bối cảnh hiện thực.
Theo h−ớng này, về nội dung nghiên cứu, vai trò và hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị cấp xã trong những năm vừa qua lại không thể tách rời cuộc vận
động thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay, theo tinh thần của Nghị định 29 (ban hành
ngày 8/5/1998) của Chính phủ. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu khảo sát ý kiến
công dân về hệ thống chính trị cấp xã, vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở phải là một
nội dung quan trọng cần đ−ợc đề cập đến cả từ phía ng−ời dân lẫn từ phía các cán bộ
địa ph−ơng.
Bài viết này dựa trên kết quả của một cuộc nghiên cứu khảo sát ý kiến công
dân nh− vậy, đ−ợc thực hiện trong tháng 10 và tháng 11 năm 2001 tại 15 xã, trên
tổng số 1.500 hộ gia đình đ−ợc phỏng vấn, thuộc địa bàn nông thôn của 5 tỉnh Yên
Bái, Nam Định, Bình Định, Đắc Lắk và Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu đã gợi ra nhiều
vấn đề từ thực tiễn cũng nh− những nhận định b−ớc đầu nh− là những giả thuyết
cần đ−ợc tiếp tục tìm hiểu và lý giải kỹ l−ỡng hơn.
Những yếu tố ổn định và phát triển
Theo kết quả cuộc nghiên cứu ý kiến công dân nói trên, trong hàng loạt
nhận định, đánh giá của ng−ời dân về hệ thống chính trị cơ sở, th−ờng có khoảng
2/3 đến 3/4 các ý kiến, đánh giá mang sắc thái “tích cực”(đồng ý với các nhận định
đ−ợc đ−a ra). Bên cạnh đó, tỷ lệ từ 1/4 đến 1/3 ý kiến còn lại trả lời “không biết”,
“biết rất ít” hoặc “không quan tâm” đối với những nhận định có liên quan đến
hoạt động hay đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp xã. Chẳng hạn, đó là các
nhận định nh−:
• Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã đã có lịch tiếp dân, tạo điều kiện
thuận lợi cho dân đến tìm hiểu công việc ở xã, cung cấp cho ng−ời dân thông
tin đầy đủ, nhiều hơn tr−ớc.
• Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nói chung trong sạch, có hiểu biết pháp
luật, có năng lực, g−ơng mẫu, đoàn kết, quan tâm đến đời sống nhân dân, làm
tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
• Các quyết định quan trọng của hệ thống chính trị cấp xã đã phản ánh ý kiến,
nguyện vọng của đa số nhân dân.
• Các đoàn thể xã hội đã thực sự tham gia vào việc đề ra các quyết định quan
trọng của xã.
• Ng−ời dân trong xã biết tên và trách nhiệm của phần lớn các thành viên Đảng
ủy và Chính quyền xã (Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã).
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Trịnh Duy Luân 5
Tỷ lệ trả lời phủ định dứt khoát "Không", hoặc có đánh giá ng−ợc lại, hoặc phê
phán mạnh đối với các nhận định nh− trên, chỉ chiếm một vài phần trăm tổng số các
ý kiến trả lời.
Từ những kết quả trên có thể nêu lên một giả thuyết là: hệ thống chính trị cơ
sở (cấp xã) trong mắt ng−ời dân, về cơ bản đang thực thi đ−ợc các chức năng nhiệm
vụ của nó, hay về cơ bản, đang ở trong trạng thái ổn định t−ơng đối.
Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ phát triển thì các yếu tố có triển vọng, cái mới
cần thiết từ phía hệ thống chính trị cũng nh− từ phía ng−ời dân ch−a đ−ợc bộc lộ.
Chẳng hạn nh−: mức độ tham gia tích cực và chủ động của ng−ời dân vào mọi hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở; những mô hình tốt có thể thu hút các nguồn lực
của địa ph−ơng vào hoạt động; những quan niệm mới và các tiêu chuẩn mới về ng−ời
cán bộ của hệ thống chính trị cơ sở. Vì thế, để có thể hoàn thành đầy đủ các chức
năng nhiệm vụ của mình và tạo đủ cơ sở cho sự phát triển, hệ thống chính trị cơ sở
tr−ớc mắt cần tiếp tục có những giải pháp thiết thực làm tăng hiệu lực, hiệu quả của
các bộ phận và mối liên kết giữa chúng. Bên cạnh đó, đáng l−u ý là tỷ lệ trả lời
“Không biết”, “Không quan tâm”, thể hiện một sự thờ ơ với hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở th−ờng dao động ở mức 25-35%, trong đó chiếm số đông là những
ng−ời trẻ tuổi và xu h−ớng này ngày càng rõ.
Những khác biệt trong nhận thức và đánh giá của ng−ời dân.
Có những khác biệt nhất định trong các ý kiến nhận định, đánh giá của ng−ời
dân về hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay. Rõ nhất là sự phân biệt giữa 2
nhóm dân c−: một bên là những ng−ời có những ý kiến mang tính “tích cực” cao, hài
lòng với hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở hiện nay và một bên là các nhóm bày tỏ
các ý kiến, thái độ và đánh giá kém tích cực hơn và mang nhiều nét phê phán đối với
hệ thống chính trị cơ sở.
Thuộc vào nhóm thứ nhất th−ờng là những ng−ời có mức sống cao (khá giả), học
vấn cao, nam giới, đảng viên, những cán bộ đ−ơng chức hoặc đã từng là cán bộ, những
ng−ời có ng−ời thân trong hệ thống chính trị các cấp.
Nhóm thứ hai th−ờng bao gồm: ng−ời nghèo, phụ nữ, ng−ời có học vấn thấp,
quần chúng ngoài đảng, dân th−ờng và cả nhóm tuổi trẻ (d−ới 35 tuổi).
Hai nhóm này cũng th−ờng khác nhau trong trình độ nhận thức, quan niệm về
vị trí vai trò, chức năng và nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở và do vậy, khác nhau
về mức độ đánh giá thực trạng của hệ thống chính trị cơ sở hiện nay. Họ cũng khác
nhau về điều kiện kinh tế, khác nhau về lợi ích. Vì vậy có thể nhìn thấy một t−ơng
quan nào đó giữa khoảng cách về điều kiện sống và vị thế xã hội với khoảng cách về
tính tích cực chính trị xã hội của 2 nhóm dân c− nói trên. Khi khoảng cách về kinh tế
(phân hóa giàu nghèo) và vị thế xã hội có xu h−ớng ngày càng rộng ra có thể sẽ làm
tăng khoảng cách về ý thức chính trị. Và từ những khác biệt có thể tiềm ẩn những mâu
thuẫn và xung đột. Vì thế, cần nghĩ đến những giải pháp làm giảm thiểu khoảng cách
về nhận thức chính trị giữa các nhóm xã hội khác nhau nh− vừa kể trên.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
6 Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn qua ý kiến ng−ời dân
Từ việc phân tích các dữ liệu điều tra thực tế nh− trên, có thể nêu ra một số giả
thuyết cần đ−ợc xem xét kỹ hơn :
• Hệ thống chính trị cơ sở còn ch−a thật sự chủ động gần hơn để đến với
ng−ời nghèo.
• Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể, phụ nữ vẫn cần đ−ợc tạo điều kiện nhiều
hơn để tham gia tích cực hơn vào đời sống chính trị xã hội của cơ sở.
• Thanh niên, ng−ời trẻ tuổi thờ ơ, ít quan tâm đến những vấn đề chính trị xã
hội và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở tại địa ph−ơng.
Theo các địa bàn khu vực (phía bắc, phía nam, đồng bằng miền núi,...) nhận
thấy có những khác biệt nhất định trong các ý kiến, đánh giá của ng−ời dân về hệ
thống chính trị cơ sở (nh− mức độ “gần” dân của hệ thống chính trị, mức độ thờ ơ của
ng−òi dân đối với các hoạt động của hệ thống này,). Một trong những nguyên nhân
của tình hình là đặc điểm lịch sử của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở 2 miền đất
n−ớc, những khác biệt về văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị, những yếu tố dân
tộc và tôn giáo.
Tại các địa ph−ơng khác nhau, khi đánh giá về hệ thống chính trị cơ sở, các
cán bộ cấp tỉnh, huyện th−ờng chú ý tới chất l−ợng đội ngũ cán bộ, và một số kết
quả hoạt động mang tính địa ph−ơng của hệ thống này. Trên cơ sở đó có thể đánh
giá hoặc phân loại các hệ thống chính trị cấp xã này là “mạnh”, “yếu” hay “trung
bình”. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu cho thấy nội dung các ý kiến đánh giá của
ng−ời dân ở các địa ph−ơng này lại không khác nhau đáng kể. Điều này làm nảy
sinh một giả thuyết khác: phải chăng những khuyết tật của hệ thống chính trị cơ sở
hiện nay có thể còn có nguồn gốc từ những nguyên nhân cấu trúc - hệ thống tổng
thể? Trong điều kiện nh− vậy, thì những cố gắng, cho dù rất đáng kể của các bộ
phận trong hệ thống chính trị cơ sở có thể là ch−a đủ làm thay đổi tình hình đ−ợc
phản ánh qua các nhận định, đánh giá của ng−ời dân về chính hệ thống chính trị cơ
sở ở các địa ph−ơng.
Phẩm chất của ng−ời cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở - những
quan niệm đang chuyển đổi
Về những phẩm chất cơ bản nhất cần có của đội ngũ cán bộ thuộc hệ thống
chính trị cơ sở, kết quả khảo sát cho thấy: 3 phẩm chất ng−ời cán bộ của hệ thống
chính trị cơ sở đ−ợc ng−ời dân đề cao nhất đều là những phẩm chất đạo đức: "đạo đức
trong sạch", "hết lòng vì dân" và "g−ơng mẫu thực hiện pháp luật và chính sách của
Đảng và Nhà n−ớc". Tiếp đó mới là các phẩm chất"có khả năng làm kinh tế" và "có
hiểu biết pháp luật".
Nh− vậy, có thể nhận thấy là, tuy đã có những biến đổi quan trọng trong đời
sống kinh tế, ng−ời dân vẫn còn l−u giữ quan niệm về ng−ời cán bộ dựa trên những
khuôn mẫu giá trị đạo đức tr−ớc đây. Khuôn mẫu này chú trọng nhiều hơn tới sự bảo
l−u cái hiện có, ch−a nhấn mạnh các yếu tố của sự phát triển. Trong khi đó, bên cạnh
các giá trị đạo đức, trong bối cảnh xây dựng nhà n−ớc pháp quyền hiện nay, cái
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Trịnh Duy Luân 7
chúng ta cần khuyến khích chính là hệ giá trị chức năng, là các động lực thúc đẩy sự
phát triển. Chẳng hạn, một t− duy mới hơn về những phẩm chất cơ bản ng−ời cán bộ
đảng viên nh− "phải là ng−ời làm kinh tế giỏi" là rất đáng cân nhắc, cho dù trên thực
tế, sẽ không dễ dàng để quan niệm này trở nên phổ biến trong một sớm một chiều.
Trong ba bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị cơ sở, ng−ời dân có hiểu biết
nhiều hơn và đánh giá tích cực hơn đối với ủy ban nhân dân, cơ quan chính quyền trực
tiếp điều hành hầu hết các hoạt động của xã. Tiếp đó là vai trò của Đảng ủy xã. Vai trò
của Hội đồng nhân dân xã đ−ợc đánh giá là ch−a làm hết chức năng đại diện và giám
sát của một cơ quan dân cử ở địa ph−ơng. ý kiến ng−ời dân cũng chỉ rõ thực trạng vai
trò của các đoàn thể xã hội trong hệ thống chính trị cơ sở nhiều khi còn mang tính hình
thức và đang bị hành chính hóa, trong đó có cả vai trò của Đoàn thanh niên.
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
Theo đánh giá của nhóm cán bộ lãnh đạo địa ph−ơng, thành tựu cơ bản nhất
của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong 3 năm qua là:
Sự phấn khởi và tâm thế tích cực của ng−ời dân về việc thực hiện dân chủ
ở cơ sở.
Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, và nhân dân về phát huy
dân chủ trong đời sống xã hội ở cơ sở.
Thúc đẩy việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, do ng−ời dân đ−ợc tham gia
bàn bạc, quyết định sự đóng góp, tham gia xây dựng, giám sát cũng nh− sử
dụng và bảo d−ỡng các công trình. Nhờ đó, việc huy động sự đóng góp của dân
trở nên dễ dàng hơn.
Tại một số địa ph−ơng đã có sự tham gia của nhân dân trong việc thảo luận
các kế hoạch phát triển kinh tế nh− chuyển đổi cơ cấu cây trồng, qui hoạch sử dụng
đất. Tuy nhiên, ở một số xã khác những hoạt động mà dân tham gia bàn, ủy ban
nhân dân, Hội đồng nhân dân quyết định nhiều khi còn mang tính hình thức.
Trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các địa ph−ơng cũng còn
một số tồn tại sau:
Ch−a cụ thể hóa và h−ớng dẫn thực hiện qui chế. Vì thế, việc thực hiện không
thống nhất, tùy tiện từng nơi và khó giám sát.
Việc bầu thanh tra nhân dân và sự tham gia của nó trong hoạt động giám sát
ở cơ sở ch−a đồng đều.
Qui −ớc khu dân c− đ−ợc xây dựng còn chung chung, ch−a cụ thể nên thiếu
tính hiệu lực, không rút đ−ợc kinh nghiệm từ những H−ơng −ớc x−a.
Một bộ phận ng−ời dân chỉ thấy khía cạnh quyền lợi của họ từ Quy chế dân
chủ cơ sở mà không thấy đ−ợc khía cạnh nghĩa vụ.
Do ch−a nhận thức hết ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, một số cán bộ
xã có tâm lý ngại thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
8 Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn qua ý kiến ng−ời dân
Trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn, cần có thêm các nghiên cứu, trao đổi về
quan niệm dân chủ, các hình thức và mức độ của dân chủ và những biện pháp cụ thể
để thực hành dân chủ ở cơ sở ở nông thôn n−ớc ta hiện nay.
Dân chủ không tách rời dân trí và dân sinh. Dân trí và dân sinh là nền tảng
để thực hành dân chủ ở những cấp độ t−ơng ứng. Trong bối cảnh nông thôn Việt
Nam hiện nay, tuy mức sống (dân sinh) và dân trí của ng−ời dân có đ−ợc nâng cao
hơn tr−ớc, song mức tăng này còn khá hạn chế. Điều này sẽ quy định rất nhiều hình
thức, quy mô, mức độ của việc thực hành dân chủ, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở.
Dân trí lại không chỉ là trình độ học vấn. Dân trí bao hàm nhiều hơn nữa,
đặc biệt trong điều kiện hiện nay, không thể không tính đến yếu tố ý thức pháp
luật, hay là sự hiểu biết của ng−ời dân về pháp luật và những nguyên tắc cơ bản
của quản lý nhà n−ớc, quản lý xã hội ở cơ sở. Về mặt này thì chúng ta còn rất yếu.
Không chỉ đối với ng−ời dân, mà ngay trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã,
cũng còn nhiều bất cập. Không phải ng−ời dân nào cũng có hiểu biết cơ bản về các
vấn đề này để đánh giá hoạt động của bộ máy đảng và chính quyền cơ sở một cách
chính xác, để tham gia tích cực vào việc xây dựng, củng cố, kiểm tra giám sát hệ
thống chính trị “của mình”.
Trong bối cảnh nh− vậy, rất cần kết hợp chặt chẽ hơn việc thực hiện dân chủ
ở cơ sở với việc áp dụng cách tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng và của ng−ời
dân trên cơ sở năng lực tự quản của họ trong các hoạt động cộng đồng.
Để có một hệ thống chính trị cơ sở mạnh, không chỉ cần một lực l−ợng cán
bộ mạnh, một môi tr−ờng thực hiện dân chủ ở cơ sở đ−ợc thông thoáng, cởi mở mà
rất quan trọng là việc xây dựng năng lực, tạo điều kiện, khả năng và kỹ năng
tham gia cho nhân dân. Bắt đầu từ việc đ−a họ tham gia vào đời sống văn hóa xã
hội th−ờng ngày đến tham gia vào các hoạt động quản lý chính trị xã hội ở địa
ph−ơng. Trong quá trình đó, t−ơng xứng với trình độ và năng lực tham gia của
ng−ời dân, sẽ có các hình thức thích hợp để họ thực sự có cơ hội và điều kiện thực
thi những quyền và nghĩa vụ của họ. Nh− vậy, không chỉ cán bộ của hệ thống
chính trị mà cả những ng−ời dân đều cần có thời gian để học hỏi, thử nghiệm, vừa
học vừa làm để vừa tăng c−ờng năng lực cá nhân vừa củng cố sức mạnh của hệ
thống chính trị cơ sở.
Cần tránh t− duy “bao cấp”, tiếp cận “từ trên xuống” trong thực hiện dân chủ.
Nên áp dụng t− duy “dựa trên nhu cầu”, tiếp cận “từ d−ới lên”. T−ơng tự nh− triết lý
“Cho cần câu tốt hơn cho xâu cá” trong hoạt động xóa đói giảm nghèo, trong việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở, cũng có thể nói: “Trang bị cho ng−ời dân kiến thức và kỹ năng
tham gia tốt hơn là đ−a ra những khái niệm và quy chế dân chủ chung chung”. Bằng
cách trang bị cho ng−ời dân, kể cả ng−ời nghèo những hiểu biết và kỹ năng tham gia
cần thiết, họ sẽ biết sử dụng chúng để thực thi các quyền của họ theo luật định. Họ
cũng sẽ biết giám sát và đòi hỏi hệ thống chính trị cơ sở phải nâng cao năng lực của
mình, đáp ứng những đòi hỏi của công dân để hệ thống chính trị thực sự là của dân,
do dân và vì dân.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Trịnh Duy Luân 9
Vấn đề nâng cao vai trò và hoạt động tự quản của các đoàn thể xã hội cũng
có thể đ−ợc thực hiện thông qua việc tổ chức cho các thành viên nắm bắt các kiến
thức và kỹ năng tham gia vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế- chính trị - xã hội
của địa ph−ơng.
Cũng rất quan trọng là phải có một lộ trình dài hạn cho việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở với một hệ thống các mục tiêu dài hạn đ−ợc phân kỳ thành các giai
đoạn, và các mục tiêu ngắn hạn cần đạt tới ở mỗi giai đoạn. Các cách tiếp cận và
biện pháp thực hiện những mục tiêu này sẽ phải tính đến đặc điểm của khu vực,
của các nhóm mục tiêu, của mặt bằng dân trí nói chung ở từng vùng hoặc địa
ph−ơng cụ thể. Tránh tình trạng quy chế thực hiện dân chủ cơ sở còn quá chung,
thiếu các biện pháp và h−ớng dẫn cụ thể, thích hợp để mỗi địa ph−ơng có thể vận
dụng có hiệu quả.
Góp phần Đổi mới và nâng cao chất l−ợng của hệ thống chính trị cơ sở:
Thể chế hóa các hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
Cần sớm có Luật hoặc Pháp lệnh về hệ thống chính trị cơ sở, trong đó qui định
rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ máy và cơ chế phối hợp giữa chúng, cũng nh−
quan hệ với cấp trên trong hệ thống tầng bậc của từng bộ máy và của toàn bộ hệ
thống chính trị. Thực hiện tốt việc h−ớng dẫn thực hiện luật hay pháp lệnh này.
Cụ thể hóa và phân định rõ hơn chức năng kiểm tra, giám sát hỗ trợ của tổ
chức đảng, Hội đồng nhân dân, các đoàn thể. Đảm bảo hiệu quả, tính độc lập, khách
quan của chức năng này. Thực hiện công chức hóa, chuyên môn hóa một bộ phận hệ
thống chính trị cấp xã. Xây dựng từng b−ớc lề lối làm việc chính qui của bộ máy công
quyền cơ sở.
Rà soát lại các chức năng nhiệm vụ của hệ thống chính trị cấp trên, đặc biệt
là cấp huyện trong t−ơng quan với chức năng nhiệm vụ, nguồn lực cho hệ thống chính
trị cấp xã. Cân đối lại cho hợp lý hơn để tránh việc cấp huyện đổ dồn quá nhiều
nhiệm vụ cho cấp xã trong khi năng lực cán bộ và nguồn lực đầu vào của cấp xã còn
hạn hẹp. Cấp huyện cần có chức năng cung cấp chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật kịp thời
cho các xã, giúp đào tạo cán bộ cấp xã một cách th−ờng xuyên và liên tục. Tăng c−ờng
vai trò của cấp huyện và cấp tỉnh trong việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao dân trí
và ý thức pháp luật cho nhân dân.
Có kế hoạch, ch−ơng trình nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của hệ
thống chính trị cơ sở, đáp ứng nhu cầu tr−ớc mắt và lâu dài cả về trình độ học vấn,
chuyên môn nghiệp vụ và chính trị, phù hợp với yêu cầu của từng loại bộ máy. Xây
dựng tiêu chuẩn chức danh cho đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở, kèm theo các
chính sách thích hợp để họ có thể toàn tâm, toàn ý hoàn thành chức năng nhiệm vụ
của mình.
Tạo điều kiện để các đoàn thể phát huy năng lực tự quản và tính công dân
(dân sự) của mình nhằm hỗ trợ tích cực cho hoạt động của chính quyền cơ sở. Bảo
đảm tính độc lập của chức năng kiểm tra giám sát bởi chính ng−ời dân, hoặc đại
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
10 Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn qua ý kiến ng−ời dân
diện đoàn thể thực sự của họ. Từ đó, hệ thống chính trị cơ sở phải chứng minh đ−ợc
tính minh bạch, công khai và có thể giải trình các hoạt động của mình.
Tiếp tục thực hiện Dân chủ ở cơ sở
Quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc trong việc xây dựng hệ thống chính trị,
cần chú trọng hơn nữa tới việc nâng cao dân trí, đặc biệt là ý thức pháp luật trong
nhân dân. Có các ch−ơng trình hoạt động nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng tham
gia của ng−ời dân, hiểu biết về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan thuộc
hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tiếp tục cụ thể hóa và h−ớng dẫn thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Chú ý tới
đặc thù của các địa ph−ơng, vùng miền, trình độ phát triển kinh tế-xã hội, trình độ
dân trí, tập trung cho địa bàn nông thôn, ở cấp xã.
Bảo đảm thông tin cho các ch−ơng trình đổi mới và nâng cao chất l−ợng hệ
thống chính trị cơ sở
Qua khảo sát thực tế, nổi lên vấn đề về trình độ dân trí, những hiểu biết và
kỹ năng tham gia thực hiện dân chủ cơ sở nh− là một vấn đề nền tảng, lâu dài. Vì
vậy cần có một Ch−ơng trình hoặc Đề tài nghiên cứu khảo sát toàn diện, có hệ thống,
trên quy mô toàn quốc (d−ới dạng điều tra cơ bản) trên chủ đề: "Thực trạng hiểu biết,
năng lực tham gia và tự quản của ng−ời dân nông thôn tại cơ sở".
Những nghiên cứu nh− vậy có thể góp phần tạo cơ sở thông tin và dữ liệu cho
việc xây dựng các ch−ơng trình vừa đào tạo tăng c−ờng đội ngũ cán bộ của hệ thống
chính trị, vừa nâng cao dân trí, kiến thức và kỹ năng tham gia của ng−ời dân. Tr−ớc
mắt, những thông tin nh− vậy có thể trực tiếp giúp triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở hiện nay thành công, giúp tìm ra các biện pháp tăng c−ờng sức mạnh hệ
thống chính trị cơ sở “từ dân”. Và sau nữa, về lâu dài, chúng sẽ hỗ trợ cho quá trình
thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, theo đ−ờng lối xây dựng một xã hội "công
bằng, dân chủ, văn minh" ở những trình độ ngày một cao hơn.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- he_thong_chinh_tri_co_so_o_nong_thon_qua_y_kien_nguoi_dan_mo.pdf