- Triết học Mac-Lênin, trên cơsởgiải thích đúng đắn và khoa học vềcon người, vềbản chất con người, đã xác định “bất kỳ
sựgiải phóng nào cũng bao hàm ởchỗlà nó trảthếgiới con người, những quan hệcủa con người vềvới bản thân con
người”, “là giải phóng người lao động thoát khoải lao động bịtha hóa”. Có thểnói rằng , vấn đề“tha hóa con người” và
giải phóng con người chiếm vịtrí trung tâm trong quan niệm của C.Mác về đời sống xã hội. “Tha hóa” là biến thành cái
bản chất khác với bản chất ban đầu. “Tha hóa con người”, theo C.Mác là con người không còn là chính mình mà trởthành
tồn tại khác, cái đối lập với mình. Và nguyên nhân của sự“tha hóa con người” là do chế độtưhữu vềtưliệu sản xuất và sự
nô dịch nhiều mặt đối với con người gây ra.
- Theo triết học Mac-Lênin, sự“tha hóa con người” là do hoạt động của chính con người tạo ra, vì thế, con người bằng
hoạt động tích cực của mình, có thểxoá bỏ được sự“tha hóa” cho mình.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3746 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu ĐÁP ÁN 30 CÂU TRIẾT PHẦN 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên và phổ biến trong đời sống xã hội, quy định sự tồn tại
của toàn thể xã hội.
Mác cho rằng tiền đề đầu tiên của tất cả mọi sự tồn tại của người, và do đó, cũng là tiền đề của mọi quá trình lịch sử,
đó là:” người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có
thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư
liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”.
Nhu cầu và lợi ích của con người quy định hành vi lịch sử đầu tiên và là động lực thúc đẩy con người hoạt động,
phát triển. Khi nhu cầu này được thoả mãn thì ngay lập tức xuất hiện nhu cầu mới. Cứ như vậy, nhu cầu của con người là
động lực thúc đẩy sự phát triển của chính con người và qua đó là động lực phát triển của cả xã hội.
Để thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lợi ích cho mình, con người phải liên kết trong các cộng đồng, tức hệ thống các mối
liên hệ giữa cá nhân con người cụ thể, từ đó tạo thành xã hội.
Khi đề cập tới hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là hành vi lịch sử đầu tiên của con người, Mác cũng đồng
thời chỉ ra các hoạt động sản xuất khác của con người như hoạt động sản xuất tinh thần và hoạt động sản xuất ra bản thân
con người, cũng như các quan hệ xã hội khác. Trong hoạt động đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò là nền tảng, là
cơ sở cho toàn bộ đời sống xã hội và là điểm đánh dấu sự khác biệt cơ bản giữa con người và con vật. Mác viết: “ Bản thân
con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”.
Chính thông qua sản xuất vật chất để duy trì tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời
sống vật chất và tinh thần phong phú của xã hội. Do đó, việc xuất phát từ con người hiện thực để nghiên cứu đời sống xã
hội đòi hỏi phải bắt đầu từ sản xuất vật chất của họ, qua đó đi đến việc xem xét các mặt khác của xã hội nhằm tìm ra các
quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội.
Từ việc nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất, Mác phát hiện ra 2 mặt không tách rời nhau là lực lượng sản xuất
(quan hệ giữa con người với tự nhiên ) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa con người với con người). Hai mặt này của sản
xuất vật chất tồn tại thống nhất với nhau, tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác động qua lại giữa chúng trong một phương
thức sản xuất đã tạo nên quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động sản xuất, Mác đi tới việc nghiên cứu các mặt của đời sống xã hội như chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo…có liên hệ ràng buộc với nhau. Ở đây, Mác đã phát hiện ra các quy luật: cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; phương thức sản xuất quyết định mọi mặt của đời
sống xã hội. Từ kết quả này, trong tư duy Mác hình thành quan niệm cho rằng xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt liên
hệ, tác động lẫn nhau làm cho xã hội vận động và phát triển theo các quy luật khách quan; tuy nhiên các quy luật đó không
tác động bên ngoài hoạt động sống có ý thức của con người cụ thể. Xã hội là sự thống nhất mặt khách quan và mặt chủ
quan.
Tóm lại, xuất phát từ vai trò quyết định của sản xuất vật chất, Mác đã phân tích một cách khoa học mối quan hệ của
tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội; cũng như phát hiện ra các quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát
triển của xã hội. Trên cơ sở đó, Ông đã đi tới sự khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế xã hội.
15
Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Trả lời:
I Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)
1.1 khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1PTSX : là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài
người.
Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.
PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài ngưòi từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là LLSX, mặt khác là quan hệ giữa
người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX
tương ứng.
1.2 LLSX : là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. LLSX biểu hiện quan
hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất, con người phải chinh phục giới tự nhiên bằng
các sức mạnh hiện thực của mình.
LLSX bao gồm : Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)
* TLSX : bao gồm :
+Đối tượng lao động : một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
+ Tư liệu lao động : Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.
Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Chính sự cải
tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân
sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
*Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lươngj tích cực cải
biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động sống, đó chính là con người, với những kỹ năng, kỷ xảo, với
trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Hàm lượng trí tuệ trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay đã làm cho con người
trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
1.3 QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể hiện qua 3 mặt : Quan hệ giữa
ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý, quan hệ giữa
người với người đối với việc phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những
quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những TLSX chủ yếu trong xã hội
được giải quyết như thế nào.
Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
II. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:
LLSX và QHSX là hai m?t c?a PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành nên quy luật về sự phù hợp
giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự
phát triển của LLSX. Đến lượt mình, QHSX tác động trở lại đối với LLSX. Khuynh hướng chung của SX là không nhừng
phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là CCLĐ.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động, quy
mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của LLSX gắn với tính chất của LLSX. Tính chất của LLSX : Khi SX
còn trình độ thấp kém thì LLSX có tính chất cá nhân, khi SX đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội
phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con
người luôn luôn tìm cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn,
đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự phát triển của LLSX, QHSX
cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sự phù hợp đólà động lực làm cho LLSX phát
trỉen mạnh mẽ.
QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và người lao động. Mở ra điều kiện thích hợp cho
việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Nhưng LLSX luôn luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương
đối ổn định. Khi LLSX phát triển lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp nữa, trở thành chướng ngại đối với sự
phát triển của nó sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của PTSX. Sự phát triển khách đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ
QHSX cũ, thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của LLSX, mở đường cho LLSX phát triển.
Việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng QHSX mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một PTSX lỗi thời và sự ra đời của
PTSX mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa LLSX mới và QHSX lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc
đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn
16
bộ tiến trình lịch sử nhân loại “Quy luật QHSX phù hợp với trình độ PT của LLSX”. QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX lại trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho LLSX phát triển. QHSX không phù hợp với trình độ của
LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Song tác động kìm hãm đó cũng chỉ có tính chất tạm thời, theo tính tất yếu
khách quan, cuối cùng QH cũng se phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sở dĩ QHSX có tác động
trở lại mạnh mẽ với LLSX là vì nó qui định: Mục đích của SX, hệ thống quản lý của SX và quản lý xã hội, Phương thức
phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Từ đó, nó sẽ tạo ra những điều kiện để kích thích
việc cải tiến lao động và kỹ thuật sản xuất, thúc đẩy LLSX phát triển. Thực tiễn đã cho thấy LLSX chỉ có thể phát triển khi
có một QHSX hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũnhg sẽ kìm hãm sự
phát triển của LLSX. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật chung nhất của sự
phát triển XH. Sự tác động cảu quy luật này đã đưa xã hội loài ngưòi trải qua các PTSX khác nhau. Tuy nhiên không phải
bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua các PTSX, một số nước có thể bỏ qua hợc một số các PTSX để tiến lên
PTSX mới cao hơn.
CÂU 21: Anh/ Chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến triến thượng tầng
(KTTT). Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào vào quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta hiện nay.
Trả lời:
* CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
* KTTT là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo...,các thể chế xã hội tương ứng
như Nhà nước, đảng phái, giáo hội… được hình thành trên một CSHT nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
- CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTT nấy):
+ Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu thuẫn trong chính trị.
Giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính trị.
+ Tất cả các yếu tố của KTTT dều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy định.
+ CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho một KTTT mới ra đời,
tuy nhiên đây là một quá trình phức tạp.
- Sự tác động của KTTT đến CSHT: Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối và vai trò khác nhau
nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những xu hướng khác nhau.
+ Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu
hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành.
+ KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng phát triển khách quan
của đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo 2 hướng:
. Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng, đảm bảo sự phát triển bền
vững cho CSHT.
. Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự tăng trưởng, gây bát ổn cho đời
sống xã hội
* Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này trong quá trình xây dựng CHXH ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ xã hội cộng sản nguyên thủy tiến lên xã hội chiếm
hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến rồi tiến hóa lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao nhất trong quá
trình tiến hóa này là chủ nghĩa cộng sản. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng CNXH theo hướng xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là 1 quá trình đấu
tranh lâu dài giữa cái mới và cái cũ. CNXH đang trong quá trình xây dựng nên là cái mới còn rất non yếu, muốn xóa bỏ
hết tàng dư của xã hội cũ - đại diện cho cái cũ rất khó bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên con đường đi lên CNXH ở
nước ta diễn ra theo các quy luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết
định nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày càng phát triển và ngược lại cái cũ không hợp quy luật sẽ ngày
càng yếu đi.
Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Quá trình xây dựng này đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo...,các thể chế xã hội tương ứng như Nhà
nước, đảng phái, giáo hội cho phù hợp với sự phát triển của phương thức sản xuất mà Đảng đã đề ra để góp phần xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 22: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng của Mac: “sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự
nhiên”
17
* Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: HTKT-XH là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu qhsx đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của llsx, và với một kttt
tương ứng được xây dựng trên những qhsx ấy.
HTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh và có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là llsx, qhsx, kttt. Mỗi mặt
của htkt-xh có vai trò, vị trí riêng, tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
+ LLSX: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi htkt-xh. Sự hình thành và phát triển của mỗi htkt-xh xét đến cùng do
llsx quyết định. Llsx phát triển qua các htkt-xh nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
+ QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất
cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi htkt-xh lại có một kiểu qhsx của nó tương ứng với trình độ nhất định của llsx. Qhsx là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử
+ KTTT: được hình thành và phát triển phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển
CSHT đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản nêu trên, các htkt-xh còn có quan hệ về gia đình, dân tộc, và các quan hệ xã hội khác. Các quan
hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với qhsx, biến đổi cùng với sự biến đổi của qhsx.
* Sự phát triển của các htkt-xh là một quá trình lịch sử tự nhiên:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao, tương ứng với mỗi giai
đoạn là một htkt-xh. Sự vận động thay thế nhau của các htkt-xh trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan,
đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật phát triển khách quan của xã hội, Mac đã đi
đến kết luận: “sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”.
Các mặt cơ bản hợp thành một htkt-xh không tách rời nhau mà liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những qui
luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx; quy luật csht
quyết định kttt và các quy luật xã hội khác. Chính tác động của các quy luật khách quan đó mà các htkt-xh vận động phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện
vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của llsx. Chính tính chất và trình
độ phát triển của llsx đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của qhsx. Do đó xét đến cùng llsx quyết định
quá trình vận động và phát triển của htkt-xh như quá trình lịch sử tự nhiên
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các htkt-xh thì quy luật về sự phù hợp của qhsx
với tính chất và trình độ phát triển của llsx có vai trò quyết định nhất. Llsx bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên
của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Qhsx là mặt thứ hai của ptsx biểu hiện tính gián đoạn trong
sự phát triển của lịch sử. Những qhsx lỗi thời được xóa bỏ và được thay thế bằng những kiểu qhsx mới cao hơn. Đến lượt
nó, sự thay đổi qhsx sẽ kéo theo sự thay đổi về kttt, và do đó mà htkt-xh cũ được thay thế bằng htkt-xh mới cao hơn, tiến bộ
hơn. Quá trình đó diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người.
Sự thay thế một htkt-xh này bằng một htkt-xh mới cao hơn thường được thực hiện thông qua cách mạng xã hội.
Nguyên nhân sâu sa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa llsx và qhsx, khi qhsx trở thành xiềng xích của llsx. Trong
thời kỳ cách mạng xã hội khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn toàn bộ kttt đồ sộ cũng thay đổi theo
Quá trình kế thừa của lịch sử loài người luôn luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong điều kiện nhất định do tác động
của các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có thể bỏ qua các giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ
tiên tiến của nhân loại. Trong thời đại ngày nay chủ chương rút ngắn để đi lên CNXH ở một số quốc gia tiền tư bản chủ
nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử- tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh
động của quá trình lịch sử- tự nhiên ấy. Chỉ khi ta “rút ngắn ”một cách duy ý chí, bấp chấp quy luật thì lúc đó sự phát triển
rút ngắn mới trở nên đối lập với quá trình lịch sử- tự nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường tuần tự mà còn bao
hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định, một hoặc một vài htkt-xh nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát
triển vẫn là quá trình lịch sử- tự nhiên.
Câu 24: Phân tích Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
a. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
Trong quá trình quá độ lên CNXH chúng ta cần phải biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh
điển MÁC-Lenin, nhất là tư tưởng của Lê nin về những khâu trung gian, những bước quá độ tất yếu để đưa một xã hội tiểu
nông, lạc hậu lên CNXH; lại vừa biết tổng kết lịch sử của đất nước và của thế giới với những biến đổi to lớn của nó. Điều
quan trọng là quá trình đi lên CNXH, chúng ta cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu khách quan của sự phát triển,
tuân theo những qui luật khách quan của sự phát triển từ xã hội nông nghiệp lạc hậu lên CNXH. Tuyệt đối không có những
18
hành động chủ quan, duy ý chí, trái với qui luật khách quan. Phải hiểu rằng quá độ gián tiếp lên CNXH , bỏ qua chế độ
TBCN là con đường phù hợp với điều kiện đất nước và thời đại ngày nay.
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra biến đổi về chất của XH trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, cho nên phải phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống XH diễn ra sự đan xen và đấu tranh của cái củ và cái mới.
b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam:
- Lý luận hình thái kinh tế - XH chỉ ra, mỗi hình thái KT-XH có một lực lượng sản xuất của nó, hay nói cách khác,
có một cơ sở vật chất-kỹ thuật của nó. Để có CNXH phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc CM khoa học và
công nghệ mang lại. Song, nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ
yếu, cái thiếu thốn của chúng ta là chưa có một nền đại công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Thực chất của công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nước ta trên cơ sở phát huy năng lực nội
sinh của đất nước cũng như xu thế quốc tế hóa kinh tế thế giới. đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên
CNXH.
- Trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phát triển mạnh mẽ một nền khoa học và công nghệ
tiên tiến, hiện đại. Phải coi phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế
của thế giới ngày nay trong xu thế hợp tác, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX cuả Đảng ta đã đề ra: “con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được những trình độ
công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức
cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam: coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hó hiện đại hóa.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nước ta.
c. Kết hợp giữa LLSX với xây dựng QHSX trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam.
- Trong khi khẳng định vai trò của LLSX, lý luận hình thái kt-xh còn chỉ ra, sự phát triển của LLSX phải gắn liền với
việc thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định “Phát triển LLSX
gắn liền với QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
- Phù hợp với sự phát triển của LLSX ở nước ta, đảng ta chủ trương sử dụng “nhiều hình thức sở hữa về TLSX,
nhiều thành phần kinh tế”. đồng thời thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
- Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển LLSX đến một trình
độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội và đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị
trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
vừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX ở nước ta, với yêu cầu xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH
nâng cao đời sống của nhân dân.
d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt
Nam.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH mà lý luận hình thái kt-xh đã
chỉ ra, trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vài trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ.
19
Đồng thời, phải gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, theo quan điểm của đảng ta, đó là quốc sách
hàng đầu, giải quyết các vấn đề XH, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống XH.
Trong quá trình phát triển văn hóa, cần phải đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo. Phải coi giáo dục
và đào tạo cũng là quốc sách hàng đầu. Điều này vừa phù hợp với xu thế phát triển hiện đại, lại vừa là đòi hỏi cấp bách của
sự phát triển đất nước.
Tóm lại: lý luận hình thái kt-xh là một lý luận khoa học. nó cho chúng ta một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ lẫn
nhau giữa các mặt trong đời sống kt-xh, về sự vận động và phát triển của XH. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn
hiện nay, lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng
trong đời sống XH, để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Câu 25: Anh/Chi hay phan tich nhung cong hien to lon cua C.Mac, Ph.Angghen va V.I.Lenin vao su phat trien ly
luan ve giai cap va dau tranh giai cap?
Nguồn gốc giai cấp: C.Mác và Ph.angghen đều khẳng định giai cấp không phải là hiện tượng bẩm sinh của xã hội,
không xất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội. Trong xã hội nguyên thủy khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, con
người làm ra sản phẩm chỉ để tồn tại, chưa có sản phẩm dư thừa, chưa có điều kiện khách quan để người này chiếm đoạt
sản phẩm của người khác, xã hội chưa xuất hiện chế độ người bóc lột người và do đó chưa thể có giai cấp. Cuối xã hội
nguyên thủy, công cụ sản xuất bằng kim loại xuất hiện, có sự phân công lao động làm cho lực lượng sản xuất phát triển
mang lại năng suất lao động cao hơn, từ đó dẫn đến của cải dư làm của riêng, chế độ tư hữu ra đời. Chế độ tư hữu làm cơ sở
cho sự phân hoá xã hội thành các gia cấp có lợi ích đối kháng nhau.
Giai cấp : là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như
vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Nói đến giai cấp là nói
đến một hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định, do chế độ ấy sản sinh ra; mỗi giai cấp trong
lịch sử đều có đặc điểm riêng, tuy nhiên theo LêNin cho phép ta nắm được dấu hiệu đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất,
những dấu hiệu phổ biến và ổn định nhất của giai cấp.
Giai cấp là phạm trù kinh tế xã hội có tính lịch sử; giai cấp không phải là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản
phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử; một hệ thống giai cấp tương ứng với môt hệ thống sản xuất xã
hội, do đó không thể hiểu đặc trưng của từng giai cấp cụ thể nếu không đặt nó trong mối quan hệ với các giai cấp đối lập
khác
Nói đến giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế xã hội nhất
định, trong đó tập đoàn người này là thống trị, còn tập đoàn người kia là bị trị; sự khác nhau ấy thể hiện ở chỗ:
Các giai cấp có quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất; đây là sự khác nhau cơ bản nhất, quy định sự khác nhau về địa
vị của các giai cấp trong xã hội (ví dụ).
Các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý sản xuất; tập đoàn nào chiếm
hữu tư liệu sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa tại từng đơn vị
kinh tế và trên quy mô toàn xã hội.
Các giai cấp có phương thức và qui mô thu nhận của cải xã hội khác nhau các giai cấp thống trị chiếm đoạt giá trị
thăng dư của các giai cấp bị trị; chế độ phân phối trong xã hội có giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất công vì phần
lớn của cải nằm trong tay giai cấp thống trị, phần ít ỏi còn lại thuộc về lực lượng đông đảo trong xã hội đó là những người
lao động. Tóm lại, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất thì giai cấp đó sẽ nắm quyền quản lý, tổ
chức sản xuất và quyền chi phối sản phẩm, giai cấp đó sẽ có địa vị trong xã hội.
Đấu tranh giai cấp: Gia cấp thống trị và giai cấp bị trị có lợi ích căn bản đối lập nhau không thể đều hoà đều hoà
được. Đó là đối kháng về quyền lợi giữa những giai tầng áp bức bóc lột và những giai tầng bị bóc lột, có áp bức thì có đấu
tranh chống áp. V.I.Lênin cho rằng đấu tranh giai cấp trong lịch sử và trong thời đại ngày nay không phải là cuộc bạo loạn,
khủng bố, lật đổ chỉ có ý ngĩa phá hoại tiêu cực , mà thực chất là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước heat quyền, bị áp
bức và lao động, chống bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm
thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
20
Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lạc hậu được giải
quyết, thực hiện bước quá độ từ một chế độ xã hội lỗ lời sang chế độ mới cao hơn.
Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp không chỉ thể hiện trong thời kỳ cách mạng xã hội,
mà còn trong thời hòa bình
Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của xã hội có giai cấp, song quy luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng
xã hội cụ thể.
Về kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế xã hội có một kết cấu giai cấp nhất định; khi hình
thái kinh tế xã hội này thay thế hình thái kinh tế xã hội khác thì kết cấu giai cấp cũng thay đổi.
Mỗi kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp đều có các giai cấp cơ bản, giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung
gian; những giai cấp cơ bản là những giai cấp gắn liền với sự xuất hiện và tồn tại của phương thức sản xuất thống trị trong
xã hội; sự đối kháng và cuộc đấu tranh của các giai cấp đó biểu hiện mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất đã sinh ra
chúng; những giai cấp không cơ bản đó là những người nông dân tự do có ít ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ, đó là
giai cấp nô lệ, chủ nô với tư cách là tàn dư của chế độ cũ, giai cấp tư sản với tư cách là mầm móng của xã hội mới trong xã
hội phong kiến….; tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình
phân hóa xã hội diễn ra không ngừng trong xã hội, đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, là tầng lớp trí thức, tiểu tư sản
trong xã hội tư bản
Cùng với sự phát triển của sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp cũng có những biến đổi nhất định, những
biến đổi ấy dẫn đến những thay đổi địa vị của các giai cấp đó trong hệ thống sản xuất xã hội.
Lý luận về giai cấp của chủ nghĩa Mác –Lênin là cơ sở đúng đắn để nhận định giai cấp, phân tích các quan hệ giai
cấp trong đấu tranh giai cấp và lien minh giai cấp, bác bỏ mọi quan điểm sai lầm trong việc phân chia giai cấp trong xã hội.
Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Ph.Angghen , Lênin đã vạch ra tính tấc yếu của cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền, những cơ sở vất chất để nảy
sinh giai cấp bóc lột và sự phân chia giai cấp nói chung vẫn tồn tại, vì vậy giai cấp công nhân phải tiến hành tổ chức xây
dựng một hệ thống quan hệ xã hôi mới theo yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Ngoài ra , giai cấp vô sản
còn phải từng bước khắc phục những tư tưởng tâm lý tập quán, văn hóa lạc hậu của xã hội củ còn in sâu vào đời sống tinh
thần của xã hội.
CÂU 26: Anh/chị hãy trình bày quan điểm mácxít về đấu tranh giai cấp và vai trò của nó đối với sự phát triển của
xã hội có giai cấp đối kháng. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay như thế nào?
1. Quan điểm Mácxít về đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức bóc lột. Đó là cuộc đấu tranh giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị đối kháng về quyền lợi không thể dung hoà được.
-V.I.Lênin cho rằng đấu tranh giai cấp trong lịch sử và ngày nay không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố,
phá hoại mà nó thực chất là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn áp bức, ăn
bám, đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống giai cấp tư sản.
*Nguyên nhân đấu tranh giai cấp:
-Do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới tiến bộ và quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
- Về mặt xã hội đây là mâu thuẫn biểu hiện giữa giai cấp cách mạng tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới và
giai cấp thống trị bóc lột đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
*Hình thức đấu tranh:
Tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử, giai cấp tham gia đấu tranh, giai đoạn phát triển đấu tranh mà đấu tranh giai cấp diễn
ra dưới nhiều hình thức. Ngày nay cách mạng xã hội chủ nghĩa đang thời kỳ thoái trào giai cấp công nhân các nước tư bản
đấu tranh bằng những hình thức mới chống lại những thủ đoạn của giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích giai cấp trước mắt và lâu
dài của công nhân và nhân dân lao động.
2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã hội có giai cấp đối kháng.
-Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội có giai cấp. Vì đấu tranh giai cấp
giúp thay đổi phương thức sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu bằng phương thức mới cao hơn, đồng thời xây dựng lực lượng sản
xuất mới phù hợp quan hệ sản xuất tạo cơ sở phát triển mọi mặt đời sống xã hội.
-Đấu tranh giai cấp giúp cải tạo các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động thông qua việc xoá bỏ tập quán
xấu do giai cấp thống trị sản sinh ra.
21
-Đấu tranh giai cấp là đòn bẩy phát triển lịch sử cách mạng, là động lực phát triển các mặt đời sống xã hội trong
thời kỳ phát triển bình thừơng. Đấu tranh là động lực để giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kỹ thuật mới
để tạo nên những thành tựu mới.
-Vai trò đấu tranh giai cấp thể hiện ở những cuộc đấu tranh mang tính quần chúng rộng lớn, do lực lượng tiến bộ xã
hội lãnh đạo, được tổ chức khoa học nhằm đánh đổ giai cấp thống trị cản trở phát triển xã hội.
3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay:
-Thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta tồn tại nhiều giai cấp và mâu thuẫn giai cấp. Tuy nhiên trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường quá độ lên CNXH, mâu thuẫn này bộc lộ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Nhìn chung lợi
ích giai cấp tư sản thống nhất lợi ích cộng đồng, đấu tranh là để hợp tác, đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, văn minh.
-Thực chất đấu tranh giai cấp ở nước ta trong thời kỳ quá độ là đấu tranh giữa khuynh hướng tự giác theo định
hướng XHCN và khuynh hướng phát triển tự phát lên TBCN. Trong quá trình đó, nhất thiết chúng ta phải phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
-Đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra hàng ngày trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Vì vậy Đảng ta luôn xác
định rõ cần phải:
+Đấu tranh chống khuynh hướng và biểu hiện tiêu cực của tầng lớp tư sản
+Đấu tranh chống khuynh hướng tự phát TBCN của sản xuất nhỏ.
+Đấu tranh chống các thế lực thù địch, âm mưu diễn biến hoà bình, phá hoại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
+Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quyền làm chủ nhân dân.
+Xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH định hướng XHCN, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc,
tiếp thu tinh hoa nhân loại làm cho đời sống vật chất và tinh thần nhân dân không ngừng nâng cao.
-Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa cương
quyết.
*Tóm lại, giai đoạn hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững biện pháp duy vật, nắm vững quan điểm giai cấp của
CN Mác-Lênin để phân tích được tính chất tình hình gay go, phức tạp của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ tránh rơi
vào thái cực sai lầm: quá cường điệu đấu tranh giai cấp đi đến rụt rè, không dám đổi mới, mơ hồ, mất cảnh giác đi đến
phủ nhận đấu tranh giai cấp.
Câu 27: Anh chị hãy chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang
xây dựng với nhà nước pháp quyền tư sản?
Trả lời:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội
dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nhà nước pháp quyền tư sản có những điểm giống và
khác nhau như sau:
Giống nhau:
Pháp luật được đề cao và là công cụ chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công dân. Ngay cả hoạt động của
các cơ quan thuộc hệ thống tổ chức nhà nước cũng phải tuân theo pháp luật, mặc dù chính nó là những cơ quan công bố,
ban hành, thực thi và kiểm tra việc thực hiện pháp luật.
Khác nhau:
¾ Điểm khác biệt căn bản giữa nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nhà nước pháp quyền tư
sản ở chỗ, nếu như trong nhà nước pháp quyền tư sản quyền lực của nhà nước được phân cho ba cơ quan khác nhau hoàn
toàn độc lập với nhau đảm nhiệm, thì một trong những nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền XHCN là quyền
lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
22
¾ Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân nên hệ thống pháp luật thể
hiện tập trung ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Trong khi nhà nước pháp quyền tư sản là của giai cấp tư sản nhằm thực
hiện nền chuyên chính tư sản đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
¾ Nhà nước pháp quyền Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật,
theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền tư sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung có 2 hình thức
cơ bản là quân chủ lập hiến và các hình thức cộng hòa, chung quy lại đều là nền chuyên chính tư sản.
Câu 28: Phân tích vai trò của Nhà Nước đối với quá trình phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Vai trò tác động của Nhà Nước đối với kinh tế thuộc phạm vi mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở
hạ tầng: Nếu chính sách, pháp luật của Nhà Nước phù hợp với nhu cầu khách quan của nền kinh tế, thì nó sẽ có tác động
thúc đẩy kinh tế phát triển; và ngược lại, sẽ kìm hãm hoặc phá hoại sự phát triển kinh tế.
Nền kinh tế VN hiện nay là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, trong đó, Nhà Nước giữ vai trò rất quan trọng .
1 – Vai trò của Nhà Nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô:
Nền kinh tế thị trường luôn diễn ra những biến động khôn lường và tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Do đó, xuất hiện nhu cầu cần sự can thiệp của Nhà Nước nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế sao cho ít có khả năng xảy ra
khủng hoảng nhất thông qua chính sách tài chính tiền tệ.
Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm
bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính
sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập
quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm ngược
lại. Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất
(tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều
đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời
khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và
thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với
việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và
kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.
2 – Vai trò của Nhà Nước trong việc cung cấp hàng hóa công cộng
Trong nền kinh tế thị trường, có thành phần kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế này chủ yếu hoạt động vì mục đích lợi
nhuận nên chỉ tập trung đầu tư, phát triển những lĩnh vực có thể thu được nhiều lợi nhuận. Còn những lĩnh vực cung cấp
hàng hóa công cộng, như xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước, …) thì tư nhân không muốn hoặc không thể đầu
tư vì vốn lớn, chậm thu hồi vốn. Mà một nền kinh tế muốn phát triển thì không thể không có cơ sở hạ tầng. Do vậy, để ổn
định và phát triển kinh tế, Nhà Nước phải đảm nhận lĩnh vực hàng hóa công cộng.
3 – Vai trò của Nhà Nước trong việc chống ô nhiễm môi trường
Các thành phần kinh tế tư nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh đã gây ra ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên. Do đó, cần sự can thiệp, điều tiết của Nhà Nước để hạn chế và khắc phục những vấn đề này.
4 – Vai trò của Nhà Nước trong việc tạo lập hành lang pháp lý vững chắc
Sự phát triển của nền kinh tế thường đòi hỏi phải có một môi trường chính trị - xã hội ổn định cần thiết. Mặt khác, xu thế
phát triển của kinh tế thị trường là theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, do đó càng cần tới vai trò của Nhà Nước bằng các
chính sách đối ngoại, tạo môi trường pháp lý vững chắc cho quá trình này.
23
Câu 29. Anh/Chị hãy phân tích quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người và về vấn đề giải phóng
con người.
1/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người
a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội
- Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống của thể xác
Thể xác sống của con người chính là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự nhiên, là sự tiếp tục phát triển của tự nhiên.
Ph.Aêngghen viết : “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên”. Do vậy,
trước hết nó bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên sinh học như : quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật
biến dị và di truyền, quy luật tiến hóa …
- Sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của xã hội
Để thỏa mãn các nhu cầu của mình, con người phải tiến hành lao động sản xuất, qua đó tạo thành các mối quan hệ
xã hội và xã hội; trong đó “ xã hội sản sinh ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản sinh
ra xã hội như thế”. Sự tồn tại xã hội của con người gắn liền với sự tồn tại của ý thức.
- Con người là một thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự tác động đan xen của ba hệ thống nhu cầu (nhu cầu sinh học,
nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật (quy luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần)
Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong sự tồn tại và phát triển của
con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất của nó; trong đó hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn
giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định.
Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên và xã hội, đều được quy định
bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự kiểm tra các nhu cầu và hoạt động của mình.
Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư cách là chủ thể của quá trình
nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người.
b. Con người là chủ thể của lịch sử
- Triết học Mac-Lênin cho rằng, con người là sản phẩm của lịch sử (sản phẩm của điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội)
đồng thời chính là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử ấy-lịch sử của con người. Đó là quá trình hoạt động có ý thức của
con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người.
- Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khảo sát bản chất con người bắt đầu từ hoạt động thực tiễn, từ
trong hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể.
- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, luận điểm này cho thấy, con người là một thực thể có tính loài.
Đặc tính “loài” của con người hiện thực tức là tính người. Tính người bao gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con
người, trong đó có ba thuộc tính cơ bản nhất đó là : thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy.
- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, quan hệ xã hội ở đây được hiểu là tổng thể các quan hệ mà con
người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó còn bao hàm cả những quan hệ trong tương lai.
- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nhưng con người bao giờ cũng là con người riêng biệt, con người cụ
thể, ứng với những thời đại, những giai đoạn lịch sử nhất định, với từng tập đoàn người, đồng thời nó cũng mang bản chất
chung của nhân loại, phát triển trong toàn bộ lịch sử loài người.
2/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về giải phóng con người
- Triết học Mac-Lênin là triết học vì con người. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mac và Ph.Aêngghen đã viết :
“vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức” song “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được,
nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt”. Như vậy, tư tưởng giải phóng con người, giải phóng nhân loại là tư
tưởng xuyên suốt, là cái cốt lõi của Triết học Mac- Lênin.
- Triết học Mac-Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng con người. Vấn đề giải phóng con
người đã được nhiều học thuyết triết học đề cập đến, nhưng do hạn chế bởi lịch sử , do chưa hiểu đúng về con người, về
bản chất con người, cho nên khi xác định giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào, bằng các nào, giải phóng như
thế nào … các học thuyết triết học trong lịch sử đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau nhưng chưa có được câu trả lời thích
đáng.
- Triết học Mac-Lênin, trên cơ sở giải thích đúng đắn và khoa học về con người, về bản chất con người, đã xác định “bất kỳ
sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con
người”, “là giải phóng người lao động thoát khoải lao động bị tha hóa”. Có thể nói rằng , vấn đề “tha hóa con người” và
giải phóng con người chiếm vị trí trung tâm trong quan niệm của C.Mác về đời sống xã hội. “Tha hóa” là biến thành cái
bản chất khác với bản chất ban đầu. “Tha hóa con người”, theo C.Mác là con người không còn là chính mình mà trở thành
tồn tại khác, cái đối lập với mình. Và nguyên nhân của sự “tha hóa con người” là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự
nô dịch nhiều mặt đối với con người gây ra.
- Theo triết học Mac-Lênin, sự “tha hóa con người” là do hoạt động của chính con người tạo ra, vì thế, con người bằng
hoạt động tích cực của mình, có thể xoá bỏ được sự “tha hóa” cho mình.
24
+ Cần phải xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” thứ “ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động”
nó chính là nguồn gốc sinh ra mọi nô dịch con người trong xã hội tư bản.
+ Sự nghiệp xóa bỏ “tha hóa”, giải phóng cho con người là sự nghiệp của quần chúng nhân dân lao động, trong đó,
giai cấp vô sản là lực lượng nòng cốt và quyết định. Bởi vì chỉ có giai cấp vô sản mới có khả năng đem lại tự do và bình
đẳng thực sự cho mọi người.
+ Sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá trình lâu dài. Nó phụ thuộc chủ yếu vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, vào các điều kiện vật chất tất yếu cho sự nghiệp giải phóng ấy.
Câu 30: Anh chị hãy trình bày mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung cơ bản của việc xây dựng con người Việt Nam đáp
ứng giai đoạn cách mạng hiện nay?
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin: con người là sản phẩm của lịch sử cũng là chủ thể sáng tạo lịch sử.
Con người Việt Nam do điều kiện tự nhiên, địa lý, văn hoá đã hình thành nên con người Việt Nam mộc mạc, chất
phác có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất để giữ nước và phấn đấu không ngừng vì sự nghiệp dựng nước.
Con người Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thử thách mới cần phải vượt qua đó là:
- Đấu tranh chống lại những mặt tiêu cực và hạn chế của cơ chế thị trường mang lại có tác động xấu đến tư tưởng,
tâm lý con người VN
- Cùng với cuộc CM KHKT như vũ bảo con người VN cần phát huy và kế thừa những tinh hoa văn hoá của nhân
loại và giữ gìn bản sắc văn hoá của mình.
• Xây dựng con người VN đáp ứng giai đoạn CM hiện nay:
- Xây dựng con người VN có những đức tính cơ bản như: tinh thần yêu nước, có ý chí đưa đất nước khỏi đói nghèo,
đoàn kết vì sự nghiệp tiến bộ xã hội
- Có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung
- Lối sống lành mạnh, cần kiệm, bảo vệ môi trường sinh thái
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ luật, kỹ thuật và sáng tạo
- Thường xuyên học tập, hiểu biết và nâng cao nghiệp vụ….
Tóm lại, để con người VN có thể đáp ứng được những yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay, một mặt cần tích cực
phát huy và rèn luyện những ưu điểm đồng thời khắc phục và hạn chế những nhược điểm để sớm đưa VN thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, lạc hậu và “sánh vai cùng với các cường quốc năm châu”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.pdf