1. Kết luận
- Vùng biển vịnh Nha Trang, huyện đảo
Trường Sa, Phú Quý là vùng phân bố cũng
như ngư trường khai thác hải sâm vú, hải sâm
lựu của người dân ở Nha Trang (Khánh Hòa)
và Phú Quý (Bình Thuận).
- Ngư dân khai thác hải sâm bằng nghề lặn
có bình hơi, máy nén khí. Mùa vụ khai thác cao
điểm từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm.
- Kích cỡ hải sâm vú, hải sâm lựu khai thác
là từ 0,3 đến 1,5 kg/con. Sản lượng khai thác ở
cả 2 khu vực Phú Quý và Nha Trang đều giảm
từ năm 2012 đến năm 2017, từ 15 tấn/chuyến
xuống 5 tấn/chuyến và từ 5 tấn/chuyến xuống
2 tấn/chuyến một cách tương ứng.
- Giá cả hải sâm ở Nha Trang nhìn chung
cao hơn ở Phú Quý. Từ năm 2012 đến năm
2015, giá tăng từ 300.000 - 600.000 đồng/kg ở
Nha Trang, 150.000 - 450.000 đồng/kg ở Phú
Quý. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là nhà hàng
và xuất khẩu.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều tra nguồn lợi hai loài hải sâm vú (Holothuria fuscogilva Cherbonnier, 1980), hải sâm lựu (Thelenota ananas Jaeger, 1833) phân bố ở vùng biển Khánh Hòa, Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
ĐIỀU TRA NGUỒN LỢI HAI LOÀI HẢI SÂM VÚ (Holothuria fuscogilva
Cherbonnier, 1980), HẢI SÂM LỰU (Thelenota ananas Jaeger, 1833)
PHÂN BỐ Ở VÙNG BIỂN KHÁNH HÒA, BÌNH THUẬN
A SURVEY OF RESOURCES OF WHITE TEATFISH (Holothuria Fuscogilva Cherbonnier, 1980)
AND PRICKLY RED FISH (Thelenota ananas Jaeger, 1833)
Nguyễn Văn Hùng1, Tôn Nữ Mỹ Nga2, Đặng Ngọc Hảo2
Ngày nhận bài: 21/7/2017; Ngày phản biện thông qua: 21/9/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017
TÓM TẮT
Một cuộc điều tra đã được thực hiện để đánh giá nguồn lợi hai loài hải sâm vú Holothuria fuscogilva
(Cherbonnier, 1980) và hải sâm lựu Thelenota ananas (Jaeger, 1833) phân bố ở vùng biển Khánh Hòa, Bình
Thuận. Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều
tra xã hội học sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc. Đối tượng được điều tra phỏng vấn là người dân khai thác hải
sâm, đại lý thu mua, buôn bán hải sản tươi sống tại Khánh Hòa và Bình Thuận. Số lượng phiếu điều tra ở mỗi
tỉnh là 40 phiếu. Kết quả cho thấy vùng biển vịnh Nha Trang, huyện đảo Trường Sa, Phú Quý là vùng phân bố
cũng như ngư trường khai thác hải sâm vú, hải sâm lựu của người dân ở Nha Trang (Khánh Hòa) và Phú Quý
(Bình Thuận). Ngư dân khai thác hải sâm bằng nghề lặn có bình hơi, máy nén khí. Mùa vụ khai thác cao điểm
từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm. Kích cỡ hải sâm vú, hải sâm lựu khai thác là từ 0,3 đến 1,5 kg/con. Sản lượng
khai thác ở cả 2 khu vực Phú Quý và Nha Trang đều giảm từ năm 2012 đến năm 2017, từ 15 tấn/chuyến xuống
5 tấn/chuyến và từ 5 tấn/chuyến xuống 2 tấn/chuyến một cách tương ứng. Giá cả hải sâm ở Nha Trang nhìn
chung cao hơn ở Phú Quý. Từ năm 2012 đến năm 2015, giá tăng từ 300.000 - 600.000 đồng/kg ở Nha Trang,
150.000- 450.000 đồng/kg ở Phú Quý. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là nhà hàng và xuất khẩu.
Từ khóa: Bình Thuận, hải sâm lựu Thelenota ananas, hải sâm vú Holothuria fuscogilva, Khánh Hòa, nguồn lợi
ABSTRACT
A survey has been conducted to assess resources of white teatfi sh Holothuria fuscogilva (Cherbonnier, 1980)
and prickly red fi sh Thelenota ananas (Jaeger, 1833) distributing in Khanh Hoa and Binh Thuan marine areas. The
research was done by RRA method and sociological investigation method using semi-structured questionnaire. The
interviewees were sea cucumbers divers, buying agents and traders of fresh seafood in Khanh Hoa and Binh Thuan.
The number of questionnaires in each province was 40. The result showed that the waters of Nha Trang Bay, Truong
Sa District and Phu Quy District were distributing areas as well as fi shing grounds of white teatfi sh and prickly red
fi sh of fi shermen from Nha Trang (Khanh Hoa) and Phu Quy (Binh Thuan). Fishermen caught them by scuba diving
with air compressors. Main catching season from March to June of each year. The catching sizes of them were from
0.3 to 1.5 kg /individual. The catches in both Phu Quy and Nha Trang areas were reduced from 2012 to 2017, from 15
tons / trip to 5 tons / trip and from 5 tons / trip to 2 tons / ship, respectively. Their prices in Nha Trang were generally
higher than in Phu Quy. From 2012 to 2015, the price increased from 300,000 to 600,000 VND / kg in Nha Trang,
150,000- 450,000 VND / kg in Phu Quy. The main consumption market were the restaurants and exporters.
Keywords: Bình Thuận, Khánh Hòa, prickly red fi sh Thelenota ananas, resources, white teatfi sh
Holothuria fuscogilva
1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III
2 Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hải sâm là loài động vật da gai có giá trị
kinh tế cao, là nguồn thực phẩm bổ dưỡng, quý
giá cho con người và có chức năng làm sạch
môi trường. Kết quả điều tra về nguồn lợi của
hải sâm ở các nước như Indonesia, Philippin,
Ấn Độ cho thấy hiện nay, nguồn lợi của các
loài hải sâm đang bị suy giảm nghiêm trọng.
Nguyên nhân chính là do nhu cầu sử dụng hải
sâm làm thực phẩm tăng mạnh và việc quản lý
khai thác nguồn lợi không hợp lý [2].
Ở Việt Nam hiện nay, hai loài hải sâm
vú (Holothuria fuscogilva) và hải sâm lựu
(Thelenota ananas) đang nằm trong danh mục
các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi
và phát triển [1]. Khánh Hòa và Bình Thuận là
hai tỉnh có nguồn lợi hải sản phong phú, đa
dạng và là nơi phân bố của hai loài hải sâm vú
và hải sâm lựu [3] đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, được sự
phân công của Viện Nuôi trồng Thủy sản -
Trường Đại học Nha Trang và được sự cho
phép của Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển nuôi biển Nha Trang - Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng thủy sản III, tôi thực hiện đề
tài tốt nghiệp“Điều tra nguồn lợi hai loài hải
sâm vú (Holothuria fuscogilva) và hải sâm
lựu (Thelenota ananas) phân bố ở vùng biển
Khánh Hòa và Bình Thuận”.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: 15/2/2017 - 15/5/2017
Địa điểm nghiên cứu: vùng biển Khánh
Hòa (đảo Hòn Tre, Nha Trang) và Bình Thuận
(huyện đảo Phú Quý).
2. Vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hải sâm vú
(Holothuria fuscogilva Cherbonnier, 1980) và
hải sâm lựu (Thelenota ananas Jaeger, 1833)
(Hình 1).
Hải sâm vú Holothuria fuscogilva Hải sâm lựu Thelenota ananas
Hình 1. Hải sâm vú (Holothuria fuscogilva Cherbonnier, 1980)
và hải sâm lựu (Thelenota ananas Jaeger, 1833)
3. Phương pháp thu thập số liệu điều tra
Số liệu thứ cấp: Được thu thập từ tài liệu
tham khảo nghiên cứu về hải sâm vú và hải
sâm lựu, các tài liệu về khóa phân loại, đặc
điểm hình thái, số liệu thống kê của các cơ
quan quản lý trên 2 địa bàn điều tra Khánh Hòa
và Bình Thuận.
Số liệu sơ cấp: Số liệu được thu thập thông
qua quá trình điều tra phỏng vấn người dân
khai thác hải sâm, đại lý thu mua, buôn bán hải
sản tươi sống tại Khánh Hòa và Bình Thuận.
Phương pháp tiếp cận điều tra phỏng vấn trực
tiếp và gián tiếp, các nội dung phỏng vấn được
chuẩn bị trước theo mẫu phiếu điều tra.
Phương pháp tiếp cận xác định vùng điều
tra: Dựa trên các kết quả phân tích, tổng hợp
về hệ sinh thái, tình hình phân bố, thành phần
loài hải sâm đã được nghiên cứu trước kia.
Nghiên cứu được thực hiện theo phương
pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và
phương pháp điều tra xã hội học sử dụng bộ
câu hỏi bán cấu trúc.
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
Số lượng phiếu điều tra:
40 phiếu/tỉnh × 2 tỉnh = 80 phiếu.
4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Phân bố
Kết quả điều tra 80 người dân khai thác
và mua bán hải sâm trên khu vực Khánh Hòa,
Bình Thuận cho thấy hai loài hải sâm vú và
hải sâm lựu có phân bố ở vịnh Nha Trang
(Hòn Tre, Trí Nguyên, Hòn Một, Hòn Nội, Hòn
Ngoại) - Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa -
Khánh Hòa, huyện đảo Phú Quý - Bình Thuận
(Rạn Cả, Rạn Trứng, Gò Dài). Kết quả cho thấy
vùng phân bố của hải sâm trong nghiên cứu
của chúng tôi rộng hơn vùng phân bố trong kết
quả nghiên cứu của Đào Tấn Hỗ (2006). Theo
Đào Tấn Hỗ (2006), vùng phân bố hải sâm ở
vùng biển Khánh Hòa là đảo Hòn Tre.
80% số người được phỏng vấn cho biết
hải sâm vú và hải sâm lựu phân bố ở vùng
nước sâu từ 30 đến 40 m. 20% số người được
phỏng vấn cho biết hải sâm sống ở độ sâu >
40 m. Ở độ sâu lớn như vậy tương ứng với
vùng biển xa bờ có độ mặn cao. Kết quả này
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Thị Thanh Thùy và ctv (2016) về vùng phân
bố của nguồn gen hải sâm vú, hải sâm lựu tại
vùng biển Phú Quý (Bình Thuận).
Vậy, vùng phân bố của 2 loài hải sâm trên
là vịnh Nha Trang, Trường Sa (Khánh Hòa),
Phú Quý (Bình Thuận), ở độ sâu từ 30 đến
> 40 m.
2. Phương pháp và mùa vụ khai thác
Ảnh hưởng của độ sâu là yếu tố hình thành
phương pháp khai thác hải sâm. 100% số
người được phỏng vấn đều khai thác hải sâm
bằng nghề lặn có bình hơi, máy nén khí. Hầu
hết các tàu khai thác hải sâm có công suất lớn
ở tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận đều chọn
vùng biển huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa)
làm ngư trường khai thác chính. Vùng biển
Trường Sa có sự phân bố hệ sinh thái rạn san
hô, cát sỏi là nơi cư trú thích hợp của các loài
hải sâm.
Kết quả điều tra tại Nha Trang, Khánh Hòa
cho thấy hiện nay chỉ có 4 tàu khai thác hải
sâm xa bờ ở xã Vĩnh Lương. Ngư trường khai
thác chính của họ là vùng biển ở đảo Phú Quý
(Bình Thuận), Trường Sa (Khánh Hòa). Ở đảo
Phú Quý (Bình Thuận), có khoảng 20 tàu hành
nghề lặn hải sâm nhưng trong đó có khoảng 5
tàu có công suất lớn và khai thác xa bờ (đảo
Trường Sa), còn lại chỉ khai thác ven bờ của
vùng biển huyện đảo Phú Quý. Người dân cho
biết nghề lặn hải sâm nguy hiểm đến tính mạng
nên đòi hỏi người dân phải có kinh nghiệm,
sức khỏe. Vì vậy, số lượng ngư dân còn bám
trụ với nghề lặn rất ít. Bên cạnh đó, theo người
dân cho biết nguồn lợi hải sâm vú, hải sâm
lựu ở vùng biển Khánh Hòa đã cạn kiệt, sản
lượng đánh bắt thấp, dẫn đến đa số ngư dân
đều chuyển đổi ngành nghề hoặc chuyển sang
hình thức khai thác khác như lưới, bẫy Nghề
lặn đánh bắt hải sâm của ngư dân ở Khánh
Hòa còn sử dụng các trang thiết bị khá thô sơ.
Ngư dân sử dụng máy bơm hơi trên tàu để làm
máy bơm khí cho người lặn làm việc dưới biển.
Hệ thống ống dẫn khí còn đơn giản và thiếu an
toàn khi sử dụng.
Hình 2. Ngư dân Vĩnh Lương (Nha Trang)
chuẩn bị ngư cụ khai thác
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31
Kết quả điều tra cho thấy 97,5% số người
dân được phỏng vấn trả lời rằng mùa vụ đánh
bắt hải sâm là mùa hè (từ tháng 3 đến tháng 6
hàng năm). Những tháng còn lại có bắt gặp hải
sâm nhưng tần suất thấp hơn. Vào thời gian
này, thời tiết trên biển khá tốt phù hợp cho nghề
lặn làm việc. Thời gian khai thác nằm trong
khoảng thời gian hải sâm sinh sản từ tháng 1
đến tháng 8 hằng năm [4]. Kết quả nghiên cứu
này có thể làm tiền đề cho việc ứng dụng sinh
sản nhân tạo hải sâm vú và hải sâm lựu trong
công tác bảo tồn nguồn gen quý hiếm.
Vậy, nghề khai thác hải sâm là nghề lặn
có bình hơi, máy nén khí. Mùa vụ đánh bắt
hải sâm là mùa hè (từ tháng 3 đến tháng 6
hàng năm).
3. Kích cỡ và sản lượng khai thác
Kết quả điều tra cho thấy 75% số người
được phỏng vấn cho biết kích cỡ khai thác hải
sâm vú, hải sâm lựu là từ 0,3 đến 1,5 kg/con.
Một số người dân cho biết trước đây có thời
điểm khai thác được hải sâm lựu có khối lượng
lên đến 5 kg/con, nhưng trong 5 năm gần đây
hầu như không khai thác được hải sâm lựu có
khối lượng > 2 kg/con. Tương tự, hải sâm vú
khai thác được có khối lượng giảm so với 5
năm gần đây.
Hình 3. Hải sâm vú được người dân Phú Quý Bình Thuận) khai thác
Số liệu thống kê của Trung tâm Khuyến
nông tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận về chi tiết
sản lượng của hải sâm vú, hải sâm lựu chưa
được tổng kết rõ ràng như ở các nhóm tôm,
cá. Sản lượng hải sâm chỉ thống kê được khi
điều tra trực tiếp các ngư dân khai thác tại 2
vùng biển ở huyện Phú Quý tỉnh Bình Thuận
và Nha Trang (xã Vĩnh Lương, phường Vĩnh
Nguyên) tỉnh Khánh Hòa. Tùy theo thời gian
đánh bắt, sản lượng khai thác ở mỗi ngư dân
có khác nhau. 90% số người được phỏng
vấn cho biết thời gian khai thác hải sâm từ
10 – 20 ngày/chuyến, trung bình 15 ngày/
chuyến. Một số ngư dân khai thác ven bờ thì
khai thác bằng nghề lặn hàng ngày, không
chỉ lặn hải sâm mà còn lặn các loài khác như
tôm, cua, cá. Do bị đánh bắt liên tục và thường
xuyên nên số lượng hải sâm càng ngày càng
giảm dần qua các năm.
Kết quả nghiên cứu về sản lượng khai thác
hải sâm vú, hải sâm lựu tại Nha Trang (Khánh
Hòa) và Phú Quý (Bình Thuận) được trình bày
ở Hình 4.
32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
Hình 4 cho thấy sản lượng khai thác hải
sâm ở Phú Quý (Bình Thuận) lớn hơn sản
lượng khai thác hải sâm ở Nha Trang (Khánh
Hòa). Sản lượng khai thác trung bình năm
2012 ở huyện Phú Quý khoảng 15 tấn/chuyến.
Sau đó, sản lượng giảm dần qua các năm. Đến
năm 2017, sản lượng giảm còn 5 tấn/chuyến.
Sau 5 năm, sản lượng đánh bắt hải sâm vú,
hải sâm lựu đã giảm 10 tấn/chuyến. Qua đó, có
thể thấy nguồn lợi hải sâm vú, hải sâm lựu đã
bị suy giảm nghiêm trọng. Tương tự, tại vùng
biển Nha Trang, sản lượng khai thác hải sâm
cũng suy giảm. Cụ thể, năm 2012, sản lượng
khai thác được 5 tấn/chuyến, sau đó giảm dần
qua các năm. Đến năm 2017, sản lượng khai
thác chỉ còn khoảng 2 tấn/chuyến. Có chuyến
ngư dân không khai thác được hải sâm vú, hải
sâm lựu. Đa số các ngư dân hành nghề lặn
đều khai thác các loài sống ở tầng đáy như
cua, tôm và hải sâm.
Điều này có thể là do ngư dân ở Phú
Quý có kinh nghiệm trong nghề lặn hơn, ngư
trường khai thác chính (Trường Sa, Phú Quý)
cũng gần với huyện đảo Phú Quý. Bên cạnh
đó, khai thác hải sâm ở vùng biển xa bờ đòi hỏi
tàu thuyền có công suất lớn mà ngư dân ở Nha
Trang không đáp ứng được vấn đề này, chủ yếu
họ chỉ khai thác bằng thuyền có công suất nhỏ
(< 20 CV). Người dân địa phương cho biết
nguồn lợi hải sâm ở vùng biển vịnh Nha Trang
đã cạn kiệt nghiêm trọng, dẫn đến sản lượng
đánh bắt thấp.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 95%
số người được điều tra cho rằng nguồn lợi hải
sâm ở vùng biển vịnh Nha Trang và đảo Phú
Quý đã suy giảm nghiêm trọng. Minh chứng rõ
nhất cho điều này chính là sản lượng khai thác
giảm rõ rệt. 100 % số người được phỏng vấn
đều cho rằng nguyên nhân suy giảm nguồn
lợi hải sâm vú, hải sâm lựu hiện nay chủ yếu
do sự khai thác quá mức của người dân. Đối
tượng hải sâm là loài có giá trị kinh tế cao, đặc
tính di chuyển chậm nên bị đánh bắt khá dễ
dàng. Ngoài ra, quá trình phát triển về cơ sở
hạ tầng, quá trình san lấp biển đã phá hủy các
hệ sinh thái, nơi cư ngụ và môi trường sống
của 02 loài hải sâm. Thời gian sinh sản, tái tạo
quần đàn của hải sâm diễn ra chậm cũng là
nguyên nhân dẫn đến nguồn lợi bị suy giảm.
Tóm lại, kích cỡ khai thác hải sâm vú, hải
sâm lựu là từ 0,3 đến 1,5 kg/con. Sản lượng
khai thác ở cả 2 khu vực Phú Quý và Nha
Trang đều giảm từ năm 2012 đến năm 2017,
từ 15 tấn/chuyến xuống 5 tấn/chuyến và từ
5 tấn/chuyến xuống 2 tấn/chuyến một cách
tương ứng.
Hình 4. Biến động sản lượng khai thác hải sâm vú, hải sâm lựu tại Nha Trang (Khánh Hòa)
và Phú Quý (Bình Thuận) giai đoạn 2012 - 2017
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33
Kết quả nghiên cứu về giá bán hải sâm
vú, hải sâm lựu khô ở Nha Trang (Khánh Hòa)
và Phú Quý (Bình Thuận) được trình bày ở
Hình 5.
Hình 5 cho thấy giá cả hải sâm ở Nha
Trang nhìn chung cao hơn ở Phú Quý do ở
Nha Trang, nhu cầu của thị trường cao hơn
và sản lượng đánh bắt của ngư dân trong tỉnh
thấp hơn so với Phú Quý. Từ năm 2012 đến
năm 2015, do sản lượng khai thác tương đối
nhiều nên giá bán hải sâm vú, hải sâm lựu
không cao lắm, phụ thuộc vào khối lượng
thân, dao động từ 300.000 - 400.000 đồng/kg
ở Nha Trang và 150.000 - 300.000 đồng/kg ở
Phú Quý. Giai đoạn từ khoảng năm 2015 - 2017,
giá hải sâm đã tăng cao do nhu cầu tiêu dùng
tăng, sản lượng khai thác thấp và lạm phát, giá
bán dao động từ 350.000 - 600.000 đồng/kg
ở Nha Trang và 300.000 - 450.000 đồng/kg ở
Phú Quý. Ông Phát - Giám đốc Công ty TNHH
Tấn Phát (Bình Thuận) cho biết giá 1 kg hải
sâm khô công ty thu mua là 500.000 đồng/
kg (hải sâm vú) và hải sâm lựu là 300.000
đồng/kg. Giải thích cho sự khác nhau này
là do nguồn hải sâm vú có giá trị dược liệu cao
và sản lượng khai thác được ít nên giá bán
cao hơn. Theo Phạm Xuân Hiệu (2012), giá cả
hải sâm ở khu vực Nha Trang, Phú Quý không
chênh lệch quá lớn với giá cả ở Quảng Ninh.
Kết quả nghiên cứu về thị trường tiêu thụ
cho thấy 100% số người dân được phỏng vấn
cho biết sản lượng hải sâm vú, hải sâm lựu
khai thác được các tiểu thương, thương lái thu
mua để cung cấp cho các nhà hàng và chế
biến khô xuất khẩu (Hình 6). Một phần nhỏ hải
sâm còn lại được người dân sử dụng làm thực
phẩm hàng ngày, có thể kể đến một số món ăn
như cháo hải sâm, hải sản hấp, hải sâm ngâm
rượu (Hình 7).
Một số nhà hàng ở Nha Trang có món hải
sâm như nhà hàng Vườn Nho (đường Củ Chi),
Bờ Kè (đường Cù Huân)
Vậy, giá cả hải sâm ở Nha Trang nhìn chung
cao hơn ở Phú Quý. Từ năm 2012 đến năm
2015, giá tăng từ 300.000 - 600.000 đồng/kg
ở Nha Trang, 150.000 - 450.000 đồng/kg ở
Phú Quý. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là nhà
hàng và xuất khẩu.
4. Giá cả và thị trường tiêu thụ
Hình 5. Biến động giá bán hải sâm vú, hải sâm lựu khô ở Nha Trang (Khánh Hòa)
và Phú Quý (Bình Thuận) giai đoạn 2012 - 2017
34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
1. Kết luận
- Vùng biển vịnh Nha Trang, huyện đảo
Trường Sa, Phú Quý là vùng phân bố cũng
như ngư trường khai thác hải sâm vú, hải sâm
lựu của người dân ở Nha Trang (Khánh Hòa)
và Phú Quý (Bình Thuận).
- Ngư dân khai thác hải sâm bằng nghề lặn
có bình hơi, máy nén khí. Mùa vụ khai thác cao
điểm từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm.
- Kích cỡ hải sâm vú, hải sâm lựu khai thác
là từ 0,3 đến 1,5 kg/con. Sản lượng khai thác ở
cả 2 khu vực Phú Quý và Nha Trang đều giảm
từ năm 2012 đến năm 2017, từ 15 tấn/chuyến
xuống 5 tấn/chuyến và từ 5 tấn/chuyến xuống
2 tấn/chuyến một cách tương ứng.
- Giá cả hải sâm ở Nha Trang nhìn chung
cao hơn ở Phú Quý. Từ năm 2012 đến năm
2015, giá tăng từ 300.000 - 600.000 đồng/kg ở
Nha Trang, 150.000 - 450.000 đồng/kg ở Phú
Quý. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là nhà hàng
và xuất khẩu.
2. Kiến nghị
Cần có những biện pháp nhằm bảo vệ
nguồn lợi hải sâm vú, hải sâm lựu. Cụ thể:
- Quản lý về kích thước hải sâm khai thác.
- Quản lý các khu bảo tồn biển, luân phiên
khai thác giữa các vùng.
- Khuyến khích cộng đồng cùng tham gia
Hình 6. Hải sâm vú, hải sâm lựu phơi khô tại Công ty TNHH Tấn Phát - Phan Thiết, Bình Thuận
Hình 7. Hải sâm vú dùng ngâm rượu
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35
bảo vệ môi trường sinh thái nhất là các rạn san
hô, nơi hải sâm có khả năng sinh sản và phát
triển tốt.
- Nghiên cứu công nghệ sinh sản nhân
tạo bao gồm đặc điểm sinh học sinh sản,
qui trình nuôi vỗ, kích thích đẻ trứng, ương nuôi
ấu trùng và nuôi thương phẩm nhằm phục hồi
nguồn lợi và phát triển thành đối tượng nuôi
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu,
giảm áp lực lên đánh bắt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2011. Thông tư số 01/2011/TT-BNNPTNT ngày 05 tháng 01 năm
2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về việc sửa đổi, bổ sung Danh mục các loài thủy
sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển ban hành kèm theo Quyết định
số 82/2008/QĐ-BNN ngày 17/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, có hiệu lực kể từ
ngày 19 tháng 02 năm 2011.
2. Phạm Xuân Hiệu, 2012. Nghiên cứu nuôi thử nghiệm loài Hải sâm trắng (Holothuria scabra) tại Vườn quốc gia
Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh. Báo cáo tổng kết đề tài.
3. Đào Tấn Hỗ, 1992. Sơ bộ nghiên cứu động vật da gai (Echinodermata) ở vùng đảo Phú Quốc và Thổ Chu. Tạp
chí Sinh học - Viện Khoa học Việt Nam, 14, 12-15.
4. Nguyễn Thị Thanh Thùy, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Thoa, Dương Thị Phượng, 2016. Báo cáo tổng kết
Quỹ gen 2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tra_nguon_loi_hai_loai_hai_sam_vu_holothuria_fuscogilva.pdf