- Chuyển đổi đất lúa có năng suất không cao sang
sản xuất các sản phẩm khác có giá trị kinh tế cao
hơn kết hợp với lựa chọn công thức luân canh, cơ
cấu mùa vụ thích hợp.
- Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa đến các chính
sách như: đầu tư vào khoa học công nghệ; chính
sách đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng kỹ
thuật (hệ thống tưới tiêu, đường giao
thông); chính sách tín dụng, ngân hàng; chính
sách thuế; chính sách phát triển vùng và ngành
hàng; chính sách phát triển các hình thức kinh tế
hợp tác, hợp tác xã và các chính sách phát triển
thị trường.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đất – Một tài nguyên, một tài sản cần được bảo vệ và sử dụng có hiệu quả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bùi Nữ Hoàng Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 60(12/1): 114 - 118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẤT – MỘT TÀI NGUYÊN, MỘT TÀI SẢN CẦN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ SỬ DỤNG
CÓ HIỆU QUẢ
Bùi Nữ Hoàng Anh
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Ảnh: Sưu tầm
TẠI SAO CẦN BẢO VỆ VÀ SỬ DỤNG CÓ
HIỆU QUẢ TÀI NGUYÊN ĐẤT?
Loài người chúng ta được hưởng một món
quà vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng
đó là đất đai. Gần đây, trong báo cáo về suy
thoái đất toàn cầu, Chương trình Môi trường
Liên Hợp Quốc (UNEP) đã khẳng định:
“Mặc cho những tiến bộ khoa học - kỹ thuật
vĩ đại, con người hiện đại vẫn phải sống dựa
vào đất”. Thực tế cho thấy, ở quốc gia nào
cũng vậy, đất là tư liệu đặc biệt trong sản xuất
nông - lâm nghiệp, là đối tượng lao động độc
đáo đồng thời cũng là môi trường sản xuất ra
lương thực, thực phẩm, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, cơ sở
lãnh thổ để phân bố các ngành kinh tế quốc
dân, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng và an ninh. Vấn đề sử dụng đất bền
vững và có hiệu quả, thời gian gần đây, đã trở
thành vấn đề có tính chiến lược trên phạm vi
toàn cầu. Vấn đề đó đặc biệt quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của nhân loại, bởi
nhiều lẽ:
- Thứ nhất, đất đai vừa là tài nguyên vừa là
một tài sản vô cùng quý giá của các dân tộc.
Từ xa xưa, các quốc gia, các dân tộc trên thế
giới đều đã rất coi trọng đất đai và đặc biệt là
đất sản xuất nông nghiệp. Khi chưa có bàn tay
con người can thiệp, đất đai là một thứ tài
nguyên. Song, chính giá trị sử dụng trực tiếp
bắt đầu được hình thành từ sự tác động của
bàn tay con người đã biến đất đai từ một tài
nguyên đã trở thành một tài sản. Đối với một
quốc gia, đất đai là thứ tài sản vô giá, thiêng
liêng và trường tồn với thời gian. Đất đai vô
giá và thiêng liêng là bởi vì các dân tộc của
quốc gia ấy đã bỏ công sức, xương máu để
khai phá, giữ gìn và phát triển. Đất trường tồn
với thời gian bởi đất đai gắn với lịch sử của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và diện tích đất ít
thay đổi theo thời gian.
- Thứ hai, tài nguyên đất có hạn, đất có khả
năng canh tác lại càng ít ỏi. Toàn lục địa, trừ
diện tích đóng băng vĩnh cửu (1.360 triệu
héc-ta) chỉ còn có 13.340 triệu héc-ta. Trong
đó, phần lớn diện tích đó có nhiều hạn chế
cho sản xuất do quá lạnh, khô, dốc, nghèo
dinh dưỡng, hoặc quá mặn, nhiễm phèn, bị ô
nhiễm, bị phá hoại do hoạt động sản xuất
hoặc do bom mìn chiến tranh để lại. Diện tích
đất có khả năng canh tác của lục địa chỉ có
khoảng 3.030 triệu héc-ta. Hiện nhân loại mới
khai thác được 1.500 triệu héc-ta đất canh tác.
- Thứ ba, diện tích tự nhiên và đất canh tác
trên đầu người ngày càng giảm do áp lực của
sự gia tăng dân số, tiến trình đô thị hóa, công
nghiệp hóa và phát triển các hạ tầng kỹ thuật.
Bùi Nữ Hoàng Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 60(12/1): 114 - 118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Diện tích đất canh tác bình quân đầu người
của thế giới, hiện nay, chỉ còn 0,23 ha. Ở
nhiều quốc gia thuộc khu vực châu Á, Thái
Bình Dương diện tích này là dưới 0,15 ha và
ở Việt Nam chỉ còn 0,113 ha. Theo tính toán
của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO), với
trình độ sản xuất trung bình hiện nay trên thế
giới, để có đủ lương thực, thực phẩm, mỗi
người cần có 0,4 ha đất canh tác. Vậy mà diện
tích này vẫn đang trong xu hướng giảm dần.
- Thứ tư, do điều kiện tự nhiên, hoạt động của
con người, hậu quả của chiến tranh nên diện
tích đáng kể của lục địa đã, đang và sẽ còn bị
thoái hóa, hoặc ô nhiễm dẫn tới tình trạng
giảm hoặc mất khả năng sản xuất và gây
nhiều hậu quả nghiêm trọng khác cho môi
trường sống. Trên thế giới hiện có 2.000 triệu
héc-ta đất đã và đang bị thoái hóa, trong đó
1.260 triệu héc-ta tập trung ở châu Á, Thái
Bình Dương. Ở Việt Nam hiện có 16,7 triệu
héc-ta bị xói mòn, rửa trôi mạnh, chua nhiều,
9 triệu héc-ta đất có tầng mỏng và độ phì
thấp, 3 triệu héc-ta đất thường bị khô hạn và
sa mạc hóa, 1,9 triệu héc-ta đất bị phèn hóa,
mặn hóa mạnh. Một mặt, những hậu quả đó
do sự biến đổi của tự nhiên, khí hậu. Mặt
khác, tình trạng ô nhiễm do phân bón, hóa
chất bảo vệ thực vật, chất thải, nước thải đô
thị, khu công nghiệp, làng nghề, sản xuất,
dịch vụ và chất độc hóa học để lại sau chiến
tranh cũng đáng báo động. Hoạt động canh
tác và đời sống còn bị đe dọa bởi tình trạng
ngập úng, lũ quét, đất trượt, sạt lở và thoái
hóa đất, ...
ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA
Với tổng diện tích tự nhiên 331.690 km2 và
dân số 85.789.573 người (2009), Việt Nam là
một quốc gia đất ít, dân lại đông, không
những thế, đến nay một diện tích đất tự nhiên
đáng kể đã và đang bị hoang hoá. Do đó, đối
với nước ta, đất đai càng quý giá, đặc biệt đối
với sản xuất nông nghiệp. Nước ta có các
vùng đất nông nghiệp trù phú như đồng bằng
sông Hồng rộng gần 800 ngàn ha, đồng bằng
sông Cửu Long khoảng 2,5 triệu ha. Nhưng
hiện cả hai vùng này đều bị chia nhỏ, manh
mún khiến cho việc hiện đại hóa các công trình
thủy nông gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, diện
tích đất nông nghiệp đang bị giảm dần.
Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, diện tích
đất nông nghiệp tăng từ 8.793.783 ha (năm
2000) lên 9.363.063 ha (năm 2010). Tuy
nhiên, dân số nước ta cũng tăng từ 77.635.400
người (năm 2000) lên 86.408.856 người
(2010). Bình quân diện tích đất nông nghiệp
trên đầu người của cả nước lại có xu thế giảm
từ 0,113 ha (2000) xuống 0,108 ha (2010).
Như vậy, trong 10 năm (2000-2010), bình
quân diện tích đất nông nghiệp giảm 50
m2/người, hằng năm giảm 5 m2/người. Số
liệu tổng hợp ở bảng dưới đây nói lên điều đó.
Theo GS. Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng, dự báo
đến năm 2010, đất nông nghiệp của Việt Nam
sẽ giảm mà nguyên nhân chủ yếu là do quá
trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Có thể
thấy tình trạng đó cũng diễn ra ở một số nước
châu Á từ thập niên 1980 – 1990 đến nay. Ở
một số nước mà cây lúa nước vốn là cây
lương thực chính, tỷ lệ mất đất canh tác hàng
năm là rất đáng kể. Có thể thấy điều đó qua số
liệu tổng hợp ở bảng 2. Đáng lưu ý là tình
trạng mất đất canh tác ở nhiều nơi lại rơi vào
diện tích đất màu mỡ đang còn mang lại giá
trị sản xuất cao cho người dân. GS Lê Văn
Tiềm (Viện Khoa học Nông nghiệp) cho biết:
“Đất canh tác bị mất còn do các công trình
thủy điện. Hồ chứa nước của các công trình
này làm ngập các thung lũng, là nơi tập trung
chủ yếu ruộng lúa nước vốn rất quý hiếm ở
miền núi. Ruộng ở đó không bị xói mòn, có
thể cấy 2 vụ, bình quân cả năm thu được 8 tấn
thóc/ha, gấp nhiều lần so với ruộng nương
sườn đồi núi. Tuy nhiên, thông tin về các
công trình thủy điện làm ngập hết bao nhiêu
ha ruộng lúa còn rất ít”. Chúng ta cũng có thể
thấy điều này khi đi dọc theo đường quốc lộ
số 5, nhiều cánh đồng màu mỡ hai bên đã bị
phủ kín bằng những lớp cát dầy chuẩn bị cho
sự xuất hiện của những công trình mới. Về
chất đất, vấn đề đáng báo động hiện nay là
tình trạng suy giảm chất lượng đất nông
nghiệp do rửa trôi, xói mòn, khô hạn và sa
mạc hóa, mặn hóa, phèn hóa, chua hóa, thoái
hoá lý hóa học đất, ô nhiễm... Ngoài việc chặt
phá rừng đầu nguồn, sử dụng hóa chất không
đúng cách trong canh tác, những năm gần
đây, hàng loạt sân golf lớn nhỏ (có những sân
có diện tích rộng trên vài chục ha) xuất hiện
Bùi Nữ Hoàng Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 60(12/1): 114 - 118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
một cách ồ ạt làm cho đất đai bị ảnh hưởng
theo chiều hướng tiêu cực. Để xây dựng
những sân golf đó, người ta chặt cây rừng,
san ủi hàng triệu khối đất đá, thay đổi địa
hình, phá vỡ cảnh quan tự nhiên để cho ra đời
nhiều “điểm đến xanh”, “thiên đường
xanh” mà ẩn dấu phía sau là những mảng
xám gây hại cho môi sinh, xã hội. Theo phân
tích của một số nhà khoa học trong lĩnh vực
trồng trọt, để có thảm cỏ trải dài, phẳng mịn,
xanh, thì theo định kỳ, cần một lượng lớn
hóa chất đổ xuống để diệt nấm và sâu bệnh.
Số liệu của Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ
(EPA) cho thấy, lượng hóa chất trung bình sử
dụng cho sân golf mỗi năm là 1,5 tấn/ha, lớn
gấp ba lần số hóa chất cho một khu canh tác
nông nghiệp bình thường. Điều đó gây hậu
quả khôn lường đến đời sống lâu dài của con
người. Và không ai khác, chính thế hệ con
cháu chúng ta phải gánh chịu hậu quả đó.
Suy thoái chất lượng đất dẫn tới việc giảm
khả năng sản xuất, giảm đa dạng sinh học và
nhiều hậu quả khác.
Bảng 1. Quy hoạch sử dụng nhóm đất nông nghiệp toàn quốc đên năm 2010
Loại đất
Hiện trạng
năm 2000
Quy hoạch
đến năm 2010
Tăng (+), giảm (-)
2000-2010
Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu
(ha) (%) (ha) (%) (ha) (%)
Tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp 20.388.116 100,00 25.627.416 100,00 +5.239.300
I. Đất sản xuất nông nghiệp 8.793.783 43,13 9.363.063 36,54 +569.280 -6,59
1. Đất trồng cây hàng năm 6.167.093 6.147.486 -19.607
1.1.Đất trồng lúa 4.467.770 3.996.054 -471.716
1.2. Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 37.575 289.271 +251.696
1.3. Đất trồng cây hàng năm khác 1.661.748 1.862.161 +200.413
2. Đất trồng cây lâu năm 2.258.844 2.656.893 +398.049
3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 367.846 558.684 +190.838
4.Đất nông nghiệp khác
II. Đất lâm nghiệp 11.575.429 56.78 16.243.669 63.38 +4.668.240 +6,60
1. Đất rừng sản xuất 4.733.684 7.701.897 +2.968.213
2. Đất rừng phòng hộ 5.398.181 6.562.777 +1.164.596
3.Đất rừng đặc dụng 1.443.162 1.977.847 +534.685
4. Đất ươm cây giống 402 402 +746
III. Đất làm muối 18.904 0.09 20.684 0.08 +1.780 -0,01
Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bảng 2. Tỷ lệ mất đất nông nghiệp hàng năm của một số nước châu Á trong thập niên 1980-1990
Đơn vị tính: %
Nước Trung Quốc Hàn Quốc Đài Loan Nhật Bản Việt Nam
Tỷ lệ 0,5 1,4 2,0 1,6 0,4
Nguồn: Hội thảo “Sử dụng tài nguyên đất ở Việt Nam với định cư đô thị và nông thôn” ngày 24-25/5/2007.
Bảng 3. Giá trị lương thực nhập khẩu của một số nước châu Á
Đơn vị tính: tỷ USD
Nước Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan Ma-lai-xia
Giá trị lương thực
nhập khẩu
23,7 4,6 2,5 1,3
Bùi Nữ Hoàng Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 60(12/1): 114 - 118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguồn: Theo Việt Báo
Bùi Nữ Hoàng Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 60(12/1): 114 - 118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Những tác động tiêu cực trên đây ảnh hưởng
trực tiếp đến hơn 50% diện tích đã và đang sản
xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là thách thức
to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp bền
vững ở nước ta. Mặt khác, việc sử dụng đất còn
lãng phí, chỉ tính riêng ở 68 nông trường quốc
doanh và 33 vùng kinh tế mới và chuyên canh
trước đây đã có trên 30.000 ha sau khi khai
hoang lại bị bỏ hóa trở lại, không đưa vào sản
xuất nông, lâm nghiệp. Mà lịch sử đã chứng
minh rằng, sản xuất nông nghiệp phải được tiến
hành trên đất tốt mới có hiệu quả. Tuy nhiên, để
hình thành đất với độ phì nhiêu cần thiết cho
canh tác nông nghiệp phải trải qua hàng nghìn
năm, thậm chí hàng vạn năm. Vì vậy, ngày nay,
mỗi khi sử dụng đất đang sản xuất nông nghiệp
cho các mục đích khác cần cân nhắc kỹ để
không rơi vào tình trạng chạy theo lợi ích trước
mắt để rồi lại phải đương đầu với cái đói. Trước
mắt, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu lương thực
khá ổn định, an ninh lương thực cấp quốc gia
chưa phải là điều đáng quan ngại. Nhưng, cứ với
tốc độ chuyển đổi đất như hiện nay thì trong
tương lai, vấn đề an ninh lương thực-thực phẩm
(ANLT-TP) sẽ trở thành một trong nhiều thách
thức. Theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn, dự tính nhu cầu lương thực của cả nước
năm 2010 là 42 triệu tấn (tăng 5 triệu so với năm
2005). Với diện tích gieo trồng lúa hiện nay là
7,15 triệu ha thì có thể đạt sản lượng 39 triệu tấn
thóc ( với hệ số sử dụng đất trồng 1,8). Như vậy,
nhu cầu lương thực vẫn có thể không được đáp
ứng đầy đủ. Trong khi đó, để đảm bảo đến năm
2010 vẫn giữ được diện tích trên là một khó
khăn lớn trước sức ép của sự gia tăng dân số và
sức ép của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Một thực tế khác nữa là, Mức sẵn có về
lương thực phân bố không đều giữa các vùng,
nếu như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là
1.106kg/người/năm thì đồng bằng sông Hồng là
342kg/người/năm, còn Đông Bắc, Tây Bắc, Tây
nguyên nhìn chung chỉ đạt dưới
200kg/người/năm. Theo kinh nghiệm thế giới thì
lương thực thực phẩm phải ở mức 500
kg/người/năm thì mới đảm bảo ANLT-TP. Ở
nước ta, hiện nay trong khi một lượng gạo lớn
cần xuất khẩu thì hàng năm vẫn có khoảng 6,7%
số hộ thiếu đói lương thực. Thực tế cho thấy, ở
một số nước châu Á, sản lượng lương thực đã
giảm mạnh khi diện tích đất trồng lúa bị mất.
Nông nghiệp các nước này chỉ còn chiếm dưới
10% GDP (Hàn Quốc còn 3,2% GDP, Đài Loan
là 4% GDP). Với lợi nhuận thu được từ công
nghiệp, các nước này nhập khẩu lương thực. Giá
trị nhập khẩu lương thực trong thời gian gần đây
của một số nước như sau:
Từ thực tế trên ta thấy, để giải quyết tốt vấn đề
an ninh lương thực trong khi vẫn cần đảm bảo
thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa –
hiện đại hóa thì cần sử dụng đất tiết kiệm, có
hiệu quả và bền vững, trong đó cần quan tâm
quản lý tốt cả về số lượng và chất lượng đất đai.
Bên cạnh đó, việc dùng đất cho công nghiệp và
đô thị cần phải được tính toán thận trọng hơn.
Chúng ta không thiếu đất làm công nghiệp.
Nhiều nước trên thế giới thường quy hoạch khu
công nghiệp ở các vùng đất xấu. Bài học Nhật
Bản cho thấy họ tiết kiệm từng mét vuông đất
nông nghiệp.
CẦN LÀM GÌ ĐỂ SỬ DỤNG ĐẤT CÓ HIỆU
QUẢ VÀ BỀN VỮNG?
Với đặc điểm riêng biệt và vai trò vô cùng quan
trọng của loại tài nguyên-tài sản này, sử dụng
đất có hiệu quả và bền vững trong bối cảnh hiện
nay nổi lên như một vấn đề cấp bách cần giải
quyết. Sử dụng đất đai có hiệu quả sẽ vừa đáp ứng
được những đòi hỏi trước mắt vừa thỏa mãn được
những yêu cầu của sự phát triển bền vững của một
quốc gia và toàn cầu trong tương lai. Để sử dụng
đất có hiệu quả và bền vững cần phối hợp đồng bộ
hàng loạt các giải pháp liên quan đến nhiều mặt,
đó là:
- Tuyên truyền để nâng cao nhận thức của dân
chúng về vai trò của đất đai và phát động quần
chúng thực hiện các hoạt động cải tạo và bảo vệ
đất.
- Ưu tiên sử dụng đất tốt cho nông nghiệp, dành
đất xấu (có khả năng sản xuất thấp) cho các mục
đích phi nông nghiệp.
- Điều hòa giữa áp lực của sự gia tăng dân số và
tăng trưởng về kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu sử
dụng đất bền vững.
- Áp dụng quy trình và công nghệ canh tác thích
hợp theo từng vùng, tiểu vùng, đơn vị sinh thái và
hệ thống cây trồng. Quản lý hệ thống nông
nghiệp một cách khoa học nhằm đảm bảo khả
Bùi Nữ Hoàng Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 60(12/1): 114 - 118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
năng cung cấp sản phẩm tối đa về lâu dài, đồng
thời duy trì độ phì nhiêu đất.
- Bảo đảm phát triển tài nguyên rừng nhằm thỏa
mãn nhu cầu về thương mại, chất đốt, xây dựng
và dân dụng mà không làm mất nguồn nước và
thoái hóa và sạt lở đất.
- Sử dụng đất trên cơ sở quy hoạch sao cho bảo
đảm lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của
người sử dụng đất và cộng đồng. Khi phân bố sử
dụng đất cho các ngành kinh tế quốc dân cần sử
dụng bản đồ, tài liệu về đất để đánh giá phân
hạng đất đai. Có như vậy thì mới nâng cao được
chất lượng quy hoạch và dự báo sử dụng lâu dài.
- Mỗi địa phương cần xây dựng và thực hiện
chiến lược phát triển đa dạng, khai thác tổng hợp
đa mục tiêu: nông - lâm kết hợp, chăn nuôi dưới
tán rừng, nông - lâm và chăn nuôi kết hợp, nông
- lâm - ngư kết hợp, nông ngư kết hợp... phù hợp
với đặc điểm riêng của từng vùng và quy hoạch
tổng thể.
- Quản lý lưu vực để bảo vệ đất và nước, phát
triển thủy lợi, giữ vững cân bằng sinh thái nhằm
duy trì sự tác động hỗ trợ lẫn nhau giữa đồng
bằng và vùng đồi núi.
- Phát triển ngành công nghiệp phân bón và nâng
cao hiệu quả sử dụng phân bón thông qua viêc
phối hợp tốt giữa phân bón hữu cơ, vô cơ, phân
sinh học, vi lượng, trên cơ sở kết quả nghiên cứu
phân tích đất, đặc điểm đất đai và nhu cầu dinh
dưỡng của cây. Trong canh tác nông nghiệp, cần
quan tâm thâm canh ngay từ đầu, thâm canh liên
tục và theo chiều sâu.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản
lý và bảo tồn tài nguyên đất. Tiếp tục đẩy mạnh
công tác khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao
tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giao đất, giao rừng,
cho dân vay vốn phát triển sản xuất, thâm canh
nhằm xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm an toàn
lương thực.
- Đẩy mạnh hợp tác giữa các tổ chức trong nước,
khu vực và quốc tế trong việc thực hiện các
chính sách, chương trình, dự án và kế hoạch
hành động bảo vệ và sử dụng đất có hiệu quả và
bền vững.
- Chuyển đổi đất lúa có năng suất không cao sang
sản xuất các sản phẩm khác có giá trị kinh tế cao
hơn kết hợp với lựa chọn công thức luân canh, cơ
cấu mùa vụ thích hợp.
- Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa đến các chính
sách như: đầu tư vào khoa học công nghệ; chính
sách đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng kỹ
thuật (hệ thống tưới tiêu, đường giao
thông);chính sách tín dụng, ngân hàng; chính
sách thuế; chính sách phát triển vùng và ngành
hàng; chính sách phát triển các hình thức kinh tế
hợp tác, hợp tác xã và các chính sách phát triển
thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Trọng Phương, Đánh giá hiệu quả sử dụng
đất của nông hộ dưới tác động của chính sách giao
đất ổn định lâu dài và các quyền sử dụng đất trên địa
bàn huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ, TC Nông nghiệp
và phát triển nông thôn . -2006. -No 2. -p. 16-21. -
(vie). -ISSN 0866-7020.
[2]. DeFries, R. S., G. P. Asner, and R. A. Houghton,
editors. 2004. Ecosystems and Land Use Change.
American Geophysical Union, Washington, DC.
[3]. Foley, J. A., R. DeFries, G. P. Asner, C. Barford,
G. Bonan, S. R. Carpenter, F. S. Chapin, M. T. Coe,
G. C. Daily, H. K. Gibbs, J. H. Helkowski, T.
Holloway, E. A. Howard, C. J. Kucharik, C.
Monfreda, J. A. Patz, I. C. Prentice, N. Ramankutty,
and P. K. Snyder. 2005. Global consequences of land
use. Science 309:570-574.
[4]. Global Land Project. 2005. Science Plan and
Implementation Strategy. IGBP Report No. 53/IHDP
Report No. 19, IGBP Secretariat, Stockholm.
[5]. Meyer, W. B., and B. L. Turner. 1994. Changes
in Land Use and Land Cover: A Global Perspective.
Cambridge University Press, Cambridge England;
New York, NY, USA.
[6]. Ruddiman, W. F. 2003. The anthropogenic
greenhouse era began thousands of years ago.
Climatic Change 61:261-293.
[7]. Turner II, B. L., W. C. Clark, R. W. Kates, J. F.
Richards, J. T. Mathews, and W. B. Meyer. 1990.
The Earth as Transformed by Human Action: Global
and Regional Changes in the Biosphere Over the
Past 300 Years. Cambridge University Press with
Clark University, Cambridge; New York.
[8].
[9].
dat-nong-nghiep-de-bao-dam-an-ninh-luong-
thuc/2008/5/231783.
[10]. ảo vệ
nghiêm ngặt đất nông nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dat_mot_tai_nguyen_mot_tai_san_can_duoc_bao_ve_va_su_dung_co.pdf