Giá trị của fibroscan và một số chỉ số huyết thanh trong tiên lượng xơ gan

Nghiên cứu nhằm xác định vai trò của FibroScan (FS), tiểu cầu (TC), tỷ lệ AST/ALT, APRI, FIB4 trong đánh giá xơ hóa gan. 59 bệnh nhân bệnh gan mạn (50 viêm gan mạn, 9 xơ gan) có sinh thiết gan được đưa vào nghiên cứu từ 1/2007 đến 1/2008. Đánh giá mức độ xơ hóa theo Metavir: xơ hóa có ý nghĩa - F2,3, xơ gan - F4. AUROC của từng chỉ số được thiết lập. Nghiên cứu chúng tôi có 32,2% - F0, 27,11% - F1, 20,33% - F2; 22,03% - F3; 15,25% F4. Có mối liên quan chặt chẽ giữa mức độ xơ hóa với FS (r = 0,608) và TC (r = - 0,408), APRI (r = 0,55), FIB4 (r = 0,36). AUROC của FS cao hơn các xét nghiệm khác trong đánh giá xơ hóa > F2 và xơ gan - F4. Ở các bệnh nhân có bệnh gan mạn tính, chẩn đoán xơ hóa > F2 của FS, AST/ALT, TC, APRI, FIB4 với Se 76,92; 46,5; 51%; Sp 92,11; 74,3; 53,1%; chẩn đoán xơ gan với Se 100; 72,6; 65,3%; Sp 55,6; 43,2; 42,2%. Các thăm dò không xâm nhập có giá trị đánh giá mức độ xơ hóa tuy nhiên FibroScan là xét nghiệm được ưu tiên khi đánh giá xơ hóa gan.

pdf7 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của fibroscan và một số chỉ số huyết thanh trong tiên lượng xơ gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 83 (3) - 2013 45 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC GIÁ TRỊ CỦA FIBROSCAN VÀ MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT THANH TRONG TIÊN LƯỢNG XƠ GAN Đào Nguyên Khải1, Trần Ngọc Ánh2 1Bệnh viện Đa khoa Tam Nông, Phú Thọ; 2Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu nhằm xác định vai trò của FibroScan (FS), tiểu cầu (TC), tỷ lệ AST/ALT, APRI, FIB4 trong đánh giá xơ hóa gan. 59 bệnh nhân bệnh gan mạn (50 viêm gan mạn, 9 xơ gan) có sinh thiết gan được đưa vào nghiên cứu từ 1/2007 đến 1/2008. Đánh giá mức độ xơ hóa theo Metavir: xơ hóa có ý nghĩa - F2,3, xơ gan - F4. AUROC của từng chỉ số được thiết lập. Nghiên cứu chúng tôi có 32,2% - F0, 27,11% - F1, 20,33% - F2; 22,03% - F3; 15,25% F4. Có mối liên quan chặt chẽ giữa mức độ xơ hóa với FS (r = 0,608) và TC (r = - 0,408), APRI (r = 0,55), FIB4 (r = 0,36). AUROC của FS cao hơn các xét nghiệm khác trong đánh giá xơ hóa > F2 và xơ gan - F4. Ở các bệnh nhân có bệnh gan mạn tính, chẩn đoán xơ hóa > F2 của FS, AST/ALT, TC, APRI, FIB4 với Se 76,92; 46,5; 51%; Sp 92,11; 74,3; 53,1%; chẩn đoán xơ gan với Se 100; 72,6; 65,3%; Sp 55,6; 43,2; 42,2%. Các thăm dò không xâm nhập có giá trị đánh giá mức độ xơ hóa tuy nhiên FibroScan là xét nghiệm được ưu tiên khi đánh giá xơ hóa gan. Từ khóa: test không xâm nhập, xơ hoá gan, AUROC Địa chỉ liên hệ: Trần Ngọc Ánh, bộ môn Nội tổng hợp, trường Đại học Y Hà Nội Email: anhtn69@yahoo.com Ngày nhận: 08/01/2013 Ngày được chấp thuận: 20/6/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Xơ hóa gan là hiện tượng mất đi tế bào gan, phá hủy vi cấu trúc gan thay thế bởi các tiểu thùy tân tạo và tăng sinh tổ chức xơ toàn bộ gan. Hậu quả cuối cùng của xơ hóa gan chính là xơ gan với rất nhiều biến chứng – bệnh não gan, ung thư gan, tăng áp lực tĩnh mạch cửa, hội chứng gan thận và tỷ lệ tử vong rất cao. Bệnh cảnh lâm sàng cuả xơ gan tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển và mức độ diễn biến. Ngay cả khi bệnh nhân có xơ gan nhưng ở giai đoạn đầu của bệnh thường không có triệu chứng do gan có khả năng hoạt động bù trừ và tái tạo rất mạnh nên bệnh ở giai đoạn tiềm tàng lâu và khó phát hiện. Còn khi triệu chứng lâm sàng đã rõ thì bệnh đã ở vào giai đoạn nặng, chức năng sinh lý của gan bị hư hại hoàn toàn. Do tính chất phức tạp của bệnh, việc chẩn đoán sớm gặp nhiều khó khăn và sinh thiết gan được coi như là phương pháp chẩn đoán sớm. Tuy là tiêu chuẩn vàng, nhưng mảnh sinh thiết gan đạt chuẩn > 2,5 cm với 11 khoảng cửa quan sát được theo Bedossa cũng chỉ đại diện được 1/50.000 tổ chức gan trong khi đó sự đảo lộn cấu trúc gan và xơ hóa lan tỏa gan lại phân bố không thuần nhất. Theo Regev, sự khác nhau ở gan về mức độ xơ hóa giữa bên trong và bên ngoài là 10 - 20%. Colloredo nhận thấy chiều dài mẫu sinh thiết càng ngắn thì tỷ lệ xơ hóa nhẹ càng tăng vì vậy kích thước mẫu sinh thiết ảnh hưởng rất lớn đến mô bệnh học [5]. Chính vì vậy, đã có hàng loạt các phương pháp không xâm nhập ra đời nhằm đánh giá mức độ của sự xơ hóa gan. Các phương pháp không xâm nhập có thể chia thành 2 nhóm lớn: nhóm các test huyết thanh - phối hợp các dấu ấn trực tiếp và gián tiếp có trong 46 TCNCYH 83 (3) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC máu để đánh giá xơ hóa và nhóm đánh giá độ cứng của gan, FibroScan. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi của FibroScan, tỷ lệ AST/ALT, tiểu cầu, APRI, FIB4 ở bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính và giá trị của các chỉ số này trong đánh giá tình trạng xơ hóa gan. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng 1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân Trong thời gian từ năm 2007 - 2008 có 59 bệnh nhân bệnh gan mạn do viêm gan B, C, rượu (50 ca viêm gan mạn, 9 ca xơ gan) có chẩn đoán xác định qua mô bệnh học, điều trị nội trú hoặc ngoại trú tại khoa Tiêu hóa, khoa Khám chữa bệnh theo yêu cầu bệnh viện Bạch Mai và khoa Nội tổng hợp, bệnh viện Đại học Y Hà Nội, được đưa vào nghiên cứu. 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân béo phì, có cổ trướng hay không hợp tác khi làm FS. Xuất huyết tiêu hóa mới xảy ra, mới dùng rượu hoặc thuốc ảnh hưởng tới tuỷ xương, số lượng, chức năng của tiểu cầu, truyền máu hay sản phẩm của máu dưới 2 tuần, đái tháo đường, lupus ban đỏ hệ thống. Mảnh sinh thiết không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán mô bệnh học. 2. Phương pháp: tiến cứu. Tất cả những bệnh nhân được hỏi bệnh, thăm khám và làm xét nghiệm theo mẫu bệnh án thống nhất. Xét nghiệm huyết học và sinh hóa máu được làm tại bệnh viện Bạch Mai. Sinh thiết gan qua da bằng súng ProMag hoặc sinh thiết gan mù bằng kim Menghini. Mảnh sinh thiết tối thiểu phải đủ dài 1,5cm để đảm bảo lấy được ít nhất 4 khoảng cửa, tiến hành đọc tại bộ môn Giải phẫu bệnh, trường Đại học Y Hà Nội. Thang điểm Metavir đánh giá giai đoạn xơ hóa: F0 - không xơ hóa, F1 - xơ hóa khoảng cửa, không vách ngăn, F2 - xơ hóa khoảng cửa, có vài vách ngăn mở rộng tới tiểu thùy, F3 - xơ hóa khoảng cửa có nhiều vách ngăn không xơ gan, F4 - xơ gan. Đánh giá độ cứng của gan - FibroScan được tiến hành tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu bệnh viện Bạch Mai. Các chỉ số sử dụng trong nghiên cứu: Số lượng tiểu cầu, tỷ lệ AST/ALT (UI/l) APRI = AST x 100/AST (người bình thường)/TC(109/L), FIB4 = tuổi x [AST/TC(109/l) x Các số liệu được tính toán theo phần mềm Liver Calc Version 1.5 của hội tiêu hóa Hồng Kông. 3. Xử lý số liệu Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0 và phần mềm thống kê y học Medcalc 9.6.2.0. 4. Đạo đức nghiên cứu: Các đối tượng tự nguyện tham gia nghiên cứu và có quyền rút khỏi nghiên cứu bất kỳ thời điểm nào. Thông tin cá nhân được giữ bí mật và sử dụng cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ Trong thời gian 2 năm 2007 - 2008, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số không xâm nhập trên 59 bệnh nhân bệnh gan mạn tính do viêm gan B, C, rượu (50 viêm gan mạn, 9 xơ gan) có sinh thiết gan. Chúng tôi nhận thấy: với mức độ xơ hóa, tiểu cầu có mối tương quan nghịch r = - 0,406. Giá trị trung bình của tiểu cầu ở nhóm xơ hóa có ý nghĩa > F2 là 164,4 ± 121,8G/L, nhóm xơ gan là 144 ± 107,87G/L. Tỷ lệ AST/ALT không có mối liên quan với mức độ xơ hóa, AST/ALT ở bệnh nhân viêm gan mạn xơ hóa có ý nghĩa > F2 là 0,94 ± 0,45, ở bệnh nhân xơ gan là 0,73 ± 0,39 với AUROC: 0,49; 0,57. )ALT(UI/l TCNCYH 83 (3) - 2013 47 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 1. Giá trị của chỉ số FibroScan với mỗi mức độ xơ hóa Giai đoạn xơ hóa càng tăng thì độ cứng của gan càng cao với hệ số tương quan r = 0,628. Giá trị trung bình của FibroScan ở nhóm F0 là 10,53 ± 6,93 kPa; F1 là 12,90 ± 6,87 kPa; F2 là 15,77 ± 6,04 kPa; F3 là 18,67 ± 6,02 kPa; ở bệnh nhân viêm gan mạn xơ hóa có ý nghĩa > F2 là 23,34 ± 6,54 kPa; thấp hơn ở bệnh nhân xơ gan là 34,67 ± 6,02 kPa Biểu đồ 2. Giá trị của chỉ số APRI với mỗi mức độ xơ hóa APRI có mối tương quan thuận với mức độ xơ hóa với r = 0,55. Giá trị APRI ở nhóm F0 là 1,02 ± 0,57, F1 là 1,49 ± 0,85; F2 là 1,42 ± 0,77; F3 là 2,3 ± 1,13; ở bệnh nhân viêm gan mạn có xơ hóa > F2 là 1,75 ± 0,68; ở bệnh nhân xơ gan là 1,62 ± 0,87. Biểu đồ 3. Giá trị của chỉ số FIB4 với mỗi mức độ xơ hóa FIB4 có tương quan thuận với giai đoạn xơ hóa với r = 0,36. Giá trị FIB4 ở nhóm F0: 1,15 ± 0,85; F1 là 2,09 ± 1,21, F2 là 2,56 ± 1,75; F3 là 4,02 ± 3,1; ở bệnh nhân viêm gan mạn xơ hóa có ý nghĩa > F2 là 2,1 ± 1,24, thấp hơn ở bệnh nhân xơ gan là 4,74 ± 2,77. 48 TCNCYH 83 (3) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 1. Ngưỡng cắt và giá trị của FS, TC, AST/ALT, APRI, FIB4 trong chẩn đoán xơ hóa gan Chỉ số Cut off AUROC Se Sp PPV NPV > F2 APRI > 1,7 0,81 46,5 74,3 55,1 67,4 FIB4 < 2,5 0,72 51,0 53,1 40,6 63,3 FibroScan 14,1 0.868 76.92 92.11 76.9 92.1 F4 TC < 149 0,71 30,8 78,6 23,2 83,9 APRI > 0,7 0,8 72,6 43,2 16,6 90,1 FIB4 > 3,3 0,78 65,3 42,2 15,3 87,3 FibroScan 18,5 0,917 100 55,6 20 100 FibroScan có giá trị chẩn đoán xơ gan tốt nhất với ngưỡng cắt là 18,5, AUROC = 0,910 và chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa > F2 là 14,1 với AUROC = 0,868. Chỉ số TC với ngưỡng cắt 149 có giá trị trong chẩn đoán xơ gan với AUROC = 0,71. Với ngưỡng cắt APRI là 1,7 cho phép loại trừ không có xơ hóa có ý nghĩa trong 67,4% (AUROC = 0,81). Trong chẩn đoán xơ gan APRI cũng đạt AUROC = 0,84 và cho phép loại trừ xơ gan ở 90,1% các trường hợp. FIB4 với AUROC = 0,76, ngưỡng cắt là 2,5, trong chẩn đoán > F2 cho phép loại trừ xơ hóa có ý nghĩa ở 87,3% các trường hợp, với ngưỡng cắt là 3,3 cho phép chẩn đoán xơ gan với AUROC = 0,78. IV. BÀN LUẬN Các giai đoạn xơ gan là vấn đề quan trọng liên quan đến chỉ định điều trị, phương pháp điều trị cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ tử vong do các biến chứng của bệnh gan giai đoạn cuối như xơ gan, ung thư gan. Sinh thiêt gan được khuyến cáo nên thực hiện trước khi bắt đầu sử dụng phương pháp dùng thuốc chống virut và tiến hành nhiều lần để theo dõi quá trình tiến triển của sự xơ hóa. Tuy nhiên đây là phương pháp xâm nhập và dù có ít biến chứng nhưng vẫn gây tâm lý e ngại cho bệnh nhân, khó có thể áp dụng nhiều lần. Thay thế sinh thiết gan bằng phương pháp không xâm nhập đặc biệt hữu ích cho cả khi mới bắt đầu đánh giá bệnh nhân và sau đó là công cụ theo dõi để đánh giá đáp ứng điều trị. Nghiên cứu đã tiến hành sinh thiết gan ở 50 bệnh nhân viêm gan mạn 32,2% F0: 27,11% F1: 20,33% F2: 22,03% F3 và nhận thấy: Giai đoạn xơ hóa càng tăng thì độ cứng của gan càng tăng và hệ số tương quan giữa độ cứng của gan và giai đoạn xơ hóa là r = 0,638. Mueller, Lee, Kim cũng cho kết quả tương tự với chúng tôi: độ cứng của gan và giai đoạn xơ hóa tỷ lệ thuận với r lần lượt là 0,62; 0,69; 0,7 [2]. Tiểu cầu có mối tương quan nghịch với r = - 0,406, APRI, FIB4 có tương quan thuận với mức độ xơ hóa gan với r lần lượt là 0,55; 0,36. Nghiên cứu của Mum- madi có kết quả ngược lại: APRI, FIB4 và mức độ xơ hóa có tương quan với r = 0,39, 0,31, nhưng tác giả lại không nhận thấy có mối tương quan giữa mức độ xơ hóa và tiểu cầu [8]. Sirli có nhận xét tương tự chúng tôi, tiểu cầu có tương quan nghịch với mức độ xơ TCNCYH 83 (3) - 2013 49 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC hóa r = -0,48, APRI và FIB4 có mối tương quan thuận với r = 0,57 và 0,42 [9]. Về ngưỡng cắt chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa: Ngưỡng chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa > F2 của FS là 14,1. Kết quả của chúng tôi cao hơn rất nhiều so với Ogawa, Foucher, Castera (9,1; 7,2; 7,1) [2, 3]. Sirli với 150 bệnh nhân viêm gan C mạn đưa ra cut - off chẩn đoán xơ hóa > F2 của tiểu cầu là 176, APRI là 0,52, FIB4 là 2,14 [9]. Bornard nhận xét với FIB4, APRI đơn độc việc đánh giá xơ hóa có ý nghĩa ít có giá trị hơn trong chẩn đoán xơ gan [1]. Chúng tôi nhận thấy, FibroScan có giá trị nhất trong chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa so với các test huyết thanh với AUROC lần lượt là 0,868; 0,81; 0,72. Với 59 bệnh nhân viêm gan mạn tính có sinh thiết gan, chúng tôi chỉ đạt được 15,25% ca F4. Ngưỡng cắt chẩn đoán xơ gan của FibroScan là 18,6; tiểu cầu là 149, APRI 0,7, FIB4 3,3 với AUROC lần lượt là 0,910; 0,71; 0,8; 0,78. Ngưỡng cắt FibroScan chẩn đoán xơ gan của chúng tôi cao hơn nhiều so với các tác giả khác. Foucher, Castera, Brunetto, Ziol công bố ngưỡng cắt chẩn đoán xơ gan là 17,6; 12,5; 14; 14,6 [2]. Chính vì vậy, các tác giả châu Âu thường lấy tiêu chuẩn chẩn đoán xơ gan là FS > 14. Điều này có thể giải thích số bệnh nhân đạt F4 của chúng tôi ít hơn so với các nghiên cứu khác nên tỷ lệ chẩn đoán đúng còn chưa cao, hơn nữa các nghiên cứu của các tác giả trên bệnh nhân viêm gan C mà tốc độ xơ hóa của gan phụ thuộc rất nhiều phản ứng của vật chủ với virut viêm gan B, hay viêm gan C. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ AST/ALT không có giá trị trong chẩn đoán xơ hóa gan và xơ gan. Kết quả của chúng tôi đều cho ngưỡng cắt của các chỉ số đánh giá xơ hóa trong chẩn đoán xơ gan cao hơn nhưng AUROC của APRI, FIB4 thấp hơn so với các tác giả trên thế giới [1; 2; 4; 6]. Chúng tôi thống nhất với nhận định của Lin, Zhu, Mahassadi và Guzbelbulut cho rằng trong thực hành lâm sang, tiểu cầu, APRI, FIB4 là một xét nghiệm đáng tin cậy cho phép loại trừ xơ gan [2; 3; 4]. Sirli đưa ra cut - off chẩn đoán xơ gan của tiểu cầu là 155, APRI là 1,38, FIB4 là 2,31 với AUROC lần lượt là 0,899; 0,909; 0,842 với giá trị dự báo âm tính > 95%. Điều này giúp ích nhiều trong lâm sàng, khi tiểu cầu, APRI, FIB4 trên ngưỡng sẽ có tác dụng loại trừ xơ gan hơn 95% [9]. Bon- nard có nhận định ngược lại: các chỉ số này còn chưa phải là một xét nghiệm đáng tin cậy trong loại trừ xơ gan [1]. Nghiên cứu của Ma- hassadi năm 2010 trên 117 ca viêm gan B mạn tính với 18 F4 cho kết quả thấp hơn chúng tôi với ngưỡng cắt của APRI > 0,63 và FIB4 > 1,26 cho phép loại trừ xơ gan với Se 94,4%, Sp 88,9%. Tác giả còn nhận thấy với ngưỡng cắt này, giá trị dự báo âm tính của APRI là 98,1% và FIB4 là 96,3%. Ngưỡng cắt của tiểu cầu là < 139 với giá trị dự báo âm tính lên đến 91,5% [7]. Guzelbulut nhận thấy với APRI < 1 loại trừ xơ gan trong 85,1% các trường hợp, APRI > 2 dự báo xơ gan ở 81,5%; FIB4 < 1,45 loại trừ xơ gan ở 91,9% và FIB4 > 3,3 dự báo xơ gan ở 81,5% [6]. So sánh giữa FibroScan và các test huyết thanh, các nghiên cứu đều cho thấy FibroScan có ưu thế hơn các test huyết thanh trong chẩn đoán xơ gan, tuy nhiên với chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa > F2 các nghiên cứu lại không thống nhất [4; 5; 9]. Kết quả của chúng tôi cũng cho thấy FS có giá trị chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa và xơ gan cao hơn so với các test huyết thanh. Ngưỡng cắt và AUROC của FibroScan, tiểu cầu, APRI, FIB4 trong chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa và xơ gan ở các nghiên cứu không thống nhất do nhiều lý do: đối tượng nghiên cứu có mức độ xơ hóa khác nhau, viêm gan B 50 TCNCYH 83 (3) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC hay viêm gan C sẽ có tốc độ xơ hóa khác nhau. Nghiên cứu của chúng tôi hầu hết là do rượu và viêm gan B, trong khi đó theo các tác giả trên thế giới chủ yếu là viêm gan C, APRI và FIB4 còn phụ thuộc vào chỉ số men gan, Cholesterol máu, chủng tộc (giới hạn cao của ALT) và các máy xét nghiệm được sử dụng trong các nghiên cứu cũng khác nhau vì vậy khó để tạo nên sự đồng nhất trong kết quả. Các test không xâm nhập trong đánh giá xơ hóa gan được phát triển rộng rãi trong vài thập kỷ gần đây. Đơn giản và dễ áp dụng chính là các test dựa vào các xét nghiệm thường quy như tiểu cầu, APRI, FIB4, FORNS, SHATA, WAI, LOG. Tuy nhiên, các tác giả đều thống nhất rằng nếu chỉ sử dụng một test huyết thanh đơn độc chỉ tránh được 30% số sinh thiết gan phải làm [4; 5]. Hơn nữa AUROC của các test huyết thanh để xác định xơ hóa có ý nghĩa hay xơ gan chưa được cao, nó phụ thuộc nhiều vào các dấu ấn thành phần nên việc đánh giá phát hiện sớm giai đoạn xơ hóa còn thấp. Điều này cho thấy trong thực tế lâm sang, 1 test huyết thanh không thể thay thế được sinh thiết gan mà cần sự phối hợp của nhiều xét nghiệm để quyết định điều trị, tránh những sinh thiết gan không cần thiết.. Phần lớn các nghiên cứu đều cho rằng FibroScan có giá trị hơn các test huyết thanh tiểu cầu, APRI, FIB4 trong chẩn đoán xơ hóa có ý nghĩa hay xơ gan. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng FibroScan có những hạn chế nhất định: không chính xác ở bệnh nhân có BMI > 28, bệnh nhân có cổ trướng và bệnh nhân không hợp tác. Mặt khác giá trị của FibroScan còn chịu ảnh hưởng của sự hủy hoại tế bào gan (viêm gan cấp hay đợt tiến triển của viêm gan mạn) làm đánh giá quá giai đoạn xơ hóa. Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay chưa có một phương pháp không xâm nhập đánh giá xơ hóa gan nào có thể thay thế hoàn toàn sinh thiết gan. Tuy nhiên, ưu thê của các test không xâm nhập đã được các nghiên cứu công nhận. Xu hướng trên thế giới hiện nay là phối hợp nhiều test không xâm nhập để hạn chế các sinh thiết gan trong trường hợp nghi ngờ. Leroy, Sebastiani (2007) đã công bố sự kết hợp này có thể tránh được 80% các sinh thiết gan không cần thiết. Ở Việt Nam, FibroScan còn chưa được bảo hiểm y tế chi trả thì tiểu cầu, APRI, FIB4 là một trong những chỉ số đáng tin cậy dựa vào các xét nghiệm cơ bản để đánh giá xơ hóa gan và xơ gan, nên tiến hành trước khi điều trị cũng như theo dõi điều trị viêm gan mạn ở những nơi không có điều kiện làm FibroScan V. KẾT LUẬN Các test không xâm nhập có giá trị trong đánh giá xơ hóa gan (với AUROC > 0,7) và theo dõi quá trình tiến triển xơ hóa. FibroScan tỏ ra ưu việt hơn tiểu cầu, APRI, FIB4 trong đánh giá xơ hóa có ý nghĩa và xơ gan. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bonard P., Samble R., Lescure FX et al (2010). Comparison of Elastography, serum marker scores and histology for the assessment of liver fibrosis in hepatitis B virut infected patients in Burkina Fasso. Am J Trop Med Hyg, 22(3), 454 - 457. 2.Castera L., Forns X., Alberti et al (2008). Non invasive evaluation of liver fibrosis using transient elastography. Journal of Hepa- tology; 48, 835 - 847. 3. Foucher J., Chanteloup E., Vergniol J et al (2006). Diagnosis of cirrhosis by transient elastography (FibroScan): a prospective study. Gut, 55, 403 - 408. 4. Fujiwara S., Hongou Y., Miyaji et al (2007). Relationship between liver fibrosis non TCNCYH 83 (3) - 2013 51 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC invasively measured by FibroScan and Blood test. Bulletin of the Osaka Medical College, 53(2), 93 - 105. 5. Grunhage F., Lamert F (2012). Assess- ment of hepatic fibrosis in chronic viral hepati- tis. Hepatology. Clinical Textbook. 6. Guzelbulut F., Cetinkava ZA., Seziki M et al (2011). AST-Platelet ratio index, Forns index and FIB 4 in the prediction of significant fibrosis and cirrhosis in patients with chronic hepatitis C. Turk J Gastroenterol, 22(3), 279 - 285. 7. Mahassadi AK., Attia AK., Bathaix AMY et al (2010). Diagnostic accuracy of bio- chemical markers of fibrosis in black african patients with chronic hepatitis B. Health, 2(12), 1413 - 1420. 8. Mummadi RR., Peterson RJ., Xiao SY et al (2010). Role of simple biomarkers in pre- dicting fibrosis progression in HCV infection. World J Gastroenterol. (16), 45, 5710 - 5715. 9. Sirli R., Sporea I., Bota S et al (2011). A comparative study of non invasive methods for fibrose assessment in chronic HCV infection. Journal of Hepatitis monthly. Online submission. Summary VALIDATION OF FIBROSCAN, SERUM MARKER FOR PREDICTING LIVER FIBROSIS AND CIRRHOSIS The aim of our study was to evaluate the diagnostic accuracy of FibroScan, platelet, AST/ALT ratio, APRI, FIB4 for the assesment of hepatic fibrosis by comparison with liver biopsy. Fifty nine patients were included in this study. Liver biopsy with histological evaluation (according to the Metavir staging system) and FibroScan, Platelet, AST/ALT ratio, APRI, FIB4 were assessed in all patients. Significant fibrosis was defined as F2 - 4 and cirrhosis as F4 AUROC were developed. The results showed that on the histological ground there are 32.2% F0, 27.11%F1, 20.33%F2, 22.03% F3 and 15.25% F4. There was a significant correlation between change in stage of fibrosis and change of FibroScan (r = 0.638), Platelet (r = -0,408), APRI (r = 0.55) and a change of FIB4 (r = 0.36) except AAR. AUROC of FS was higher than other index for differentiating minimal fibrosis from significant fibrosis and cirrhosis. In chronic liver disease, significant fibrosis can be identified using FS,APRI,FIB4 with Se 76.92; 46.5; 51% and Sp 92.11; 74.3; 53.1% while cirrho- sis can be identified with Se 100; 72.6; 65.3% and Sp 55.6; 43.2; 42.2%. In conclusion, all methods used for prediction of liver fibrosis were directly, and significantly, correlated with histological finding but FS was used as a first line t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgia_tri_cua_fibroscan_va_mot_so_chi_so_huyet_thanh_trong_tie.pdf