Các kết quả nghiên cứu mẫu đất trong đê ở An
Phú cho thấy hàm lượng As trong đất đều cao. Tất
cả các mẫu đất trồng ớt trong đê tại An Phú có
hàm lượng As cao hơn đất Long Xuyên đến 3 lần.
Kết quả thí nghiệm ngoài đồng bố trí trên ruộng
nhiễm As cho thấy, hàm lượng As trong trái ớt
tưới nước giếng khoan không bón vôi luôn cao
hơn so với bón vôi lần lượt là 13,9%; 25,6% và
34,3% lần lượt ở mức độ vôi 0,5 tấn/ ha; 1 tấn/ ha
và 2,0 tấn/ha.
Bón vôi làm giảm hàm lượng As trong thân ớt so
với không bón vôi cao nhất là 31,5%. Lượng vôi
bón 2 tấn/ha giảm rõ rệt hàm lượng As trong trái
và thân ớt là cao nhất tương ứng 34,3% và 31,5%
so với không bón vôi.
Ngoài ra việc bón vôi làm tăng sinh khối, số chiều
cao, số trái/chậu do đó làm tăng năng suất của ớt.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảm thiểu hút thu asen trong cây ớt bằng biện pháp bón vôi trồng trên đất phù sa An Phú - An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 22 – 27
22
GIẢM THIỂU HÚT THU ASEN TRONG CÂY ỚT BẰNG BIỆN PHÁP BÓN VÔI
TRỒNG TRÊN ĐẤT PHÙ SA AN PHÚ - AN GIANG
Nguyễn Văn Chương1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 19/05/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
19/12/2017
Ngày chấp nhận đăng: 12/2017
Title:
The reduction of arsenic
absortion in chilli trees by lime
fertilizer application in
alluvium soil at An Phu district,
An Giang province
Keywords:
Arsenic, An Phu district,
deep-well water, liming
Từ khóa:
Asen, An Phú, nước ngầm,
bón vôi
ABSTRACT
The previous studies in An Phu showed that the level of Arsenic (As) in soils
was so high. The As averages of Chilli soil samples inside dikes in An Phu were
higher than in Long Xuyen 3 times. The averages of As levels of soil samples
inside dikes of An Phu were 357 mg/kg (for soils of Chilli). The results of on -
farm research conducted on As contaminated fields showed that As levels in
chilli (without liming) were higher at 13,9%; 25,6% and 34,3% deep - well
water treatments compared with 0,5 tons/ha; 1 tons/ha and 2,0 tons/ha,
respectively, and compared without liming. The As level of chilli bodies was
lower 31,5% at 2,0 tons lime/ha treatment compared without liming treatment.
The results showed that when being applied lime at 2,0 tons/ha, it had a
significant effect on amount of As in the chilli and chilli body decreased 34,3%
and 31,5%, respectively, compared without liming.
TÓM TẮT
Các kết quả nghiên cứu vùng An Phú cho thấy hàm lượng Asen (As) trong đất
đều cao. Đất trồng ớt trong đê tại An Phú có hàm lượng As cao hơn đất Long
Xuyên đến 3 lần. Đất trồng ớt trong đê có hàm lượng As trung bình từ 357
mg/kg. Thí nghiệm bố trí trên ruộng nhiễm As cho thấy hàm lượng As trong trái
ớt tưới nước giếng khoan không bón vôi luôn cao hơn so với bón vôi lần lượt là
13,9%; 25,6% và 34,3% lần lượt ở mức độ vôi 0,5 tấn/ ha; 1 tấn/ ha và 2,0
tấn/ha. Hàm lượng As trong thân ớt có bón vôi làm giảm hàm lượng As trong
thân ớt so với không bón vôi cao nhất là 31,5%. Lượng vôi bón 2,0 tấn/ha giảm
rõ rệt hàm lượng As trong trái và thân ớt là cao nhất tương ứng 34,3% và
31,5% so với không bón vôi.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những tác động bất lợi của Asen (As) đến sức
khỏe và cây trồng tiếp xúc qua ô nhiễm chuỗi
thức ăn cũng được nghiên cứu bởi Williams và cs.
(2007) và Khan và cs. (2009). Rất nhiều nghiên
cứu tìm biện pháp ngăn chặn sự tích lũy As trong
thực vật, tích tụ As trong đất và làm giảm năng
suất cây trồng khi sử dụng nguồn nước ngầm cho
thủy lợi. Do đó, sự hiểu biết và áp dụng các biện
pháp giảm thiểu As ô nhiễm trong nước ngầm là
cần thiết để giảm thiểu các tác động tiêu cực của
nó trong nước tưới. Nghiên cứu trong năm 2005
của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh An Giang cho
thấy, mẫu nước ngầm lấy tại huyện An Phú đều
có mức nhiễm As rất cao từ 100 - 751 µg/l, vượt
tiêu chuẩn cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới và
tiêu chuẩn Việt Nam (10 µg/l) là 10 - 75 lần. Kết
quả khảo sát gần đây ở An Phú cho thấy, hàm
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 22 – 27
23
lượng As trong đất trung bình là 7,89 mg/kg theo
tiêu chuẩn cho phép đất nhiễm bẩn As là 5 mg/kg
thì đất An Phú có khoảng 82,1% mẫu đất vượt
tiêu chuẩn cho phép (Nguyễn Văn Chương & Ngô
Ngọc Hưng, 2011). Do đó, nhằm giảm hàm
lượng As trong cây trồng hấp thu vào từ đất, đề tài
tập trung hướng nghiên cứu về giảm thiểu sự hút
thu As trong cây ớt bằng biện pháp bón vôi trồng
trên đất phù sa ở An Phú.
2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Phương tiện
Đối tượng nghiên cứu: Vôi bón thí nghiệm là
CaO; Nước tưới (nước giếng khoan); Đất canh tác
tại xã Vĩnh Trường (đất trồng ớt) và cây trồng (ớt)
tại huyện An Phú. Loại ớt trồng được sử dụng
trong thí nghiệm này dựa vào các giống mà nông
dân An Phú đang sử dụng hiện nay. Giống cây
trồng trong thí nghiệm: giống ớt chỉ thiên lai F1
HNS 13.5. Thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày.
Mẫu đất được lấy bằng dụng cụ khoan tay chuyên
dụng. Mẫu đất sẽ được thu từ 0 - 20 cm trên đất
trồng tưới nước giếng nhiễm As và nước sông tại
huyện An Phú ở tỉnh An Giang. Tại mỗi điểm thu,
mỗi mẫu thu 5 điểm theo đường chéo góc, sau đó
trộn chung và lấy mẫu đại diện. Số mẫu đất thu
khảo sát là 10 mẫu đất tại An Phú, 5 mẫu đất tại
Long Xuyên, 32 mẫu đất trước và sau thí nghiệm
trong 4 nghiệm thức (4 nghiệm thức x 4 lần lặp
lại)
Mẫu sau khi thu được chứa trong các túi nhựa
được kí hiệu và mang về phòng thí nghiệm. Mẫu
được phơi ở nhiệt độ phòng đến khi khô, sau đó
được nghiền và qua rây có mắt lưới 0,5 mm. Chỉ
tiêu phân tích là As, pH.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Thí nghiệm
được thực hiện tại xã Vĩnh Trường, huyện An
Phú, tỉnh An Giang trong vụ Đông Xuân năm
2016.
2.2 Phương pháp
Nghiên cứu được bố trí thí nghiệm cho cây ớt
theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên. Thí nghiệm được
bố trí cho cây ớt theo thể thức 4 nghiệm thức với
4 lần lặp lại: 1 loại nước tưới (nước ngầm) x 4
liều lượng vôi (Nghiệm thức đối chứng là không
bón vôi, nghiệm thức 2 là 0,5 tấn/ha; nghiệm thức
3 là 1,0 tấn/ha và nghiệm thức 4 là 2 tấn/ha).
Vôi sử dụng trong thí nghiệm là CaO với các
nồng độ 0,5 tấn/ha; 1,0 tấn/ha; 2,0 tấn/ha. Đất
Long Xuyên không tưới nước giếng nhiễm As
được lấy phân tích As để so sánh đất An Phú tưới
nước giếng khoan nhiễm As để chọn vùng nghiên
cứu thích hợp.
Số mẫu trái và thân là 16 thân và lá, 16 mẫu hạt
thu mẫu sau khi thu hoạch. Chỉ tiêu phân tích là
hàm lượng As tổng số.
Tiến hành phân tích mẫu trên máy hấp thu nguyên
tử bằng kỹ thuật hóa hơi lạnh (Hydride) để phân
tích As theo phương pháp analytikjenaAG
Mẫu đất được phân tích tại phòng thí nghiệm của
khoa Nông Nghiệp và Tài nguyên Thiên nhiên,
Trường Đại học An Giang. Mẫu hạt và thân ớt sẽ
được thu lúc thu hoạch.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của đất ở An phú đến khả
năng hấp thu As của cây ớt
Kết quả Bảng 1 cũng cho thấy, hàm lượng As
trong đất An Phú trong đê cũng đạt giá trị cao là
357 mg/kg cao hơn gấp 3 lần so với đất Long
Xuyên chỉ có 98 mg/kg. Qua đó cho thấy, nguồn
đất An Phú đặc biệt là đất trong đê bao bị ô nhiễm
As nghiêm trọng. Có sự khác biệt ý nghĩa thống
kê giữa hàm lượng As trong đất An Phú trong đê
so với đất Long Xuyên.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 22 – 27
24
Bảng 1. pH và As trong đất Long Xuyên và An Phú
Nhân tố As (mg/kg) pH
Hàm lượng As trong đất
An Phú 357a 5,91b
Long Xuyên 98b 6,24a
F ** **
CV (%) 62,8 3,84
Bảng 2. So sánh pH đất An Phú trước và sau thí nghiệm
Nghiệm thức
pH
Trước khi bón vôi Sau khi bón vôi
0,5 tấn/ha 5,54 6,32bc
1,0 tấn/ha 5,47 7,18ab
2 tấn/ha 5,35 7,94a
Đối chứng 5,46 5,23c
CV (%) ns *
F 6,30 10,4
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau khác nhau thì có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1% (**) và 5%
(*); ns: không khác biệt ý nghĩa thống kê
Nhìn chung ở Bảng 2, pH đất trước khi bón vôi
khá ổn định ở mức từ 5,35 đến 5,54. Như vậy ở
các nghiệm thức trước khi bón vôi không có khác
biệt thống kê với nghiệm thức đối chứng. Trong
trường hợp sau thí nghiệm lượng vôi bón càng
tăng thì pH cũng tăng dần từ 6,32 lên 7,94 ở
nghiệm thức bón vôi 2 tấn/ha. Ở các nghiệm thức
bón vôi càng tăng thì pH càng tăng.
3.2 Ảnh hưởng của vôi đến khả năng hấp thu
As của cây ớt
Kết quả Bảng 3, các mức độ bón vôi khác nhau
đều tạo sự khác biệt có ý nghĩa ở mức 1% về sự
hấp thụ và tích lũy hàm lượng As trên thân và trái
ớt. Trên thân ớt, hàm lượng As cao nhất ở nghiệm
thức không bón vôi là 128 mg/kg, khi tăng hàm
lượng vôi thì hàm lượng As trên thân cũng giảm
dần từ 0,5 tấn/ha, 1 tấn/ha đến 2 tấn/ha, lần lượt
tương đương 111 mg/kg; 96,3 mg/kg và 87,7
mg/kg. Tương tự, hàm lượng As trên trái cũng
giảm dần từ 83,1 mg/kg đến 71,8 mg/kg và hàm
lượng As thấp nhất trên trái là 63,4 mg/kg ở
nghiệm thức bón vôi 2 tấn/ ha. Điều này chứng tỏ
mức độ bón vôi có ý nghĩa rất lớn trong việc làm
giảm sự hấp thu và tích lũy As cả thân và trái ớt.
Nhìn chung sự hấp thu và tích lũy As trên trái
luôn thấp hơn so với hàm lượng As trên thân cụ
thể là hàm lượng As được hấp thụ trên thân đối
với nghiệm thức không bón vôi là 128 mg/kg
trong khi trên trái chỉ 96,5 mg/kg. Tiếp theo các
nghiệm thức bón vôi thì hàm lượng As trên thân
vẫn cao hơn trên trái. Lượng vôi 0,5 tấn/ha thì
trên thân hàm lượng As là 111 mg/kg còn trên trái
là 83,1 mg/kg, lượng vôi bón 2 tấn/ha thì hàm
lượng As trên thân 96,3 mg/kg còn trên trái 71,8
mg/kg và khi lượng vôi lên đến 2 tấn/ha thì hàm
lượng As trên trái ở mức thất nhấp 87,7 mg/kg
cao hơn hàm lượng As thấp nhất trên trái 63,4
mg/kg.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 22 – 27
25
Bảng 3. Ảnh hưởng liều lượng vôi đến hàm lượng As trong thân và trái
Nghiệm thức
Hàm lượng As (mg/kg)
Thân Trái
Không bón vôi 128a 96,5a
Vôi 0,5 tấn/ha 111b 83,1b
Vôi 1 tấn/ha 96,3c 71,8c
Vôi 2 tấn/ha 87,7d 63,4d
CV (%) 3,55 5,23
F ** **
Kết quả Bảng 4 cho thấy, hàm lượng As trong đất
sau thí nghiệm giảm so với ban đầu do bị cây ớt
hấp thu. Liều lượng vôi tạo nên các mức khác biệt
có nghĩa ở mức 1% cho hàm lượng vôi trong đất
sau thí nghiệm. Trong đó thì hàm lượng As trong
đất thấp nhất là 130 mg/kg khi không bón vôi và
tăng 146 mg/kg ở liều lượng vôi 0,5 tấn/ha, tiếp
theo với liều lượng vôi là 1 tấn/ha thì hàm lượng
As là 194 mg/kg.
Cuối cùng ở liều lượng vôi là 2 tấn/ha thì hàm
lượng As trong đất sau thí nghiệm cao nhất ở mức
207 mg/kg. Điều này chứng tỏ đối với nghiệm
thức bón vôi thì hàm lượng As trong đất bị mất đi
ít hơn so với nghiệm thức không bón vôi hay nói
cách khác, việc bón vôi góp phần hạn chế sự hấp
thụ và tích lũy As trên cây trồng nói chung và cây
ớt nói riêng.
Bảng 4. Ảnh hưởng liều lượng vôi đến hàm lượng As trong đất sau thí nghiệm
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau khác nhau thì có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1%
(**) và 5% (*)
3.3 Ảnh hưởng của vôi đến khả năng sinh
trưởng của cây ớt
Kết quả Bảng 5 cho thấy, liều lượng vôi tác động
đến sinh khối và số trái/chậu. Qua từng liều lượng
vôi thì đều khác biệt ý nghĩa thống kê về sinh khối
cũng như số trái/chậu, chỉ duy nhất ở mức bón vôi
1 tấn/ha không có sự khác biệt ý nghĩa với mức độ
bón vôi 2 tấn/ha. Cụ thể ở nghiệm thức không bón
vôi thì sinh khối 47,1 và số trái/chậu trung bình
chỉ 4,3 trái, nhưng khi lượng vôi là 0,5 tấn/ha thì
sinh khối là 64,7 còn số trái/chậu trung bình là 9,3
trái. Khi lượng vôi là 1 tấn/ha thì sinh khối là 72,7
và số trái/chậu trung bình là 11 trái, sinh khối và
số trái/chậu trung bình cao nhất lần lượt là 77,6 và
14,3 với lượng vôi cung cấp là 2 tấn/ha.
Nghiệm thức Hàm lượng As trong đất (mg/kg)
Không bón vôi 130d
Vôi 0,5 tấn/ha 146c
Vôi 1 tấn/ha 194b
Vôi 2 tấn/ha 207a
CV (%) 2,88
F **
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 22 – 27
26
Bảng 5. Ảnh hưởng của liều lượng vôi đến sinh khối, số trái/chậu
Nghiệm thức Sinh khối Số trái/chậu
Không bón vôi 47,1c 4,3c
Vôi 0,5 tấn/ha 64,7b 9,3b
Vôi 1 tấn/ha 72,7a 11,0ab
Vôi 2 tấn/ha 77,6a 14,3a
CV(%) 6,35 20,5
F ** **
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau khác nhau thì có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1%
(**) và 5% (*)
Kết quả từ Bảng 6 cho thấy ở giai đoạn 30 NSG
chiều cao cây chỉ khoảng 20,9 cm khi không bón
vôi nhưng sau khi bón vôi thì chiều cao tăng lên
theo từng thời điểm và từng mức bón vôi. Cụ thể
khi bón 0,5 tấn/ha thì cây cao 25,5 cm, khi bón 1
tấn/ha thì chiều cao là 33,1 cm, khi tăng lượng vôi
lên 2 tấn/ha thì chiều cao là 39,7 tạo nên sự khác
biệt rõ rệt.
Đến giai đoạn 60 NSG, 90 NSG và thời điểm thu
hoạch thì chiều cao lên đến 84,7 cm tương ứng
với lượng vôi là 2 tấn/ha cùng với lượng vôi 0,5
tấn/ha tạo sự khác biệt so với các giai đoạn trước
và thấp nhất ở các nghiệm thức không bón vôi
(kết quả Bảng 6).
Từ giai đoạn 60 NSG đến khi thu hoạch có xu
hướng giống nhau đó là chiều cao cây đạt cao
nhất ở nghiệm thức bón vôi 2 tấn/ha, kế đến là
chiều cao cây ở nghiệm thức 1 tấn/ha và thấp nhất
là chiều cao cây ở nghiệm thức bón vôi và 0,5
tấn/ha và nghiệm thức không bón vôi. Xét về mặt
thống kê thí nghiệm thì chiều cao ở nghiệm thức
bón vôi đều tạo khác biệt với nghiệm thức không
bón vôi. Sự khác biệt này là do khi bón vôi vào
trong đất sẽ làm cho pH trong đất gia tăng ảnh
hưởng đến sự hấp thu và vận chuyển các chất
trong cây vì thế ảnh hưởng đến sinh trưởng và
phát triển của cây ớt, ở đây ảnh hưởng đến chiều
cao cây và sinh khối.
THẢO LUẬN CHUNG
Kết quả As trong đất An Phú trong đê trước thí
nghiệm là 375 mg/kg và sau khi thí nghiệm còn
lại là 130 mg/ kg ở nghiệm thức không bón vôi.
Như vậy các nghiệm thức bón vôi lượng As trong
đất cao hơn so với không bón vôi, sau thí nghiệm.
Điều này cho thấy hàm lượng As trong thân các
nghiệm thức có bón vôi thấp hơn so với nghiệm
thức không bón vôi. Kết quả thí nghiệm cũng cho
Bảng 6. Ảnh hưởng của liều lượng vôi đến chiều cao cây ớt
Nghiệm thức Chiều cao cây (cm) 30 NSG 60 NSG 90 NSG Thu hoạch
Không bón vôi 20,9d 43,1d 72,2c 73,6d
Vôi 0,5 tấn/ha 25,5c 50,8c 76,1b 77,2c
Vôi 1,0 tấn/ha 33,1b 57,2b 79,9a 81,8b
Vôi 2 tấn/ha 39,7a 64,9a 81,2a 84,7a
CV (%) 6,11 3,42 1,67 1,84
F ** ** ** **
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 22 – 27
27
thấy các nghiệm thức không bón vôi hàm lượng
As trong hạt và thân trên ớt luôn cao hơn so với
hàm As trong thân và hạt ở các nghiệm thức bón
vôi 0,5 tấn/ha, 1 tấn/ha và 2 tấn/ha. Vì vậy, việc
sử dụng vôi bón vào đất nhiễm As và nước tưới ô
nhiễm As giúp cây trồng giảm bội nhiễm độc chất
này rất đáng quan tâm. Đất thực hiện thí nghiệm
là đất An Phú trong đê có pH trung bình là pH =
5,91. Đồng thời pH đất sau thí nghiệm cho thấy ở
các nghiệm thức bón vôi (0,5 tấn/ha, 1 tấn /ha và
2 tấn/ha) đều có sự gia tăng pH đất thí nghiệm tạo
sự khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1% so với
pH đất ở các nghiệm thức không bón vôi vào
trong đất. Như vậy, bón vôi đã giúp làm gia tăng
pH đất và làm giảm sự tích lũy As trong cây ớt.
Nhiều nghiên cứu cho thấy là khả năng hút As của
cây trồng phụ thuộc rất nhiều vào độ pH của dung
dịch đất. Nếu đất quá chua hoặc quá kiềm đều làm
giảm khả năng hút As của cây trồng chẳng hạn đối
với rau và một số loài cỏ pH = 7 là tối thích cho
cây trồng hút As (theo Khan và cs., 2008). Theo
Page và cs. (1981), As chứa trong lá củ cải Thuỵ
Sĩ tăng lên từ 2 - 3,9 khi pH giảm từ 7,4 - 4,5.
Theo Anderson và Nilson (1974), khi bón thêm
vôi vào đất thì giảm sự tiêu thụ As trong cây cải
dầu do sự gia tăng pH và sự cạnh tranh giữa Ca và
As. Nghiên cứu của Chen và cs. (2000) cũng cho
rằng sự hấp thu As bởi cây trồng giảm đáng kể
bằng cách tăng độ pH của đất. Khi pH đất tăng do
bón vôi As bị kết tủa. Vì thế khi pH càng tăng thì
sự hấp thu As trên cây trồng càng giảm.
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Các kết quả nghiên cứu mẫu đất trong đê ở An
Phú cho thấy hàm lượng As trong đất đều cao. Tất
cả các mẫu đất trồng ớt trong đê tại An Phú có
hàm lượng As cao hơn đất Long Xuyên đến 3 lần.
Kết quả thí nghiệm ngoài đồng bố trí trên ruộng
nhiễm As cho thấy, hàm lượng As trong trái ớt
tưới nước giếng khoan không bón vôi luôn cao
hơn so với bón vôi lần lượt là 13,9%; 25,6% và
34,3% lần lượt ở mức độ vôi 0,5 tấn/ ha; 1 tấn/ ha
và 2,0 tấn/ha.
Bón vôi làm giảm hàm lượng As trong thân ớt so
với không bón vôi cao nhất là 31,5%. Lượng vôi
bón 2 tấn/ha giảm rõ rệt hàm lượng As trong trái
và thân ớt là cao nhất tương ứng 34,3% và 31,5%
so với không bón vôi.
Ngoài ra việc bón vôi làm tăng sinh khối, số chiều
cao, số trái/chậu do đó làm tăng năng suất của ớt.
4.2 Khuyến nghị
Điều chỉnh phù hợp lượng vôi bón cho cây trồng
ở điều kiện đồng ruộng, đặc biệt đối cây ớt để
giảm hút thu As và đạt dưới ngưỡng cho phép.
Cần nghiên cứu tác dụng hiệu quả lưu tồn của vôi
đối với giảm hút thu As.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
Andersson A. & Nilsson, K.O. (1974). Influence
of lime and soil pH on Cd availability to
plants. 3: 198 - 200.
Chen, H.M., Zheng, C.R., Tu., & Shen, Z.G.
(2000). Chemical methods
andphytoremediation of soil contaminated
with heavy metals, 41, 229 – 234.
Khan M.A., Islam, M.R., Panaullah, G. M.,
Duxbury, J.M., Jahiruddin, M. and Loeppert,
R.H. (2009). Fate of irrigation-water arsenic
in rice soils of Bangladesh. Plant and Soil,
322(1-2): 263 - 277.
Khan, S., Q., Cao, Y. M., Zheng, Y. Z., & Zhu,
Y. G. (2008). Health risks of heavy metals
in contaminated soils and food crops
irrigated with wastewater in Beijing, China,
vol. 152, no. 3, pp. 686 – 692.
Nguyễn Văn Chương & Ngô Ngọc Hưng. (2011).
Khảo sát khả năng tích lũy của thạch tín và
cadimi trong đất và hạt ngô ở huyện An Phú -
tỉnh An Giang, số 38, trang: 106 - 109.
Page A.L., Bingham F.T., & Chang, A.C. (1981).
Effect of heavy metal pollution on plants,
Vol.1 ed. epp, N.W., London, pp. 72 - 109.
Williams, P.N., Price. A.H., Raab, A., Hossain,
S.A., Feldmann, J. & Meharg, A.A. (2007).
Variation in arsenic speciation and
concentration in paddy rice related to dietary
exposure Environmental Science &
Technology, 39(15): 5531 - 5540.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giam_thieu_hut_thu_asen_trong_cay_ot_bang_bien_phap_bon_voi.pdf