Các vấn đề xã hội như: nghèo đói, chất lượng
cuộc sống, việc làm, giáo dục và y tế được nâng
cao nhưng vẫn còn tồn tại sự chênh lệch vùng,
còn nhiều mặt chưa đảm bảo tính bền vững.
Tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tốc độ tăng
trưởng khu vực công nghiệp nhanh chủ yếu
các ngành công nghiệp khai khoáng, luyện
kim, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều tài
nguyên là nguyên nhân chính làm tăng mức
độ ô nhiễm môi trường tỉnh Thái Nguyên.
Phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên
trên quan điểm phát triển bền vững cần xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, điều chỉnh kinh tế
vĩ mô, quy hoạch không gian lãnh thổ và phát
huy mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế.
UBND tỉnh và các Sở Ban ngành hữu quan
thực hiện quy hoạch và các giải pháp cụ thể
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái
Nguyên bảo đảm sự bền vững có ý nghĩa
quan trọng và cấp thiết.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sự bền vững chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên trên quan điểm phát triển bền vững giai đoạn 2000-2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Văn Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 71 - 76
71
ĐÁNH GIÁ SỰ BỀN VỮNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TỈNH THÁI NGUYÊN TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
GIAI ĐOẠN 2000 - 2009
Nguyễn Văn Sơn*
Khoa Đào tạo giáo viên THCS, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Giai đoạn 2000 – 2009, Tỉnh Thái Nguyên có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tương đối ổn định,
GDP bình quân đầu người tăng nhanh, nhưng có sự chênh lệch khá lớn về lãnh thổ và các thành
phần kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và thành phần kinh tế đã chuyển dịch theo
hướng tích cực, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, nhưng còn chậm và chưa bảo
đảm tính hợp lý, chưa tận dụng mọi lợi thế so sánh của tỉnh Thái Nguyên. Điều chỉnh kinh tế vĩ
mô, quy hoạch không gian lãnh thổ, giảm nhẹ tác động môi trường sinh thái, đảm bảo ổn định và
công bằng xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững, giảm chênh lệch vùng là nội dung và giải pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên trên quan điểm phát triển bền vững.
Từ khóa: Cơ cấu, kinh tế, bền vững, phát triển, Thái Nguyên
Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển bền vững và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững là
nội dung trọng yếu được sử dụng để đánh giá
sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.
Phát triển bền vững là sự phát triển bảo đảm
hài hoà trên cả ba phương diện kinh tế, xã hội
và môi trường, là yêu cầu của thời đại ngày
nay, của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hoá của mọi quốc gia.
Thái Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa
ngõ phía bắc của thủ đô Hà Nội với các tỉnh
miền núi phía Đông Bắc. Vì vậy, Thái
Nguyên trở thành trung tâm kinh tế - xã hội –
văn hóa của vùng Trung du miền núi phía
Bắc. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, nền kinh tế tỉnh Thái Nguyên có
nhiều thành quả lớn, cơ cấu kinh tế chuyển
biến mạnh mẽ. Đánh giá sự bền vững của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên
trên quan điểm phát triển bền vững đã xây
dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá và chỉ ra
những điểm mạnh, điểm yếu về kinh tế, xã
hội và môi trường. Từ đó, đề xuất các giải
pháp về hoạch định chính sách, phát triển vĩ
mô của hệ thống và sự chuyển dịch các thành
phần trong cơ cấu kinh tế.*
*
SỰ BỀN VỮNG VỀ KINH TẾ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tương đối
ổn định, GDP bình quân đầu người tăng
nhanh, nhưng có sự chênh lệch khá lớn về
lãnh thổ và các thành phần kinh tế
Trong giai đoạn 2000 – 2009, tốc độ tăng
trưởng kinh tế tỉnh Thái Nguyên ở mức cao,
ổn định và khá vững chắc. Tốc độ tăng trưởng
của tỉnh Thái Nguyên cao hơn mức trung bình
cả nước và một số tỉnh, thành phố khác. Tuy
nhiên, tốc độ phát triển kinh tế và giá trị tăng
trưởng chưa đáp ứng với yêu cầu, vai trò của
Thái Nguyên là trung tâm vùng Trung du miền
núi phía Bắc, chưa phát huy mọi tiềm lực cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Động lực của tốc độ tăng trưởng chưa vững
chắc, sự gia tăng giá trị vật chất, tăng trưởng
GDP chủ yếu phụ thuộc vào khai thác tài
nguyên, sử dụng năng lượng và gây nhiều
thiệt hại về lợi ích môi trường chưa được
lượng hoá một cách cụ thể.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chênh lệch giữa
các bộ phận lãnh thổ tương đối cao, chủ yếu
tập trung vào tiểu vùng phía Nam gồm thành
phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và huyện
Phổ Yên. Thành phố Thái Nguyên có tốc độ
tăng trưởng cao và đóng góp hơn 65% giá trị
sản xuất công nghiệp, 75% tổng mức bán lẻ
hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
nhưng chưa tạo động lực thúc đẩy và kéo các
Nguyễn Văn Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 71 - 76
72
lãnh thổ chậm phát triển. Các huyện phía Bắc
như: Định Hoá, Đại Từ và Võ Nhai, đặc biệt
ở các xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn tốc
độ và giá trị tăng trưởng còn nhỏ bé. Bộ mặt
kinh tế có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng
lãnh thổ trong toàn tỉnh.
Cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và
thành phần kinh tế đã chuyển dịch theo
hướng tích cực, hiện đại, phù hợp với xu thế
phát triển của đất nước, nhưng còn chậm và
chưa bảo đảm tính hợp lý, chưa tận dụng
mọi lợi thế so sánh của tỉnh Thái Nguyên
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch từ khu vực
nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và
dịch vụ, giá trị và tỷ trọng các ngành sản xuất
vật chất giảm nhẹ, ngành sản xuất các sản
phẩm dịch vụ tăng lên cả về giá trị và tỷ trọng
đóng góp GDP.
Cơ cấu kinh tế lãnh thổ chuyển dịch theo
hướng đa dạng và có sự tập trung vào các
lãnh thổ nhiều tiềm năng, lợi thế so sánh, đã
hình thành tiểu vùng phát triển cao. Cơ cấu
lãnh thổ chưa đảm bảo sự bền vững vì chênh
lệch vùng, lãnh thổ quá lớn. Mức độ và
khoảng cách chênh lệch vùng có xu hướng
ngày càng tăng do sự đầu tư vật chất vào các
vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế. Tổng mức
doanh thu dịch vụ của riêng thành phố Thái
Nguyên cao gấp 3,24 lần tổng mức doanh thu
dịch vụ của các huyện thị khác cộng lại. Sự
tập trung kinh tế rất cao vào các tiểu vùng
lãnh thổ phát triển đặc biệt là thành phố Thái
Nguyên chưa thực hiện được vai trò động lực
thúc đẩy và sự bù đắp kinh tế cho các lãnh thổ
khác, chưa khái thác mọi nguồn lực và các lợi
thế so sánh của tỉnh Thái Nguyên.
Cơ cấu thành phần kinh tế cũng đã có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực, khu vực
kinh tế nhà nước giảm về tỷ trọng nhưng vẫn
giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành trọng
yếu. Thành phân kinh tế ngoài nhà nước phát
triển nhanh và đa dạng, đã phát huy tất cả các
thành phần kinh tế, tạo năng xuất lao động
cao. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài còn một số hạn chế nhưng đã hình
thành cơ sở bước đầu cho sự hội nhập và
tham gia toàn cầu hoá của tỉnh.
Hiệu quả sản xuất, năng xuất lao động gia
tăng nhanh nhưng còn ở mức thấp và
chênh lệch lớn giữa các bộ phận trong hệ
thống kinh tế
Thu nhập bình quân theo đầu người
năm 2000 - 2009
Nguồn: Xử lý của tác giả
Hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của
các ngành kinh tế, các cơ sở sản xuất được
nâng lên. Trong nông nghiệp, nhờ áp dụng tốt
khoa học kỹ thuật và đầu tư cơ sở hạ tầng,
năng xuất lúa và các cây loại trồng khác như:
chè và cây ăn quả, đều tăng khá ổn định.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dịch bệnh và
thị trường nhưng các sản phẩm của ngành
chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ của tỉnh Thái
Nguyên vẫn tăng liên tục và có bước phát
triển khá. Trong công nghiệp, xây dựng và
phát triển nhanh một số ngành công nghiệp có
lợi thế cạnh tranh.
Năng xuất lao động của các ngành và thành
phần kinh tế tăng nhanh và liên tục, thu nhập
bình quân theo đầu người của Thái Nguyên
có tốc độ tăng nhanh. Năm 2000 chỉ đạt 2,86
triệu đồng đến năm 2009 đạt 14,55 triệu đồng
(tăng gấp 5 lần) trung bình mỗi năm tăng 1,3
triệu đồng. Mặc dù thu nhập bình quân đầu
người của Thái Nguyên thấp hơn mức trung
bình của cả nước (19,10 triệu đồng) nhưng
cao hơn một số tỉnh lân cận như: Phú Thọ
(10,57 triệu đồng), Tuyên Quang (10,86 triệu
đồng), Bắc Kạn (8,04 triệu đồng). Tuy nhiên,
Mức độ chênh lệch năng xuất lao động giữa
các thành phần kinh tế và các bộ phận trong
hệ thống kinh tế còn khá cao. Thu nhập
bình quân của người dân thành thị và nông
thôn, giữa các ngành nghề khác nhau có
khoảng cách lớn.
2.86 3.17
3.55 4.06
5.00
5.82
7.13
8.74
12.06
14.55
0.00
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
14.00
16.00
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Năm
Triệu đồng
Nguyễn Văn Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 71 - 76
73
Giá trị và tỷ trọng hàng hoá các ngành
kinh tế có hàm lượng khoa học kỹ thuật
cao, các ngành chế biến sâu có gia tăng
nhưng còn ở mức thấp, năng lực cạnh
tranh còn hạn chế, chưa tương xứng với
tiềm năng của tỉnh Thái Nguyên
Trong hoạt động công nghiệp, giá trị và tỷ
trọng các ngành công nghiệp chế biến có mức
tăng trưởng khá, chiếm 89,97% cơ cấu giá trị
ngành công nghiệp. Trong đó, một số ngành
công nghiệp có giá trị lớn như: sản xuất trang
phục là 641,6 tỷ đồng; sản xuất hoá chất và
các sản phẩm hoá chất là 1.127,4 tỷ đồng; sản
xuất kim loại đạt 15.061 tỷ đồng chiếm
57,48% chủ yếu là sản xuất phôi thép và các
sản phẩn từ gang.
Các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa
học cao như: công nghiệp chế tạo, công
nghiệp cơ khí chính xác, công nghiệp điện,
điện tử, ở Thái Nguyên chưa phát triển.
Ngành dịch vụ của Thái Nguyên phát triển
tương đối đa dạng và phong phú, tốc độ tăng
trưởng khá và doanh thu dịch vụ hàng năm
tăng liên tục, năm 2009 chiếm 37,30% tổng
GDP toàn tỉnh.
Giá trị thu chi ngân sách nhà nước, giá trị
xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
tăng nhưng chưa tạo động lực tăng trưởng
kinh tế và phát triển kinh tế
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên tăng nhanh năm 2009 đạt 4.316,0 tỷ
đồng gấp 7 lần năm 2000. Trong đó, nguồn thu
ngân sách của tỉnh Thái Nguyên chủ yếu là các
nguồn thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu chiếm tỷ lệ nhỏ chỉ chiếm 8,2%.
Giá trị xuất khẩu của tỉnh Thái Nguyên liên
tục tăng trong giai đoạn 2000 – 2009, năm
2009 đạt 66,6 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu
khoáng sản và hàng công nghiệp nặng chiếm
34,03%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp chiếm 54,84%. Giá trị xuất khẩu
của tỉnh Thái Nguyên có tăng liên tục nhưng
còn nhỏ bé và chủ yếu là xuất khẩu khoáng
sản và ngành công nghiệp sử dụng nhiều tài
nguyên chưa đảm bảo tính bền vững.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào tỉnh Thái
Nguyên có nhiều biến động và không ổn định
cả số dự án, số vốn và quy mô mỗi dự án.
Thái Nguyên có nhiều lợi thế so sánh, vai trò
và vị trí địa lý quan trọng nhưng chưa phát huy
nguồn lực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giá
trị xuất khẩu và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài của Thái Nguyên còn nhỏ bé, chưa
tạo động lực tăng tưởng, phát triển kinh tế
mạnh mẽ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
SỰ BỀN VỮNG VỀ XÃ HỘI
Vấn đề dân số và việc làm
Dân số tỉnh Thái Nguyên thuộc nhóm có quy
mô trung bình, nhưng mật độ dân số lại cao
hơn mức bình quân cả nước và một số tỉnh
khác như: Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Kạn.
Tình hình gia tăng dân số của Thái Nguyên
gia đoạn 2000 – 2009 có nhiều chuyển biến
tốt, tích cực, tỷ lệ gia tăng tự nhiên giảm
xuống còn dưới 1%, tỷ xuất sinh thô hàng
năm giảm 0,20‰.
Nguồn nhân lực và đội ngũ các nhà khoa học,
nhà văn, nhà giáo và bác sĩ là lợi thế đặc biệt
của tỉnh Thái Nguyên so với các tỉnh khác
trong khu vực Trung du và miền núi phía Bắc.
Thái Nguyên có kết cấu dân số trẻ, kết cấu
dân số theo dân tộc đa dạng, các dân tộc có
nhiều kiến thức bản địa và tập quán sản xuất
phong phú là nhân tố quan trọng của nguồn
lực con người và lao động.
Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm và chưa
ổn định, thiếu tính bền vững, số lao động
trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất
nhỏ và biến động liên tục hàng năm. Lao
động trong khu vực kinh tế nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản ở mức cao chiếm 68,3%, khu vực
công nghiệp chiếm 14,5% lao động, lao động
trong khu vực kinh tế dịch vụ có xu hướng
tăng lên tuy nhiên ở mức thấp là 17,2%.
Chất lượng nguồn lao động được nâng lên,
tuy nhiên chưa đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hoá và đội ngũ doanh nhân, lao
động có trình độ chuyên môn cao còn hạn
chế, số lao động đã qua đào tạo mới chỉ đạt
là 27,63%.
Vấn đề nghèo đói và kết quả thực hiện các
chương trình xoá đói giảm nghèo
Các chính sách, dự án, chương trình đã được
triển khai thực hiện và đi vào cuộc sống nhân
dân, mở ra cơ hội cho người nghèo được tiếp
cận các dịch vụ của đời sống xã hội. Nhiều mô
hình điển hình giảm nghèo giai đoạn 2000 đến
Nguyễn Văn Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 71 - 76
74
nay tiếp tục được triển khai và nhân rộng trong
toàn tỉnh. Các thôn, bản đặc biệt khó khăn, xã
nghèo (KV3) và các xã thuộc chương trình 135
cơ bản có đủ kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển
sản xuất, đời sống dân sinh.
Số hộ nghèo đã giảm từ 26,85% (68.227 hộ)
năm 2005 xuống còn 13,99% (39.471 hộ)
năm 2009, bình quân mỗi năm giảm 3,21%,
tương ứng 28.756 hộ thoát nghèo.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh qua từng năm,
nhưng chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo
cao, đặc biệt là đối với vùng đồng bào dân tộc
thiểu số miền nùi, vùng cao. Một bộ phận
người nghèo và một số xã nghèo vẫn còn tư
tưởng ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ của nhà nước,
chưa ý thức tự vươn lên thoát nghèo.
Vấn đề y tế - sức khoẻ, giáo dục và các
phúc lợi xã hội
Tỉnh Thái Nguyên là trung tâm y tế, giáo dục
và đào tạo của khu vực Trung du và miền núi
phía Bắc. Số lượt người dân được chăm sóc y
tế đạt 1,92 lượt/người/năm.
Về giáo dục, tỉnh Thái Nguyên có quy mô
giáo dục tiếp tục được ổn định và phát triển
hợp lý, mạng lưới trường lớp tiếp tục được
quy hoạch hoàn chỉnh, tiếp tục thực hiện chủ
trương đa dạng hóa các loại hình trường lớp.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
của tỉnh đảm bảo đủ số lượng và từng bước
nâng cao về chất lượng.
Cơ sở vật chất của các trường trong những
năm qua đã có nhiều cải thiện rõ rệt nhưng vẫn
còn tình trạng phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là
ở các vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí
nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện
dạy học vẫn còn rất thiếu và hạn chế.
Sự đầu tư và phát triển các hạ tầng xã hội vẫn
chỉ tập trung vào một số lãnh thổ phát triển,
mức độ được hưởng các phúc lợi xã hội và
các điều kiện phát triển toàn diện của người
dân có sự khác biệt lớn giữa nông thôn và
thành thị, giữa tiểu vùng phát triển nhanh và
tiểu vùng chậm phát triển.
Chênh lệch vùng và một số vấn đề xã hội khác
Vấn đề chênh lệch vùng vừa là hiện tượng và
cũng là bản chất của quá trình phát triển lãnh
thổ và phân công lao động xã hội, tuy nhiên
chênh lệch vùng đến mức độ giới hạn cho
phép và có sự điều chỉnh hợp lý sẽ trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương. Thành phố Thái
Nguyên, thị xã Sông Công và huyện Phổ Yên
là khu vực được đầu tư nhiều cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, phân công lao động và đóng góp chủ
yếu vào cơ cấu GDP của tỉnh.
SỰ BỀN VỮNG VỀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ
nhanh làm gia tăng mức độ ô nhiễm, suy
thoái môi trường là điều không thể tránh
khỏi. Tuy nhiên, sự tác động qua lại đó như
thế nào ở mức độ chấp nhận. Tỷ lệ co dãn
giữa thay đổi tỷ trọng các ngành phi nông
nghiệp trong tổng GDP và thay đổi mức độ
ô nhiễm phải nằm trong giới hạn cho phép
và đảm bảo tính bền vững.
Tăng trưởng kinh tế đặc biệt tốc độ tăng
trưởng khu vực công nghiệp rất nhanh chủ
yếu các ngành công nghiệp khai khoáng,
luyện kim, các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều tài nguyên là nguyên nhân chính làm
tăng mức độ ô nhiễm môi trường tỉnh Thái
Nguyên. Giai đoạn 2000 – 2009, tỉnh Thái
Nguyên đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
nhiều tiến bộ, tích cực nhưng tác động môi
trường của sự chuyển dịch cũng không nhỏ và
gây ra nhiều tổn thất, ô nhiễm và suy thoái
môi trường.
Nhiều vấn đề môi trường hiện nay của tỉnh
Thái Nguyên nổi bật như: ô nhiễm nguồn
nước, đặc biệt là mức độ ô nhiễm nước sông
Cầu vượt xa giới hạn cho phép; ô nhiễm
không khí và lượng khí thải của các cơ sở
công nghiệp tăng nhanh; ô nhiễm đất và thoái
hoá đất triên diện tích rộng.
Ở thành thị vấn đề rác thải là chất thải công
nghiệp chưa được xử lý triệt để, rác thải và
nước thải sinh hoạt gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Hiện tượng khai thác khoáng sản trái phép,
chưa khoa học gây lãng phí và thất thoát tài
nguyên và gây ô nhiễm cục bộ; diện tích rừng
mất đi hàng năm khá lớn, tác động nhiều chiều
đến hệ sinh thái và cân bằng sinh học.
Sông Cầu chịu ảnh hưởng nặng nề của các
nguồn thải trực tiếp, gián tiếp từ các hoạt
động sản xuất và sinh hoạt. Hầu hết các nhánh
Nguyễn Văn Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 71 - 76
75
suối đổ về sông Cầu đã có dấu hiệu bị ô
nhiễm. Hàm lượng các chất ô nhiễm rất cao,
một số chỉ tiêu đã vượt gấp nhiều lần so với
tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN). Tại điểm quan
trắc suối Linh Nham (Đồng Hỷ), nồng độ
BOD vượt TCVN 13,5 lần, COD vượt 9 lần,
những đoạn sông chảy qua các khu vực khai
thác, chế biến khoáng sản, nhà máy xí nghiệp,
thành phố Thái Nguyên đã phát hiện các chỉ
tiêu kim loại nặng như Cr, Hg, Mn vượt tiêu
chuẩn từ 2 - 7,5 lần.
Cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế là
chất lượng tài nguyên rừng và đang dạng sinh
học của tỉnh Thái Nguyên có xu hướng giảm
xuống. Mặc dù diện tích rừng hàng năm tăng
lên nhưng chủ yếu là diện tích rừng trồng,
diện tích rừng tự nhiên giảm trung bình
3.272,2 ha/năm. Năm 2009 toàn tỉnh có
171.697 ha rừng, trong đó có 98.633 ha rừng
tự nhiên và 73.064 ha rừng trồng, độ che phủ
rừng toàn tỉnh đạt 48,69%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng
kinh tế đã làm suy giảm tài nguyên rừng,
chưa thật sự bền vững về cân bằng sinh thái
và đa dạng sinh học. Hàng năm, tổn thất về
rừng do bị cháy và bị chặt phá trên 25 ha gây
ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đất, nước
và không khí của khu vực ảnh hưởng đến
cuộc sống của nhân dân sống nhờ vào tài
nguyên rừng.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, tỉnh
Thái Nguyên có nhịp độ tăng trưởng kinh tế
khá cao, tương đối ổn định của các ngành
kinh tế. Tốc độ tăng tưởng kinh tế tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2000 – 2009 đạt 9,71% cao
hơn mức tăng trưởng trung bình của cả nước.
Các ngành kinh tế đều có mức tăng trưởng
khá cao và tương đối ổn định: ngành công
nghiệp và xây dựng 12,79%; ngành nông –
lâm – thuỷ sản 4,43%; ngành dịch vụ 10,64%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên
có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn
tồn tại một số mặt chưa đảm bảo tính bền
vững. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tương
đối ổn định, GDP bình quân đầu người tăng
nhanh, nhưng có sự chênh lệch khá lớn về
lãnh thổ và các thành phần kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và
thành phần kinh tế đã chuyển dịch theo hướng
tích cực, hiện đại, phù hợp với xu thế phát
triển của đất nước, nhưng còn chậm và chưa
bảo đảm tính hợp lý, chưa tận dụng mọi lợi
thế so sánh của tỉnh Thái Nguyên.
Hiệu quả sản xuất, năng xuất lao động gia
tăng nhanh nhưng còn ở mức thấp và chênh
lệch lớn giữa các bộ phận trong hệ thống
kinh tế. Giá trị và tỷ trọng hàng hoá các
ngành kinh tế có hàm lượng khoa học kỹ
thuật cao, các ngành chế biến sâu có gia tăng
nhưng còn ở mức thấp, năng lực cạnh tranh
còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng
của tỉnh Thái Nguyên.
Các vấn đề xã hội như: nghèo đói, chất lượng
cuộc sống, việc làm, giáo dục và y tế được nâng
cao nhưng vẫn còn tồn tại sự chênh lệch vùng,
còn nhiều mặt chưa đảm bảo tính bền vững.
Tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tốc độ tăng
trưởng khu vực công nghiệp nhanh chủ yếu
các ngành công nghiệp khai khoáng, luyện
kim, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều tài
nguyên là nguyên nhân chính làm tăng mức
độ ô nhiễm môi trường tỉnh Thái Nguyên.
Phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên
trên quan điểm phát triển bền vững cần xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, điều chỉnh kinh tế
vĩ mô, quy hoạch không gian lãnh thổ và phát
huy mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế.
UBND tỉnh và các Sở Ban ngành hữu quan
thực hiện quy hoạch và các giải pháp cụ thể
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái
Nguyên bảo đảm sự bền vững có ý nghĩa
quan trọng và cấp thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thế Chinh (chủ biên), Lê Thu Hoa,
(2006), Bài giảng phát triển bền vững, Trường Đại
học KTQD Hà Nội.
[2]. Tạ Đình Thi (2007), Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên quan điểm phát triển bền vững của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Việt Nam, Luận văn
Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
[3]. Ngô Doãn Vịnh (chủ biên) (2005), Bàn về
phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn tới
giàu sang), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, HN.
Nguyễn Văn Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 71 - 76
76
SUMMARY
A STUDY OF TRANSFERRING ECONOMIC STRUCTURES IN THAI
NGUYEN BASED ON THE ORIENTATION OF SUSTAINABLE
DEVELOPMENT
Nguyen Van Son*
College of Education - TNU
The period of 2000-2009, Thai Nguyen province had a high economic growth and relatively stable
rate, GDP per capita increased rapidly, but there was a considerable disparity about territory and
economic components. Economic structure, territorial structure and economic components
transferred towards a positive and modern way, according with the development trend of our
country but they are still slow, not ensuring the reasonableness and not taking full comparative
advantages of Thai Nguyen province. Adjusting macroeconomics, planning territorial space,
lightening ecological environment impact, ensuring the stabilization and social equality,
decreasing the poor rapidly and firmly, reducing the regional disparity are the contents and
solutions of the economic structure transference of Thai Nguyen province based on the orientation
of sustainable development.
Keywords: structure, economic, sustainable, development, Thai Nguyen
*
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_su_ben_vung_chuyen_dich_co_cau_kinh_te_tinh_thai_ng.pdf