Nghiên cứu này cung cấp cho các cấp quản lí
trong lĩnh vực thủy sản những thông tin hữu ích để
phục vụ trong công tác quản lí nguồn lợi, đặc biệt là
nguồn lợi ven bờ đang bị khai thác quá mức. Các
kiến nghị cho các cấp quản lí là: (1) Cần phải phát
triển các ngành phụ cận như nuôi trồng thủy sản,
nông nghiệp, du lịch cho các ngư dân ốn định cuộc
sống giúp cho ngư dân không phụ thuộc hoàn toàn
vào nghề khai thác thủy sản ven bờ; (2) Quản lí số
lượng tàu có quy mô nhỏ đánh bắt ven bờ, có các
chính sách phát triển ngành đánh bắt xa bờ để giảm
áp lực cho nguồn lợi ven bờ; (3) Tạo ra nhiều hơn
các khu bảo tồn biển để đảm bảo sự phát triển bền
vững của nguồn lợi và nghề khai thác thủy sản ở
Nha Trang nói riêng và trên cả nước nói chung.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường năng lực dư thừa và việc sử dụng các yếu tố đầu vào của tàu lưới kéo qui mô nhỏ ở hai khu vực Vĩnh Trường và Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
ĐO LƯỜNG NĂNG LỰC DƯ THỪA VÀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ
ĐẦU VÀO CỦA TÀU LƯỚI KÉO QUI MÔ NHỎ Ở HAI KHU VỰC
VĨNH TRƯỜNG VÀ VĨNH LƯƠNG, THÀNH PHỐ NHA TRANG
MEASURING EXCESS CAPACITY AND VARIABLE INPUT UTILIZATION
OF SMALL-SCALE TRAWLERS IN VINH TRUONG AND VINH LUONG,
NHA TRANG CITY
Tăng Thị Hiền1, Đặng Hoàng Xuân Huy2
Ngày nhận bài: 04/5/2013; Ngày phản biện thông qua: 07/5/2014; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014
TÓM TẮT
Nghiên cứu đo lường năng lực dư thừa và việc sử dụng các yếu tố đầu vào của từng tàu lưới kéo quy mô nhỏ tại thành
phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa dựa trên phương pháp màng bao dữ liệu (DEA). Kết quả điều tra trên 65 tàu ở 2 khu vực
Vĩnh Trường và Vĩnh Lương trong 2 năm 2005 và 2006 cho thấy, hầu hết các tàu đã sử dụng các yếu tố đầu vào một cách
tối ưu, tuy nhiên năng lực dư thừa (tính theo doanh thu) trung bình của mỗi tàu là 60,46% (2005) và 51,60% (2006). Điều
này cho thấy nguồn lực ven bờ ở Nha Trang đang bị khai thác quá mức. Mặt khác, kết quả nghiên cứu này cũng chứng minh
rằng các khu bảo tồn biển đã phát huy tác dụng trong việc bảo tồn và duy trì các loài cá đang có nguy cơ bị đánh bắt cạn
kiệt và góp phần tạo ra một nguồn lợi phong phú, mang lại giá trị cao trong việc đánh bắt thủy sản ở Nha Trang. Điều này
cho thấy, các cấp quản lý cần phải có nhiều biện pháp hơn nữa để duy trì và quản lý có hiệu quả các khu bảo tồn cũng như
việc đánh bắt các nguồn tài nguyên từ biển.
Từ khóa: năng lực, năng lực dư thừa, hiệu quả kĩ thuật, Nha Trang
ABSTRACT
The study measured the excess capacity and the use of inputs piers small trawl in Nha Trang City, Khanh Hoa
Provinc based on a mathematical programming approach - data envelopment analysis (DEA). The result from 65 vessels
in two areas Vinh Trương and Vinh Lương in 2005 and 2006 showed most of vessels used inputs fully, but excess capacity
(calculated by revenue) on average of each vessel was 60,46% (2005) and 51,60% (2006). This showed that the coastal
water resources were over exploited. On the other hand, this study demonstrated that the marine protected areas (MPAs)
were effective in preserving and maintaining the fi sh species that are at risk of over fi shing and contribute to creating
abundant resource, that bring high-value in the fi shing in some areas in Nha Trang. This showed that the managements
should have more policies to maintain and manage effectively the MPAs as well as the fi shing from the sea.
Keywords: capacity, excess capacity, technical effi ciency, Nha Trang
1 ThS. Tăng Thị Hiền, 2 ThS. Đặng Hoàng Xuân Huy: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năng lực và năng lực sử dụng (CU) thường
được coi là lý do chính cho việc khai thác quá mức
thủy sản trên toàn thế giới [4]. Chúng ta biết rằng
một nghề cá khai thác một cách tự do, năng lực
hoặc công suất sẽ cao hơn sản lượng kinh tế tối đa
(maximum economic yield - MEY) - mức sản lượng
mang lại lợi ích tối đa cho chủ tàu và xã hội. Do đó,
chỉ ra lợi ích của việc giảm công suất cho cộng đồng
ngư dân trở nên rất quan trọng. Trong ngành công
nghiệp sử dụng các tài nguyên dùng chung như
không khí, nước, nguồn lợi cá, “sự tranh giành sản
xuất” dẫn đến sự đầu tư quá mức của các đơn vị, cá
nhân. Sự đầu tư quá mức này là nguyên nhân đẫn
đến sự dư thừa năng lực sản xuất - sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với sự phát triển bền vững của
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Năng lực đánh bắt, hiệu quả kỹ thuật và năng
lực dư thừa
Theo FAO (1998): “năng lực đánh bắt là mức
sản lượng lớn nhất có thể đánh bắt được trong một
đơn vị thời gian của một tàu hay một đội tàu với trữ
lượng vốn đầu tư, các quy định, công nghệ đánh bắt
và tình trạng nguồn lợi cho trước”. Năng lực sử dụng
(CU) là “tỷ số giữa sản lượng quan sát thực tế (Y1)
với mức sản lượng lớn nhất có thể (YC). (CU = Y/YC)”.
CU <1 thể hiện sự lãng phí năng lực đánh bắt và
cũng cho thấy tỉ lệ mà trữ lượng vốn đầu tư có thể
cắt giảm mà có thể giữ sản lượng như cũ. Theo
định nghĩa trên Fare, Grosskopf and Kokkenlenberg
(1989) chỉ ra rằng sự khác biệt giữa sản lượng quan
sát và sản lượng lớn nhất có thể đạt được là do 2
nguyên nhân (i) sự phi hiệu quả về mặt kĩ thuật do
kĩ năng đánh bắt thấp và (ii) việc sử dụng yếu tố đầu
vào biến đổi ở mức thấp, do đó dẫn đến cường độ
sử dụng yếu tố cố định thấp. Như vậy, nếu tàu đang
ở trạng thái phi hiệu quả về mặt kĩ thuật thì chúng ta
có thể gia tăng sản lượng đánh bắt bằng cách gia
tăng kĩ thuật đánh bắt mà không cần sử dụng thêm
các yếu tố đầu vào [3].
Hiệu quả kĩ thuật (TE) là khả năng một doanh
nghiệp có thể đạt được mức đầu ra tối ưu với chi
đầu vào cho trước hoặc đầu vào tối thiểu khi sản
xuất một số lượng đầu ra nhất định với công nghệ
sản xuất sẵn có. TE trong nghiên cứu này được đo
lường dựa trên việc đo lường số lượng đầu ra tối
ưu, đó là sản lượng đánh bắt tối đa mà các tàu có
thể đạt được mà không cần thay đổi số lượng đầu
vào sử dụng.
Năng lực dư thừa được tính cho mỗi tàu dựa
trên năng lực và hiệu quả kỹ thuật đầu ra - được tính
toán bằng cách sử dụng hệ số ước tính thu được từ
kết quả DEA. Năng lực dư thừa bằng năng lực đánh
bắt trừ đầu ra quan sát và năng lực dư thừa dựa
trên TE được tính bằng mức doanh thu đạt hiệu quả
kỹ thuật trừ doanh thu thực tế.
2. Đo lường năng lực và CU
2.1. Các phương pháp đo lường năng lực và CU
Đo lường năng lực và năng lực sử dụng thường
được tiếp cận theo 3 cách sau:
(1) phương pháp phân tích đỉnh tới đỉnh (peak -
to - peak) của Klein (1960) [7]. Theo phương pháp này
1 Hàm sản xuất trong đánh bắt Y = Y(E, S). Y là sản lượng đánh bắt, S là trữ lượng nguồn lợi, E cường lực đánh bắt. E là
hàm số của K-trữ lượng vốn (máy, ngư cụ, tàu) và V-chi phí biến đổi (số ngày hoạt động trên biển). Do đó Y = Y (K,V,S)
(FAO, 1998).
các ngành. Trong nghề cá khai thác mở (open-access),
Warming (1913) đã cảnh báo viễn cảnh nhiều nghề
cá rơi vào tình trạng đầu tư quá mức sẽ dẫn đến dư
thừa năng lực [14]. Nhiều nguồn lợi thủy sản hiện
đang bị khai thác quá mức và trở nên ngày càng suy
kiệt bởi số lượng tàu thuyền đánh bắt quá lớn [5].
Trước vấn đề này, tại cuộc họp của FAO năm 1995
đã nhận thức rằng sự dư thừa năng lực đánh bắt
là trở ngại chính để thực hiện khai thác nguồn lợi
thủy sản bền vững. Để loại bỏ sự dư thừa năng lực
khai thác, chúng ta phải đo lường năng lực và việc
sử dụng năng lực (CU) đánh bắt. Trước đây, để đo
lường năng lực của mỗi nghề cá thường dựa trên
số tàu đánh bắt cho phép trong nghề đó, điều này
dẫn đến một vấn đề là các ngư dân đầu tư thêm
trang thiết bị đánh bắt, phương tiện dò tìm cá hiện
đại hay trang bị máy có công suất cao hơn để tăng
năng lực đánh bắt.
Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa là nơi
có bờ biển dài và có nghề đánh bắt thủy sản phát
triển mạnh mẽ. Các tàu lưới kéo ở khu vực này
chiếm tỷ trọng lớn với 725 trong tổng số 2648 tàu
(chiếm 27%) (năm 2005) [11]. Tuy nhiên hoạt động
đánh bắt của các tàu này chưa được đánh giá một
cách đầy đủ về hiệu quả đánh bắt cũng như việc
sử các yếu tố đầu vào. Nghiên cứu này sử dụng
phương pháp DEA, để tính năng lực đầu ra của mỗi
tàu lưới kéo ở 2 khu vực phường Vĩnh Trường và
Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang. Thông qua việc
đo lường năng lực và năng lực dư thừa ở 2 khu vực
này, chúng ta có thể mong đợi rằng ngư dân trong
nghề cá khai thác mở có thể đánh giá xem liệu năng
lực đánh bắt của họ là hiệu quả hay không và có
tối ưu hóa sự sử dụng các yếu tố đầu vào chưa?
Hơn nữa, việc này giúp cho nhà quản lý có được
thông tin có giá trị về mức độ tương xứng của năng
lực đội tàu với sự có sẵn của các nguồn lực và tình
trạng kinh tế của ngành công nghiệp đánh bắt cá [8].
Nghiên cứu này cùng với nghiên cứu đo lường năng
lực đối với nghề cá ngừ câu vàng ở tỉnh Phú Yên, Việt
Nam được thực hiện bởi Phạm Thị Thanh Bình [2]
và nghiên cứu quá tải cường lực nghề cá quy mô
nhỏ ở Việt Nam của Tô Văn Phương [3] góp phần
cung cấp những thông tin quý báu cho mục tiêu
xây dựng hoàn thiện “Kế hoạch hành động quốc
gia - Năng lực’’ (NPOA - Năng lực) của Chính phủ
Việt Nam.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
năng lực được xác định bằng cách thiết lập mối
quan hệ trực tiếp giữa mức độ đánh bắt được ở đầu
ra và đầu mức độ sử dụng các đầu vào. Các mức
đỉnh về sản lượng đánh bắt trên mỗi đơn vị đầu vào
được coi như tương đương với việc sử dụng 100%
năng lực đánh bắt. Những đỉnh được giả định là đại
diện cho các năm nghề cá đạt được đầu ra tối đa
với công nghệ khai thác và trữ lượng nguồn lợi cho
trước. Các mức sản lượng đánh bắt trên mỗi đơn
vị đầu vào thấp hơn thể hiện cho sự sử dụng dưới
mức về năng lực đánh bắt. CU được đo lường bằng
tỷ số của mức sản lượng đơn vị đánh bắt quan sát
được với mức sản lượng đơn vị đánh bắt lớn nhất
có thể đạt được [2].
(2) Phương pháp phân tích SPF (Stochastic
Production Frontier) là một cách tiếp cận kinh tế
lượng được sử dụng trong trường hợp thiết lập
đầu ra tiềm năng tối đa. Năng lực của mỗi tàu
được tính toán dựa trên việc thiết lập đường biên
giới hàm sản xuất bằng đầu ra dự báo với mức
đầu vào cố định hiện có và mức đầu vào biến đổi
được sử dụng tối đa. SPF được sử dụng rộng rãi
trong việc đánh giá hiệu quả kỹ thuật trong nhiều
ngành công nghiệp bao gồm cả lĩnh vực thủy sản.
Phương pháp phân tích đỉnh tới đỉnh và phương
pháp SPF chuẩn chỉ có thể sử dụng để ước tính
năng lực đánh bắt và năng lực sử dụng cho một
đầu ra duy nhất [2]. Do đó đối với nghề cá đa loài,
khi sử dụng phương pháp phân tích SPF rất cần
thiết phải sử dụng một số phương pháp tổng hợp
hoặc các phương pháp ước tính phức tạp cũng
như các ước lượng gần đúng.
(3) Phương pháp DEA cũng sử dụng các dữ
liệu cùng loại với các dữ liệu trong phân tích SPF.
Tuy nhiên đối với đầu ra đa loài thì sử dụng phương
pháp DEA để đo năng lực và năng lực được sử dụng
tương đối dễ dàng. Chúng ta có thể đo lường đánh
bắt cho từng ngư loài cụ thể nếu dữ liệu là sẵn có.
2.2. Mô hình nghiên cứu DEA
Phương pháp DEA được xây dựng dựa
phương trình toán học để xác định giải pháp tối
ưu với các điều kiện cho trước. Gọi u là các véc tơ
đầu ra, x là véc tơ đầu vào. Các đầu vào được chia
ra là đầu vào cố định (Fx), và đầu vào biến đổi là
(Vx). Giả sử có j = 1, 2, J tàu đánh cá (J quan
sát) sử dụng n đầu vào và đánh bắt m ngư loài ở
đầu ra. Trong đó ujm là sản lượng đầu ra của đầu ra
thứ m (m = 1,2,M) đánh bắt của tàu thứ j, và xjn
là mức đầu vào thứ n của tàu thứ j. Fare (3) đã viết
bài toán DEA tổng quát đo lường năng lực đánh
bắt được giải quyết qua mô hình (I): Maxθ,λ,z θ1 với
các rằng buộc:
m = 1, 2, , M (1)
(3) (I)
(VRS) hay
(CRS) (4)
, j =1, 2,, J và (5)
Trong đó, véc tơ của biến z định nghĩa đường
công nghệ tham chiếu với các đầu vào và đầu ra
quan sát được. Giá trị của z được ước lượng dựa
trên sự so sánh của mỗi quan sát với tất cả quan
sát để tìm ra quan sát tốt nhất trong thực tế. Đường
công nghệ tham chiếu sẽ xây dựng dựa trên các
quan sát tốt nhất trên thực tế để từ đó đo lường
năng lực sản xuất của từng tàu. Mô hình DEA cho ra
kết quả là hệ số vô hướng θ1 > 1, cho biết mức sản
lượng tiềm năng (phần trăm) có thể gia tăng nếu
tàu vận hành 100% năng lực đánh bắt (không cần
gia tăng thêm đầu vào). Mức sản lượng tiềm năng
được tính bằng cách nhân mức sản lượng quan sát
thực tế với θ1. Năng lực sử dụng (CU) tính bằng tỷ
lệ gữa mức sản lượng thực tế với mức sản lượng
tiềm năng, do đó là 1/ θ1
Từ cách tiếp cận ở trên ta thấy CU có thể bị
giảm xuống bởi vì tử số được sử dụng trong các tính
toán này là đầu ra quan sát, cái mà có thể được tạo
ra trong điều kiện không đạt được hiệu quả về mặt
kĩ thuật. Để đạt được hiệu quả kĩ thuật của đầu ra,
cả yếu tố đầu vào biến đổi và cố định phải được đặt
trong điều kiện đạt hiệu quả về mặt kĩ thuật [16]. Do
đó, thông qua việc so sánh sản lượng đầu ra khi sử
dụng 100% năng lực với mức sản lượng đầu ra khi
sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào sẽ cho phép ta
tách rời ảnh hưởng của sự phi hiệu quả khi tính CU.
Tỷ số hiệu quả kĩ thuật (θ2) chỉ ra bao nhiêu sản
lượng có thể gia tăng thông qua việc sử dụng tất
của đầu vào (cố định và biến đổi) một cách hiệu quả
được xác định bằng cách giải quyết phương trình
toán học khác như sau: Maxθ, z θ2 với các ràng buộc:
θ2ujm m = 1, 2, , M, (6)
n = 1, 2,, N,
(7)
, j =1, 2,, J,
Ở mô hình (II), phương trình (7) thiết lập cho
cả 2 nhân tố đầu vào cố định và biến đổi (có nghĩa
là mô hình (II) thêm vào yếu tố đầu vào biến đổi
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17
so với mô hình (I)). Điều này nhấn mạnh rằng, với
điều kiện thêm vào ở mô hình (II) nên θ2 ≤ θ1. θ2 chỉ
ra mức sản lượng đầu ra có thể đạt đến nếu tất cả
các đầu vào đều được sử dụng hiệu quả. Mức sản
lượng đầu ra đạt hiệu quả kĩ thuật chính bằng θ2
nhân với mức sản lượng quan sát. Mức hiệu quả kỹ
thuật của từng tàu đạt được sẽ là TE = u/ θ2u = 1/ θ2
2.3. Việc sử dụng yếu tố đầu vào biến đổi
Biến đầu vào tối ưu, λjn, là tỷ lệ tối ưu các
biến đầu vào được sử dụng trong quan sát. Giá
trị λjn được lấy từ kết quả của mô hình DEA. Việc
sử dụng biến đầu vào tối ưu là mức đầu vào cung
cấp cho hiệu quả kỹ thuật đầy đủ tại mức năng
lực [17]. Nếu λjn vượt quá giá trị 1.0, chứng tỏ có
sự thiếu hụt của các biến đầu vào thứ i và các tàu
nên mở rộng sử dụng các yếu tố đầu vào. Nếu λjn
là ít hơn giá trị 1.0, chứng tỏ có một dư thừa của
các biến đầu vào thứ i hiện có và tàu nên giảm sử
dụng các yếu tố đầu vào. Nếu λjn bằng 1.0, việc
sử dụng thực tế của biến đầu vào thứ i là sử dụng
tối ưu [12].
2.4. Mô hình đo lường dư thừa năng lực khai thác
đề xuất
Trong nghiên cứu này chỉ sử dụng yếu tố công
suất tàu, chiều dài tàu, ngày trên biển, số lao động,
năm kinh nghiệm đi biển, chi phí xăng dầu, doanh
thu để đánh giá cường lực đánh bắt vì đây là các
yếu tố đầu vào quan trọng cho đánh giá cường lực
mà người đánh bắt dễ dàng có thể can thiệp vào [6].
Đối với đầu ra, trái ngược với những nghiên cứu
khác thường áp dụng đánh bắt như sản lượng,
nghiên cứu này sử dụng doanh thu như đầu ra.
III. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Dữ liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 65 tàu quy mô nhỏ hoạt
động nghề lưới kéo ở hai khu vực Vĩnh Trường và
Vĩnh Lương của thành phố Nha Trang trong hai năm
2005 và 2006. Dân cư sống trong hai khu vực này
sống chủ yếu dựa vào nghề đánh bắt thủy sản. Các
tàu ở khu vực phường Vĩnh Trường hoạt động ở
các vùng lân cận của 9 đảo thuộc Khu bảo tồn vịnh
Nha Trang. Còn các tàu ở khu vực phường Vĩnh
Lương lại hoạt động trong khu vực đầm Nha Phu ở
phía Bắc thành phố Nha Trang [11]. Với nguồn dữ
liệu được thu thập từ 2 khu vực này, tác giả không
chỉ đánh giá được năng lực đánh bắt, và việc sử
dụng các yếu tố đầu vào của các tàu mà còn chỉ ra
được lợi ích từ việc thành lập các khu bảo tồn biển
trên Vịnh Nha Trang.
Trong thực tế, để đo lường cường lực khai thác
ngoài các yếu tố đầu vào cố định, đầu vào biến đổi,
doanh thu còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác như:
đặc điểm kết cấu vỏ tàu, trình độ lao động, công
nghệ đánh bắt, trình độ tổ chức sản xuất trên biển,
hợp tác giữa các tàu,Tuy nhiên, trong nghiên cứu
này chỉ sử dụng yếu tố công suất tàu, chiều dài
tàu, ngày trên biển, số lao động, năm kinh nghiệm
đi biển, chi phí xăng dầu, doanh thu để đánh giá
cường lực đánh bắt vì đây là các yếu tố đầu vào
quan trọng cho đánh giá cường lực mà người đánh
bắt dễ dàng có thể can thiệp vào [6]. Đối với đầu ra,
trái ngược với những nghiên cứu khác thường áp
dụng đánh bắt như sản lượng, nghiên cứu này sử
dụng doanh thu như đầu ra. Lý do là các ngư lưới
kéo được đặc trưng bởi sự thu hoạch với sự phức
tạp của loài, khoảng 20 đến 30 loài có thể được
tìm thấy trong việc đánh bắt. Việc chọn đầu ra và
đầu vào này dựa trên ý kiến của người nuôi và các
chuyên gia.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này đối với mô hình DEA, tác
giả đo lường năng lực, CU và năng lực dư thừa
dựa trên TE. Phần mềm DEA Excel solver được
sử dụng để ước lượng kết quả. Số mẫu nghiên
cứu phù hợp trong nghiên cứu DEA được xác định
theo công thức max(n + m, n*m), với n là số biến
đầu vào và m là số biến đầu ra. Trong nghiên cứu
này số biến đầu vào sử dụng là 6, số biến đầu ra
là 1, do đó số mẫu sử dụng 65 trong nghiên cứu là
phù hợp (15).
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Một số giá trị thống kê của các biến dùng
trong phân tích
Dữ liệu được sử dụng trong phân tích này bao
gồm 6 yếu tố đầu vào (đầu vào cố định và đầu vào
biến đổi) và một đầu ra. Đối với đầu ra, trái ngược
với những nghiên cứu khác thường áp dụng đánh
bắt như sản lượng, nghiên cứu này sử dụng doanh
thu như đầu ra. Lý do là các ngư lưới kéo được đặc
trưng bởi sự thu hoạch với sự phức tạp của loài,
khoảng 20 đến 30 loài có thể được tìm thấy trong
việc đánh bắt. Các yếu tố đầu vào được mô tả qua
bảng 1.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Doanh thu trung bình được tính trong cả hai năm
là 205.834 ngàn đồng. Trong năm 2005 và 2006, con
số này tương ứng là 198.547 và 213.120 ngàn đồng.
Số liệu này cho thấy mức doanh thu ở đây hơi nhỏ
(so sánh với nghề lưới rê là 851.333 ngàn đồng [1]
hoặc một người đánh cá bằng lưới kéo có một sức
mạnh động cơ tương tự (20 - <45 HP), đó là 355.590
ngàn đồng [7]). Công suất của các tàu có ảnh hưởng
lớn đến năng lực đánh bắt tuy nhiên với công suất
như trong bảng cho thấy các tàu ở đây đều thuộc
qui mô nhỏ. Số lượng ngư dân của tàu trung bình
khoảng 3 người. Số lượng ngày trung bình hàng
năm trên biển là 210,85 (bao gồm cả thời gian chờ
và đánh bắt cá). Kinh nghiệm đánh cá trung bình
của ngư dân khoảng 10,4 năm. Kinh nghiệm đánh
bắt cũng được coi là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng
đến sản lượng đánh bắt của các tàu. Chi phí nhiên
liệu trung bình là 102.261 ngàn đồng cho mỗi tàu
2. Năng lực dư thừa
Năng lực dư thừa được tính cho mỗi tàu dựa
trên năng lực và hiệu quả kỹ thuật đầu ra. Năng
lực đầu ra và hiệu quả kỹ thuật (TE) đã được tính
toán bằng cách sử dụng hệ số ước tính thu được
từ kết quả DEA. Các mức năng lực và hiệu quả
kỹ thuật đầu ra có thể được tính cho mỗi tàu và
tổng hợp để có được ước tính của công suất dư
thừa cho tất cả các tàu. Năng lực dư thừa được
tính bằng năng lực sản lượng đánh bắt trừ đầu ra
quan sát và năng lực dư thừa dựa trên TE được
tính bằng mức doanh thu đạt hiệu quả kỹ thuật trừ
doanh thu thực tế. Như vậy, giá trị cụ thể của năng
lực dư thừa và năng lực dư thừa dựa trên TE cho
tất cả các tàu và cho tàu trong hai khu vực nghiên
cứu (Vĩnh Lương và Vĩnh Trường) được thể hiện
qua bảng 2.
Bảng 1. Tổng hợp thống kê mô tả của dữ liệu được dùng trong phân tích
Các nhân tố
Cả hai năm 2005 2006
Trung bình Độ lệch chuẩn Trung bình
Độ lệch
chuẩn Trung bình
Độ lệch
chuẩn
Doanh thu (1000 VND) 205,834 82,966 198,547 91,746 213,120 73,139
Công suất tàu (HP) 35.29 12.48 35.29 12.53 35.29 12.53
Chiều dài tàu (m) 11.64 1.84 11.64 1.84 11.64 1.84
Ngày trên biển (ngày) 210.85 41.05 200.18 41.61 221.52 37.86
Số lao động (người) 3.08 0.74 3.17 0.80 2.98 0.67
Năm kinh nghiệm đi biển (năm) 10.38 5.75 9.89 5.74 10.88 5.76
Chi phí xăng dầu (1000 VND) 102,261 44,621 84,510 39,623 120,013 42,463
Nguồn: Tính toán bởi tác giả. Tỷ lệ chuyển đổi VND/USD (5/2006) là 16.200 VND/USD)
Chú ý: Doanh thu năm 2006 bằng giá trị của năm t2005 nhân với chỉ số giá tiêu dùng - CPI
Bảng 2. Doanh thu, năng lực, CU và năng lực dư thừa dựa trên TE trong năm 2005 và 2006
Chỉ tiêu
2005 2006
Tổng Vĩnh Trường
Vĩnh
Lương Tổng
Vĩnh
Trường
Vĩnh
Lương
Doanh thu (ngàn đồng) 198,547 244,907 140,998 213,120 241,539 177,842
Đầu ra hiệu quả kỹ thuật (ngàn đồng) 237,947 288,919 174,673 241,948 282,249 191,919
Năng lực đầu ra (ngàn đồng) 318,586 331,202 302,926 323,090 341,994 299,624
Năng lực dư thừa (ngàn đồng) 120,039 86,295 161,928 109,970 100,455 121,782
Tỷ trọng năng lực dư thừa (%) 60.46 35.24 114.84 51.60 41.59 68.48
Năng lực dư thừa dựa trên TE (ngàn đồng) 39,400 44,012 33,675 28,827 40,710 14,077
Tỷ trọng năng lực dư thừa dựa trên TE (%) 19.84 17.97 23.88 13.53 16.85 7.92
TE 0.855 0.864 0.843 0.893 0.856 0.938
CU - quan sát 0.636 0.767 0.473 0.665 0.705 0.616
CU - hiệu quả 0.741 0.882 0.566 0.751 0.825 0.659
Nguồn: tính toán bởi tác giả
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 19
Hình 1. Sự phân phối tỷ lệ sử dụng yếu tố đầu vào biến đổi (VIU) trong năm 2005 và 2006
Nguồn: tính toán của tác giả
Năng lực dư thừa của tất cả các tàu cho từng
khu vực và cho cả hai khu vực được ước tính theo
giả định rằng yếu tố đầu vào được sử dụng hoàn
toàn. Trong trường hợp này, năng lực dư thừa tính
trung bình cho mỗi tàu trong năm 2005 và 2006
tương ứng là là 120.039 và 109.970 ngàn đồng.
Điều này có nghĩa là mỗi tàu có thể gia tăng doanh
thu trung bình lên 120.039 và 109.970 ngàn đồng,
tương ứng với 60,46% (2005) và 51,60% (2006) khi
năng lực đánh bắt được sử dụng 100%.
So sánh giữa hai khu vực, chúng ta có thể thấy
rằng trong năm 2005, mức dư thừa năng lực trung
bình của tàu ở Vĩnh Lương là gấp 2 lần so với tàu
ở Vĩnh Trường. Năng lực dư thừa trung bình của
tàu ở Vĩnh Lương là 161.928 ngàn đồng, tương
đương 114.84%, trong khi giá trị này của tàu trong
Vĩnh Trường là 86.295 ngàn đồng, tương đương
35.24%. Tuy nhiên, con số này đã giảm trong năm
2006 với tàu ở Vĩnh Lương và tăng nhẹ đối với các
tàu ở Vĩnh Trường. Trong năm 2006, năng lực dư
thừa là hơn 100 triệu đồng, tương đương 41,59% ở
Vĩnh Trường và hơn 121 triệu đồng, tương đương
68,48% ở Vĩnh Lương.
Theo kết quả trong bảng 2, năng lực dư thừa
dựa trên TE tính trung bình của mỗi tàu (trong tổng
số tàu và trong mỗi phường) là nhỏ hơn so với năng
lực dư thừa. Cụ thể, năng lực dư thừa dựa trên
TE tính trung bình cho mỗi tàu đánh bắt lần lượt
là hơn 39 triệu đồng, tương đương với 19,84% và
gần 29 triệu đồng, tương đương 13,53% trong năm
2005 và 2006. Các kết quả cũng cho thấy rằng tàu
ở Vĩnh Trường có tỉ lệ phần trăm vượt quá năng lực
thấp hơn so với tàu ở Vĩnh Lương năm 2005 nhưng
lại cao hơn trong năm 2006. Tuy nhiên, nếu so sánh
giữa 2 năm, mức dư thừa năng lực năm 2006 là
thấp hơn năm 2005 tính trung bình cho tất cả các
tàu và tính cho các tàu hoạt động ở từng khu vực
3. Sự sử dụng các yếu tố đầu vào biến đổi
Từ hình 1, chúng ta có thể thấy rằng không có
biến đầu vào biến đổi nào được sử dụng có tỷ lệ sử
dụng các yếu tố đầu vào biến đổi (VIU) quá 1. Điều
này có nghĩa rằng không có sự thiếu hụt của các
biến đầu vào biến đổi được sử dụng. Khoảng 60%
tàu có tỷ lệ VIU bằng 1 trong tất cả các yếu tố đầu
vào biến đổi được sử dụng cho thấy rằng hầu hết
các tàu đã sử dụng tối ưu tất cả các yếu tố đầu vào
biến đổi và thặng dư trong việc sử dụng các yếu tố
đầu vào biến đổi là rất ít. Chỉ có biến kinh nghiệm
đánh cá của ngư dân có sự thặng dư trong việc sử
dụng hơn 50% trong một số tàu. Tuy nhiên các tàu
không phải giảm yếu tố này bởi trong thực tế, kinh
nghiệm đánh cá một ngư dân cao sẽ cho hiệu quả
cao trong đánh bắt.
Biến sử dụng chi phí nhiên liệu được xem là yếu
tố sử dụng hiệu quả nhất trong cả hai năm, hơn 90%
tàu (2005) và 78% tàu (2006) có tỷ lệ VIU bằng 1 và
không có tàu nào có giá trị VIU của biến số này dưới
0,8 trong năm 2006. Tiếp đó là biến số ngày trên biển,
với gần 90% tàu (2005) và gần 75% tàu (2006) các
tàu có VIU tối ưu. Tỷ lệ VIU trung bình của yếu tố đầu
vào năm 2005 và 2006 được tính toán cho thấy, tỷ lệ
VIU trung bình của yếu tố đầu vào số ngày trên biển
là cao nhất (năm 2005), với 0,993 có nghĩa là số ngày
đánh cá thực tế trên biển đã được sử dụng rất gần
với số ngày tối ưu. Có 0,7%, tương đương 1,5 ngày
thặng dư, tuy nhiên, tỷ lệ này giảm xuống còn 0,967
vào năm 2006 đã dẫn đến thặng dư của yếu tố này
là 3,3%, tương đương nhiều hơn 8 ngày. Như vậy,
so sánh giữa năm 2005 và 2006, việc sử dụng ngày
trên biển trong năm 2005 là hiệu quả hơn. Tỷ lệ này
trong biến số lao động của tàu là 0,977 (năm 2005)
và 0.932 (năm 2006), có nghĩa là đã có 2,3% và 6,8%
thặng dư của lao động sử dụng, do đó các tàu nên
giảm số lao động để nâng cao hiệu quả. Thặng dư số
lao động sử dụng của tàu trong năm 2006 cũng cao
hơn so với năm 2005. Như đề cập ở trên, kinh nghiệm
đánh bắt của ngư dân không phản ánh sự kém hiệu
quả trong đánh bắt cá. Như vậy, tỷ lệ trung bình của
biến kinh nghiệm đánh cá của ngư dân là 0.814 và
0.864 trong năm 2005 và 2006 lần lượt chỉ ra rằng các
chủ tàu đã có đủ kinh nghiệm trong đánh bắt. Việc sử
dụng nhiên liệu là cao nhất cho tàu vào năm 2006. Tỷ
lệ này là 0,985 cho thấy rằng tính trung bình các tàu
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
nên giảm chi phí cho nhiên liệu khoảng 1,5%, tương
đương 2,4 triệu đồng/năm. Con số này là 2,4%, tương
đương hơn 2,5 triệu đồng trong năm 2005. Tuy nhiên,
điều này cũng cho thấy việc thặng dư trong chi phí
nhiên liệu này chỉ tập trung trong khoảng 10% số tàu
(2005) và 22% số tàu (2006) (kết quả trong hình 1).
Tóm lại, các đầu vào sử dụng trong cả hai năm là
tương đối hiệu quả, hầu hết VIU của yếu tố đầu vào
là gần 1 và thặng dư trong việc sử dụng những yếu tố
này là dưới 7%.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu đã đo lường năng lực dư thừa và
việc sử dụng các yếu tố đầu vào của tàu lưới kéo
quy mô nhỏ tại khu vực Vĩnh Trường và Vĩnh Lương
thuộc thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, Việt
Nam. Kết quả của nghiên cứu đã cho thấy, hầu như
các yếu tố đầu vào của các tàu đều được sử dụng
tương đối hiệu quả, tuy nhiên năng lực đánh bắt tính
trung bình cho các tàu mới chỉ đạt khoảng gần 40%
(2005) đến gần 50% (2006) so với mức năng lực khi
sử dụng 100% năng lực. Điều này cho thấy nguồn
lợi ven bờ ở khu vực Nha Trang đang bị khai thác
quá mức, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
ngành thủy sản. Kết quả nghiên cứu này cũng chứng
minh rằng, các tàu thuyền đánh cá trong Vĩnh Trường
là có hiệu quả kỹ thuật hơn so với Vĩnh Lương. Điều
này cho thấy, nguồn lợi xung quanh các khu bảo tồn
biển là phong phú hơn so với các vùng khác và Khu
bảo tồn biển vịnh Nha Trang đã cung cấp một số lợi
ích cho việc đánh bắt thủy sản ở các vùng liền kề bởi
hiệu ứng lan tỏa. Kết luận này cũng phù hợp với kết
quả của một số nghiên cứu trước đây.
Nghiên cứu này cung cấp cho các cấp quản lí
trong lĩnh vực thủy sản những thông tin hữu ích để
phục vụ trong công tác quản lí nguồn lợi, đặc biệt là
nguồn lợi ven bờ đang bị khai thác quá mức. Các
kiến nghị cho các cấp quản lí là: (1) Cần phải phát
triển các ngành phụ cận như nuôi trồng thủy sản,
nông nghiệp, du lịch cho các ngư dân ốn định cuộc
sống giúp cho ngư dân không phụ thuộc hoàn toàn
vào nghề khai thác thủy sản ven bờ; (2) Quản lí số
lượng tàu có quy mô nhỏ đánh bắt ven bờ, có các
chính sách phát triển ngành đánh bắt xa bờ để giảm
áp lực cho nguồn lợi ven bờ; (3) Tạo ra nhiều hơn
các khu bảo tồn biển để đảm bảo sự phát triển bền
vững của nguồn lợi và nghề khai thác thủy sản ở
Nha Trang nói riêng và trên cả nước nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Kim Anh, 2006. Doanh thu và chi phí của nghề khai thác lưới rê thu ngừ tại Nha Trang. Tạp chí Khoa học - Công
nghệ Thủy sản, số 3-4/2006. Trường Đại học Nha Trang: 10-17
2. Pham Thị Thanh Bình. 2010. Đánh giá năng lực và hiệu suất sử dụng năng lực đánh bắt của một số tàu câu cá ngừ đại dương
tại tỉnh Phú Yên. Luận văn Thạc sĩ Kinh tế. Trường Đại học Nha Trang.
3. Tô Văn Phương, 2013. Quá tải cường lực nghề cá quy mô nhỏ ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản.
Số 2/2013: 56-61.
Tiếng Anh
4. Fare, R., Grosskopf, S., Kokkenlenberg, E., 1989. Measuring plant capacity utilization and technical change:
A non-parametric approach. International Economic Review, 30: 655-666.
5. FAO, 1998. Report of technical working group on the management of fi shing capacity. La Jolla, Calofornia, United States,
15 - 18 April 1998. FAO Fisheries Report, No. 586. Rome.
6. FAO, 2003. Measuring and assessing capacity in fi sheies - Issues and method. FAO Fisheries Technical Paper 433/2. Food
and Agricultural Organization of the United Nations. Rome, Italy.
7. Kirkley, J. E., Squires, D., 1999. Capacity and capacity utilization in fi shing industries. FI:MFC/99 Background document 20.
Technical Consultation on the Measurement of Fishing Capacity. Mexico City, Mexico, 29 November - 3 December.
8. Klein, L. R., 1960. Some theoretical issues in the measurement of capacity. Econometrica, 28: 272-286.
9. Lindebo, E., Hoff, A., Vestergaard, N., 2007. Revenue-based capacity utilisation measures and decomposition: The case of
Danish North Sea trawlers. European Journal of Operational Research, 180: 215-227.
10. Luong, N.T., Reithe, S., Larsen, T.A., Kim Anh, N.T., 2009. Economic performance indicators for coastal fi sheries: The case
of pure-seining in Khanh Hoa, Vietnam. Library of Tromso University. Norway.
11.
12. Maudau, F.A., Idda, L., Pulina, P., 2009. Capacity and economic effi ciency in small-scale fi sheries: Evidence from the
Mediterranean Sea. Marine Policy.
13. Ngọc, Q. T. K., Ola, F., Anh, N. T. K., 2009. Effi ciency of fi shing vessels affected by a marine protected area - The case of
small-scale trawlers and the marine protected area in Nha Trang Bay, Vietnam. Integrated Coastal Zone Management, chapter
15. Wiley-Blackwell, US.
14. Pascoe, S., Coglan, L., Mardle, S., 2001. Physiacal versus harvest-based measures of capacity unit system. ICES J. Marine
Science, 58: 1243-1252.
15. Warming, J., 1913. On grundent af fi skergrunde (On rent on fi shing ground). Translate by P. Anderson (1982).
Nationalokonomisk Tidsskrift 40: 499-505.
16. Timothy, J. C., Rao, P. D.S., O’Donnell, J.C., Battese, E. G. An introduction to effi ciency and productivity analysis, 2nd ed.
Copyright 2005 by Springer Science + Business Media, Inc.
17. Vestergaard, N., Squires, D., Kirkley, J., 2003. Measuring capacity and capacity utilization in fi sheries: the case of the Danish
Gill-net fl eet. Fisheries Research, 60: 357-368.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- do_luong_nang_luc_du_thua_va_viec_su_dung_cac_yeu_to_dau_vao.pdf