Giới thiệu về thẻ tín dụng
An toàn về tài sản, chỉ duy nhất chủ thẻ được sử dụng và biết mật mã
riêng (số PIN) để sử dụng, vì vậy an toàn trong quản ký tài chính của
các đơn vị chấp nhận thẻ vì thông tin về giao dịch được lưu lại nên
không thất thoát được tiền mặt cũng như tránh được tiền giả, giảm thiểu
sự nhầm lẫn trong thanh toán.
9 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1911 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu về thẻ tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu về thẻ tín dụng
Tác giả
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khái niệm thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng là loại thẻ cho phép chủ thẻ được sử dụng trong hạn mức tín
dụng tuần hoàn được cấp mà chủ thẻ phải thanh toán ít nhất mức trả nợ tối
thiểu vào ngày đến hạn.
Đây là loại thanh toán hiện đại do nhph cho phép chủ thẻ thanh toán hàng hoá
- dịch vụ bằng thẻ với hạn mức chi tiêu nhất định. Hạn mức chi tiêu này được
ngân hàng quy định cho từng chủ thẻ dựa trên khả năng tài chính, số tiền ký
quỹ hoặc tài sản thế chấp làm giá trị đảm bảo. Thực chất đây là hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt cho phép chi tiêu trước trả tiên sau với thời
hạn ưu đãi cuối tháng không tính lãi từ 16 đến 46 ngày. Vào cuối mỗi kì tín
dụng, chủ thẻ thanh toán với ngân hàng toàn bộ hoặc một phần số tiền đã chi
tiêu theo sau khi hạch toán ( bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu của chủ thẻ
trong tháng).
Xét về bản chất kinh tế, thẻ tín dụng là sự cam kết thanh toán của sẽ thanh
toán cho những khoản tiền mà chủ thẻ đã chi tiêu. Tức là ngân hàng phát
hành cam kết cho chủ thẻ vay tiền của mình để mua hàng hoá - dịch vụ, rút
tiền mặt qua máy thanh toán tiền tự động ATM ( Automated Teller Machine)
trong số tiền ngân hàng cho phép. Tuy nhiên việc chi tiêu bằng thẻ tín dụng
bị giới hạn bởi đơn vị chấp nhận thẻ và điểm ứng tiền mặt. Do chủ thẻ sử
dụng thẻ để chi tiêu thay vì phải mang theo một lượng tiền mặt nhất định nên
thẻ tín dụng như một phương tiện thanh toán thay tiền mặt nhưng thẻ tín dụng
không phải là tiền tệ.Nó không mang đặc tính, tính chất và chức năng của
tiền tệ.
Quá trình hình thành và phát triển thẻ tín dụng
Nhiều người trong chúng ta hẳn cũng đã gặp phải những tình huống khó xử
khi trong người không có tiền mặt. Chiếc thẻ đầu tiên đánh dấu cuộc cách
mạng về thẻ tín dụng ra đời từ một tình huống tương tự. Đó là buổi tối năm
1949, sau khi ăn tối ở một nhà hàng, ông Frank MC Namara một doanh nhân
người Mỹ bỗng phát hiện ra mình không mang theo tiền mặt và ông buộc
phải gọi điện về nhà để người nhà mang đến thanh toán. Tình thế khó xử lần
đó khiến ông nảy ra ý tưởng về một hình thức thanh toán gọn nhẹ mà không
cần mang theo tiền mặt bên cạnh và ông đã mày mò sáng tạo ra một phương
tiện không dùng tiền mặt trong những trường hợp tương tự. Thế là lần đầu
tiên MC Namara đã cho ra đời loại thẻ mang tên “Diners Club”. Với lệ phí
hằng năm là 5 USD, những người mang thẻ “Diners Club” có thể ghi nợ khi
ăn ở 27 nhà hàng nằm trong hoặc ven thành phố New York.
Xuất phát từ một ý tưởng trong tình huống khó xử, nhưng với những tiện ích
đi kèm, thẻ tín dụng đã nhanh chóng chinh phục được khách hàng. Đến năm
1951 hơn 1 triệu dollars được tính nợ và số lượng thẻ ngày càng tăng lên,
công ty phát hành thẻ “Diners Club” nhanh chóng thu lãi. Tiếp nối thành
công của ther “Diners Club” năm 1955 hàng loạt thẻ mới ra đời như: Trip
Charge, GoldenKey, Gourment Club, Esquire lub. Đến năm 1958 Carte
Blanche và American Expree ra đời và thống lĩnh thị trường. Và hiện nay tổ
chưc thẻ Amex (American Express) đang là tổ chức thẻ du lịch giảI trí
(Travel & Entertianment – T&E) lớn nhất thế giới. Tổng số thẻ phát hành gấp
5 lần Diners Club và gấp 2 lần JCB. Năm 1990 tổng doanh thu của thẻ Amex
là 111,5 triệu USD với số lượng 35,4 triệu thẻ lưu hành, nhưng chỉ 3 năm sau
đó vào năm 1993 tổng doanh thu đã tăng lên 124 tỷ USD với 36,5 triệu thẻ
lưu hành, tại 36 triệu cơ sở chấp nhận thẻ. Khác với loại thẻ khác tổ chức thẻ
Amex tự phát hành và trực tiếp quản lý chủ thẻ. Qua đó nắm bắt được thông
tin cần thiết về khách hàng để đưa ra các chương trình phát triển như phân
loại khách hàng để cung cấp dịch vụ.
Visa tiền thân là Bank Americard do Bank of American phát hành vào năm
1960 khi các chi nháng nhận thấy rằng phần lớn thẻ lúc bấy giờ chỉ dành cho
giới doanh nhân giàu có trong khi đó mới là đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu
cho thị trường tương lai. Ngày nay Visa Card là loại thẻ có quy mô phát triển
lớn nhất toàn cầu.Tính đến năm 1990 tổng doanh thu là 345 tỷ USD với 257
triệu thẻ lưu hành, nhưng đến năm 1993 tổng doanh thu đã đạt 542 tỷ USD.
Hệ thống rút tiền tự động củaVisa có khoảng 164.000 máy ATM ở 65 nước
trên thế giới. Visa không trực tiếp phát hành mà giao cho nhân viên, chính vì
thế giúp Visa mở rộng được thị trường hơn so với các loại khác.
JCB xuất phát từ Nhật Bản và ra đời vào năm 1961 bởi ngân hàng sanwa.
Mục tiêu là hướng vào thị trường du lịch và giải trí, hiện nay JCB là loại thẻ
cạnh tranh với Amex và người nhật đã chứng tỏ công nghệ thẻ không phải là
độc quyền tuyệt đối của các tổ chức Mỹ. Điều đó được thể hiện qua số liệu
sau: năm 1990 tổng doanh thu đạt 16,5 tỷ USD với 17 triệu thẻ lưu hành và
năm 1993 doanh số đã tăng lên 38,1 tỷ USD với 27,5 triệu thể được chấp
nhận ở 400.000 nơi, tiêu thụ trên 109 quốcgia.
Masters Casd ra đời vào năm 1966 với tên gọi ban đầu là Master Charge do
hiệp hội ngân hàng gọi tắt là ICA (Interbank Card Assciation) phát hành
thông qua các thành viên trên thế giới. Năm 1993 tổng doanh thu là
320,6USD với 215 triệu thẻ được chấp nhận ở 220 quốc gia, có hệ thống
ATM lớn nhất thế giới tại 9 triệu điểm chấp nhận thẻ.
Chính sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại, những ứng dụng của
cuộc cách mạng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần tạo ra những
sản phẩm dịch vụ nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích khách hàng mà một trong
những sản phẩm dịch vụ đó là thẻ với các tên gọi khác nhau: Thẻ séc, thẻ rút
tiền mặt, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng… Với lợi thế về vốn, chuyên môn trong
nghiệp vụ thẩm định, cơ sở hạ tầng sẵn có phục vụ cho hoạt động phát hành
và thanh toán thẻ. Chính vì thế ngày nay thanh toán bằng thẻ đã trở thành vấn
đề hết sức phổ biến, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thẻ và các
sản phẩm dịch vụ khác đã chiếm 2/3 tổng lợi nhuận hoạt động của ngân hàng.
Sự phát triển của thẻ gắn liền với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế
toàn cầu.
Hiện nay thẻ tín dụng được xem như một công cụ thanh toán hiện đại, văn
minh thuận tiện đặc biệt là các nước phát triển. Sự phát triển không ngừng
của khoa học công nghệ đẫ liên tục cải tiến và hoàn thiện hơn tính năng của
thẻ tín dụng, giúp cho thẻ tín dụng trở thành phương thức thanh toán nhanh
gọn, chính xác, an toàn, tiện lợi.
Phân loại thẻ tín dụng
Phân loại theo phạm vi sử dụng thẻ
Thẻ tín dụng trong nước: Là loại thẻ có phạm vi sử dụng và thanh toán
trong một nước. ngân hàng phát hành và cơ sở chấp nhận thẻ cùng
trong một nước. Đồng tiền của thẻ chỉ duy nhất là đồng nội tệ.
Thẻ tín dụng quốc tế: Là các loại thẻ do các ngân hàng, tổ chức tài
chính trong nước và quốc tế ( là thành viên của của tổ chức thẻ quốc tế)
phát hành. Thẻ này có thể thanh toán ở tất cả các đơn vị chấp nhận thẻ
trên thế giới.
Phân loại theo đối tượng sử dụng
Thẻ cá nhân: Là thẻ được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu và đáp
ứng được được đủ các điều kiện phát hành thẻ. Chủ thẻ chịu trách
nhiệm thanh toán các khoản chi tiêu thẻ bằng nguồn tiền của bản thân
mình.
o Thẻ chính: Do cá nhân đứng tên xin phát hành thẻ cho chính
mình sử dụng và cá nhân đó là chủ thẻ chính.
o Thẻ phụ: Chủ thẻ chính xin phát hành thẻ phụ cho người khác sử
dụng ( chủ thẻ phụ). Chủ thẻ chính chịu trách nhiệm toàn bộ chi
tiêu của chủ thẻ phụ.
Thẻ công ty: Là loại thẻ tín dụng dùng cho công ty thanh toán trong
hoạt động kinh doanh của mình. Công ty đứng tên ký hợp đồng sử
dụng thẻ và uỷ quyền cho người đứng tên trong thẻ tín dụng để sử
dụng, đồng thời mọi thanh toán liên quan đến thẻ đều do công ty thanh
toán với ngân hàng phát hành.
Phân loại theo mức tín dụng
Có hai loại: Thẻ vàng và thẻ chuẩn.
Thẻ vàng: Là thẻ có hạn mức tín dụng từ 50.000.000 -90.000.000
Thẻ chuẩn: Là thẻ có hạn mức tín dụng từ 10.000.000-dưới 50.000.000.
Trong đó, hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà chủ thẻ được phép sử
dụng trong một chu kỳ tín dụng.
Phân loại thẻ theo công nghệ sản xuất
Thẻ dập nổi (Embossed Card): hiện giờ hầu như không còn sử dụng.
Thẻ từ tính (Magnetic Card): Các thông tin về thẻ trên một giải băng từ
Thẻ thông minh (IC/Smard Card): Các thông tin được lưu trữ bằng các
vi mạch. Thẻ này sẽ được sử dụng phổ biến trong tương lai.
Ưu điểm, nhược điểm của hình thức thanh toán thẻ tín dụng
Ưu điểm của hình thức thanh toán thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng ra đời đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của công nghệ NH
Hoà chung với sự phát triển về kinh tế- xã hội của thế giới, thẻ tín dụng đã
phát huy vai trò tích cực của mình:
Thứ nhất: Góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông.
Những nước phát triển thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng
thanh toán cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể, từ
đó làm giảm các chi phí vận chuyển, phát hành, kiểm kê tiền trong nền
kinh tế, đồng thời giúp hạn chế được nạn tiền giả
Thứ hai: Góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển thanh toán. Hầu hết
mọi giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực
hiện và thanh toán trực tuyến, vì vậy tốc độ chu chuyển thanh toán
nhanh hơn nhiều so với những giao dịch sử dụng phương tiện thanh
toán khác. Thay vì thực hiện giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ
mọi thông tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện.
Thứ ba: Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. Việc sử
dụng thẻ được thực hiện thông qua mạng trực tuyến dưới sự kiểm soát
của NH đã tạo điều kiện quan trọng cho việc kiểm soát khối lượng tiền
giao dịch thanh toán của dân cư và của cả nền kinh tế, do đó giảm được
các hoạt động kinh tế ngầm, đồng thời qua đó có thể tính toán được
lượng tiền cung ứng, tăng cường tính chủ đạo của nhà nước trong nền
kinh tế vĩ mô.
Thứ tư: Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du
lịch và đầu tư nước ngoài. Thanh toán bằng thẻ tạo điều kiện hết sức
thuận lợi cho việc hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế
giới trong lĩnh vực: tài chính NH thông qua các tổ chức thẻ quốc tế. Từ
đó tạo ra môi trường văn minh thương mại thu hút nhiều nhà đầu tư
nước ngoài và khách du lịch. Thanh toán thẻ an toàn, hiệu quả, chính
xác, nhanh chóng cũng sẽ tạo ra niềm tin đối với dân chúng vào hoạt
động của hệ thống NH. Với tấm thẻ nhỏ trong tay, ta có thể thanh toán
hàng hoá dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ. Trên toàn thế giới bằng
bất kỳ loại tiền nào mà không phải trả thêm một khoản phụ phí nào.
Không bị giới hạn bởi lượng tiền mang theo người, có thể giải quyết
được những nhu cầu phát sinh đột xuất.
Được cấp một hạn mức tín dụng để chi tiêu trước trả tiền sau ( Đây
chính là tính tín dụng cúa sản phẩm).
Có thể rút tiền mặt khi cần thiết tại các ngân hàng thanh toán thẻ hay tại
các máy rút tiền tự động ATM ở khắp nơi trên thế giới.
Có thể kiểm tra số, điểm ứng tiền mặt thông qua các thiết bị của NH.
Được hưởng mộ số dịch vụ khác do NH phát hành và triển khai áp
dụng cho chủ thẻ như: Dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ y tế, trợ giúp toàn
cầu.
An toàn về tài sản, chỉ duy nhất chủ thẻ được sử dụng và biết mật mã
riêng (số PIN) để sử dụng, vì vậy an toàn trong quản ký tài chính của
các đơn vị chấp nhận thẻ vì thông tin về giao dịch được lưu lại nên
không thất thoát được tiền mặt cũng như tránh được tiền giả, giảm thiểu
sự nhầm lẫn trong thanh toán.
Nhược điểm của thanh toán bằng thẻ tín dụng
Thanh toán bằng thẻ tín dụng đem lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng, lợi
nhuận cho Ngân hàng và hiệu quả kinh tế- xã hội song tấm huy chương nào
cũng có mặt trái của nó. Thanh toán bằng thẻ tín dụng cũng có một số nhược
điểm sau.
Do thẻ tín dụng có giới hạn thanh toán nhất định nên khách hàng không
thể rút tiền mặt hoặc mua sắm hàng hoá dịch vụ vượt quá giới hạn
thanh toán của thẻ.
Thẻ tín dụng không khuyến khích rút tiền mặt nên nếu rút tiền mặt tại
các máy ATM khách hàng sẽ chịu một khoản phí nào đó.
Sử dụng thẻ tín dụng bị giới hạn hơn sử dụng tiền mặt do thẻ tín dụng
chỉ được sử dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ.
Ngân hàng muốn thu hút được lợi nhuận thì phải phát hành được một
số lượng thẻ đáng kể. Trong khi đó NHPH phải bỏ nhiều chi phí để sử
dụng công nghệ thông tin, trang bị hệ thống ATM, thiết lập mạng lưới
đơn vị chấp nhận thẻ và NHĐL thanh toán thẻ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gioi_thieu_ve_the_tin_dung_721.pdf