1. Kết luận
- Chỉ số LVI cho thấy đối với hai cộng đồng
khai thác thủy sản tại thôn Ngọc Diêm và Tân
Đảo, khả năng tổn thương tăng dần theo thứ
tự các yếu tố chính từ đặc điểm hộ, sức khỏe,
vốn tài chính, chiến lược sinh kế, đến mạng
lưới xã hội và suy giảm nguồn lợi, và những
thay đổi bất lợi của vùng khai thác. Riêng yếu
tố xung đột/mâu thuẫn trong hoạt động khai
thác thể hiện trái ngược nhau ở hai cộng đồng.
- Giá trị chỉ số tổn thương sinh kế của hai
cộng đồng khai thác thủy sản tại thôn Ngọc
Diêm và Tân Đảo lần lượt bằng 0,406 và 0,316
cho thấy tính dễ tổn thương cao và giá trị các
yếu tố chính thay đổi trong khoảng từ 0 (mức
tổn thương thấp nhất) đến 1 (mức tổn thương
cao nhất) với khoảng dao động là 0,2.
- Chỉ số LVI-Fishing của hai cộng đồng khai
thác thủy sản tại thôn Ngọc Diêm và Tân Đảo
lần lượt bằng 0,0529 và 0,0448 cho thấy khả
năng tổn thương trước những ảnh hưởng đến
hoạt động khai thác ở mức cao.
10 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá khả năng tổn thương sinh kế của cộng đồng khai thác thủy sản - Trường hợp hai thôn Ngọc Diêm và Tân Đảo, xã Ninh Ích, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TỔN THƯƠNG SINH KẾ CỦA
CỘNG ĐỒNG KHAI THÁC THỦY SẢN - TRƯỜNG HỢP HAI THÔN
NGỌC DIÊM VÀ TÂN ĐẢO, XÃ NINH ÍCH, THỊ XÃ NINH HÒA,
TỈNH KHÁNH HÒA
ASSESSING LIVELIHOOD VULNERABILITY OF
TWO FISHING COMMUNITIES - CASE STUDY OF NGOC DIEM AND TAN DAO VIL-
LAGES, NINH ICH COMMUNE, NINH HOA TOWN, KHANH HOA PROVINCE
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1
Ngày nhận bài: 7/10/2017; Ngày phản biện thông qua: 10/12/2017; Ngày duyệt đăng: 29/12/2017
TÓM TẮT
Mô phỏng theo chỉ số tổn thương sinh kế (Livelihood Vulnerability Index – LVI) được đề xuất bởi Haln
và cộng sự (2009), nghiên cứu đánh giá mức độ tổn thương sinh kế của hai cộng đồng khai thác tại thôn Ngọc
Diêm và Tân Đảo, xã Ninh Ích, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa được thực hiện theo phương pháp nghiên
cứu có sự tham gia (Participatory research). Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ số LVI đối với hai cộng đồng
phụ thuộc tăng dần theo thứ tự các yếu tố chính từ đặc điểm hộ, sức khỏe, vốn tài chính, chiến lược sinh kế,
đến mạng lưới xã hội, và suy giảm nguồn lợi và những thay đổi bất lợi của vùng khai thác. Riêng yếu tố xung
đột/mâu thuẫn trong hoạt động khai thác thể hiện trái ngược nhau ở hai cộng đồng. Chỉ số LVI của hai cộng
đồng lần lượt bằng 0,406 và 0,316 cho thấy tính dễ tổn thương cao và giá trị các yếu tố chính thay đổi trong
khoảng từ 0 (mức tổn thương thấp nhất) đến 1 (mức tổn thương cao nhất) với khoảng dao động là 0,2. Chỉ số
LVI-Fishing của hai cộng đồng khai thác thủy sản tại thôn Ngọc Diêm và Tân Đảo lần lượt bằng 0,0529 và
0,0448 cho thấy khả năng tổn thương trước những ảnh hưởng đến hoạt động khai thác ở mức cao.
Từ khóa: Chỉ số tổn thương sinh kế, Cộng đồng khai thác thủy sản, Nghiên cứu có sự tham gia
ABSTRACT
Imitating Livelihood Vulnerability Index (LVI) raised by Haln et al. (2009), a study of assessing livelihood
vulnerability of two fi shing communities at Ngoc Diem and Tan Dao villages, Ninh Ich commune, Ninh Hoa
town, Khanh Hoa province was conducted applying Participatory Research method. Result of the study shows
that LVI of two communities increasingly dependent on major components of socio-demographic profi le, health,
fi nancial asset, livelihood strategy, social networks and aquatic resource degradation and adverse changes of
fi shing ground. Only component of confl icts in fi shing activities presents contrastingly for two communities.
The LVIs of two communities at Ngoc Diem and Tan Dao villages are respectively 0.406 and 0.316 showing
high livdelihood vunerability and values of major component fl uctuate from 0 (lowest vulnerability) to 1
(highest vulnerability) with fl uctuating step of 0.2. The LVIs-Fishing of two fi shing communities at Ngoc Diem
and Tan Dao villages are respectively 0.0529 and 0.0448 indicating high vulnerability under effects on fi shing
activities.
Key words: Livelihood vunerability index, Fishing community, Participatory research
1 Việ n Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đạ i họ c Nha Trang
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Là một thủy vực giàu dinh dưỡng với đa
dạng hệ sinh thái, đầm Nha Phu được xem là
môi trường thuận lợi cho sự phân bố, sinh sản
và sinh trưởng của nhiều loài sinh vật biển
[3, 8]. Nhờ vào sự giàu có và đa dạng nguồn
lợi thủy sản, đầm Nha Phu cung ứng nguồn
sống trực tiếp và gián tiếp cho hàng nghìn
cư dân của các thôn thuộc 6 xã/phường của
thị xã Ninh Hòa (các xã Ninh Ích, Ninh Lộc,
Ninh Giang, Ninh Phú, Ninh Vân và phường
Ninh Hà). Tuy nhiên, đầm Nha Phu đã và
đang hứng chịu những tác động gây suy thoái
môi trường và suy giảm nguồn lợi thủy sản
do việc khai thác bằng các công cụ, phương
tiện mang tính hủy diệt và nhiều họat động
kinh tế khác như phá rừng ngập mặn, chất
thải dân sinh, .... [6, 7, 8]. Theo đó, tình hình
suy thoái nguồn lợi thủy sản chắc chắn sẽ gây
ảnh hưởng đến sinh kế của các cộng đồng
khai thác có đời sống phụ thuộc trực tiếp vào
nguồn lợi này.
Các kết quả nghiên cứu của Võ Thiên
Lăng (2001), Lại Văn Hùng (2004), Nguyễn
Văn Quỳnh Bôi và cộng sự (2009) cho thấy
mặc dù đã có nhiều giải pháp được đề xuất
nhưng nhìn chung tình hình vẫn chưa được
cải thiện. Nghiên cứu của những tác giả này
chỉ ra rằng cùng với ô nhiễm môi trường và
nhận thức của cộng đồng thấp, hoạt động
khai thác quá mức, thậm chí mang tính hủy
diệt đã làm cuộc sống cư dân địa phương
ngày càng khó khăn do cạn kiệt nguồn lợi.
Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu mức độ
ảnh hưởng của sự suy thoái nguồn lợi thủy
sản đối với sinh kế của những cộng đồng
khai thác vùng đầm nhằm định hướng chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội khu vực trong
thời gian đến.
Sinh kế, theo định nghĩa của Chambers và
Conway (1992) bao gồm các khả năng, nguồn
lực và những hoạt động cần thiết cho việc kiếm
sống. Một sinh kế bền vững khi nó có thể thích
ứng với những thay đổi đột ngột và phục hồi
trở lại, và duy trì hoặc nâng cao các khả năng
và nguồn lực cả ở hiện tại và trong tương lai
mà không làm suy thoái cơ sở tài nguyên thiên
nhiên [10].
Phương pháp tiếp cận sinh kế cho phép
đánh giá ảnh hưởng của những yếu tố khác
nhau đến sinh kế của con người, đặc biệt là
những yếu tố gây khó khăn hay tạo ra cơ hội
trong sinh kế (dự án IMOLA, 2006). Trên cơ
sở này, việc áp dụng phương pháp pháp pháp
tiếp cận sinh kế sẽ giúp đánh giá được vai
trò của nguồn lợi thủy sản đối với đời sống
cộng đồng khai thác vùng đầm Nha Phu, tỉnh
Khánh Hòa mà cụ thể ảnh hưởng của sự suy
thoái nguồn lợi thủy sản đến sinh kế cộng
đồng nhằm định hướng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đối với cộng đồng trong tương
lai. Bài viết này trình bày các kết quả khảo sát
khả năng tổn thương sinh kế tại hai thôn Tân
Đảo và Ngọc Diêm thuộc xã Ninh Ích, thị xã
Ninh Hòa.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở khoa học và khung phân tích
Cơ sở khoa học của nghiên cứu dựa những
nguồn lực (còn gọi là tài sản sinh kế - assets)
có sẵn đối với cộng đồng (để mưu sinh). Theo
đó, việc phân tích khả năng tổn thương sinh kế
được thực hiện dựa trên cơ sở “Khung sinh kế
bền vững” (Sustainable Livelihood Framework
- SLF) đề xuất bởi Cơ quan phát triển quốc tế
Vương quốc Anh (Department for International
Development – DFID) năm 2001.
16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa theo cách tiếp cận của Haln và cộng sự
(2009); cho đến nay, đã có một số nghiên cứu
về khả năng tổn thương sinh kế được công bố
ở Việt Nam như các công bố của Nguyễn Văn
Quỳnh Bôi và Đoàn Thị Thanh Kiều (2012), Lê
Thị Diệu Hiền và cộng sự (2014), Nguyễn Quốc
Nghị (2016), Nhìn chung, cách tính toán chỉ
số tổn thương sinh kế của các tác giả này đều
được mô phỏng theo công thức được đề xuất
của Haln và cộng sự (2009) với một vài thay
đổi về các yếu tố đóng góp để phù hợp với đối
tượng và tình hình thực tế của mỗi nghiên cứu.
Nghiên cứu được thực hiện từ 02/2017
đến 8/2017 tại hai thôn Ngọc Diêm và Tân Đảo,
xã Ninh Ích, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa
áp dụng phương áp nghiên cứu có sự tham
gia (Participatory research) sử dụng kỹ thuật
phỏng vấn bán cấu trúc (semi-structured
interview) đối với hộ gia đình và người cung
cấp thông tin chủ chốt (key-informant). Cộng
đồng khai thác trong nghiên cứu này bao gồm
những hộ có thành viên tham gia hoạt động
khai thác thủy sản với bất kỳ hình thức nào.
Nguồn số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa
trên phỏng vấn trực tiếp các hộ hành nghề khai
thác tại hai địa phương với số mẫu điều tra được
tính theo theo công thức: n = N/(1 + N.e2) [12].
Với :
- n: kích cỡ mẫu
- N: tổng số hộ tham gia khai thác
- e: xác suất có khả năng gặp sai số loại 2
(thông thường 10%)
Các hộ phỏng vấn được chọn ngẫu nhiên
dựa trên danh sách các hộ tham gia hoạt động
khai thác trong cộng đồng.
Hình 1. Khung sinh kế bền vững (DFID, 2001; dẫn theo bản dịch của dự án IMOLA, 2006)
Các nhân tố đóng góp đến khả năng tổn thương của cộng đồng khai thác được tóm tắt qua
bảng sau:
Bảng 1. Sự đóng góp của các nhân tố “khai thác thủy sản” đến các yếu tố tổn thương chính
Các tác nhân đóng góp theo khai thác thủy sản đối với các yếu tố chính của khả năng tổn thương
Sự phô bày (sự thể hiện
của tác động)
Sự suy giảm nguồn lợi và những thay đổi bất lợi của
vùng khai thác thủy sản
Các xung đột nảy sinh trong hoạt động khai thác
Khả năng thích ứng Đặc điểm hộ
Chiến lược sinh kế
Mạng lưới xã hội
Tính dễ tổn thương Sức khỏe
Vốn tài chính
(Nguồn: Mô phỏng theo Hahn và cộng sự, 2009)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17
Tuy nhiên, đối với thôn Tân Đảo, do tổng
số hộ tham gia khai thác không lớn nên số hộ
điều tra được nâng lên đến 50 (thay vì 41 nếu
tính theo công thức) nhằm làm giảm sai số.
Hình 2. Bản đồ khu vực nghiên cứu
(Nguồn: google earth)
Bảng 2. Số hộ điều tra tại hai thôn Tân Đảo và Ngọc Diêm
Thôn Tổng số hộ Số hộ tham gia khai thác Số phiếu điều tra
Tân Đảo 263 70 50
Ngọc Diêm 530 200 67
- Cách tính chỉ số tổn thương LVI: Mô
phỏng theo Haln và cộng sự (2009), có một vài
thay đổi nhỏ trong các yếu tố chính của LVI để
phù hợp với điều kiện nghiên cứu, ví dụ yếu tố
lương thực - thực phẩm được thay thế bằng
yếu tố vốn tài chính, yếu tố phụ khoảng cách
đến bệnh viện được thay thế bằng số ngày ở
bệnh viện kiểm tra/theo dõi sức khỏe.... Do mỗi
yếu tố phụ (sub-component) được đo lường
theo một hệ thống khác nhau nên cần thiết
phải chuẩn hóa để trở thành một chỉ số theo
phương trình dưới dây:
Trong đó: Sd là giá trị gốc yếu tố phụ (giá
trị thực) đối với địa phương (thôn) d, và Smin
và Smax lần lượt là các giá trị tối thiểu và tối
đa. Sau khi được chuẩn hóa, các yếu tố phụ
được lấy trung bình để tính giá trị của mỗi
yếu tố chính (major component) bằng cách áp
dụng phương trình sau:
Với: Md là một trong bảy yếu tố chính đối
với địa phương (thôn) d, indexsdi thể hiện các
yếu tố phụ được ghi chỉ số theo i, chúng tạo
nên mỗi yếu tố chính, và n là số lượng yếu tố
phụ trong mỗi yếu tố chính. Khi giá trị của các
yếu tố chính được xác định, chỉ số tổn thương
sinh kế cấp địa phương (thôn) được tính toán
theo phương trình:
Với: LVId là chỉ số tổn thương sinh kế địa
phương (thôn) d, tương ứng với trung bình có
trọng số tất cả 7 yếu tố chính. Trọng số của mỗi
yếu tố chính WMi được xác định bằng số lượng
các yếu tố phụ tạo nên các yếu tố chính.
Trong nghiên cứu này, giá trị chỉ số LVI dao
động trong khoảng 0 (mức tổn thương thấp
nhất) đến 1 (mức tổn thương cao nhất).
- Cách tính LVI-Fishing: Mô phỏng phương
thức tập hợp các yếu tố theo cách tiếp cận
của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
(Intergovernmental Panel on Climate Change -
IPCC) để đánh giá tổn thương sinh kế do biến
đổi khí hậu, chỉ số tổn thương sinh kế đối với
hoạt động khai thác thủy sản (LVI-Fishing) của
các cộng đồng trong nghiên cứu này được tính
dựa theo sự suy giảm nguồn lợi và những thay
đổi bất lợi của vùng khai thác thủy sản, và các
xung đột nảy sinh trong hoạt động khai thác.
Thay vì hợp nhất các yếu tố chính vào LVI
trong một bước, cách tiếp cận này kết hợp các
yếu tố chính theo Bảng 2 bằng cách sử dụng
công thức:
Trong đó CFd là một tác nhân “đóng góp”
theo hoạt động khai thác thủy sản (Exposure
– e: sự phô bày, Sensitivity – s: sự nhạy cảm/
tính dễ bị tổn thương, và Adaptive Capacity – a:
khả năng thích ứng), Mdi là yếu tố chính cho địa
phương (thôn) d được ghi chỉ số theo i, WMi là
trọng số của mỗi yếu tố chính và n là số yếu tố
chính trong mỗi tác nhân đóng góp. Sau đó 3 yếu
tố trên được tính toán qua phương trình sau:
LVI-Fishing = (e – a) * s
Trong nghiên cứu này, giá trị của LVI-
Fishing dao động từ -1 (mức tổn thương thấp
nhất) đến 1 (mức tổn thương cao nhất).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Dựa trên nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp,
kết quả nghiên cứu được thể hiện qua Bảng
3. Bảng 3 cho thấy chỉ số của các yếu tố phụ
được xem xét thuộc cộng đồng khai thác thủy
sản tại thôn Ngọc Diêm khá lớn so với chỉ số
của cùng yếu tố phụ thuộc cộng đồng khai thác
thủy sản tại thôn Tân Đảo. Kết quả này chỉ ra
tính nhạy cảm đối với các tác động đến sinh kế
của cộng đồng khai thác tại thôn Ngọc Diêm so
với cộng đồng khai thác tại thôn Tân Đảo.
Bảng 3: Giá trị các yếu tố phụ, giá trị lớn nhất và nhỏ nhất - của chỉ số LVI đối với
cộng đồng khai thác tại thôn Ngọc Diêm và thôn Tân Đảo
Các yếu tố
chính Các yếu tố phụ Đơn vị tính Chỉ số
Giá trị
lớn nhất
Giá trị
nhỏ nhất
Đặc điểm hộ
Tỷ lệ phụ thuộc % 32,12 - 35,78 100 0
Tỷ lệ số hộ có chủ hộ thất học % 8,96 - 4,00 100 0
Tỷ lệ số hộ có trẻ em mồ côi % 2,99 - 0,00 100 0
Tỷ lệ số hộ có chủ hộ là nữ % 5,97 - 0,00 100 0
Chiến lược
sinh kế
Tỷ lệ hộ không có nguồn thu ổn định % 74,63 - 44,00 100 0
Tỷ lệ hộ không có khả năng tích lũy % 22,39 - 0,00 100 0
Tỷ lệ hộ có lao động làm thuê % 37,31 - 50,00 100 0
Thời gian thất nghiệp Tháng/năm 3 - 2 12 0
Sức khỏe Số ngày ở cơ sở y tế để kiểm tra/theo dõi sức khỏe Ngày/năm 5 - 4 360 0
Tỷ lệ số hộ có thành viên mắc bệnh kinh niên % 14,9 - 14,00 100 0
Mạng lưới
xã hội
Tỷ lệ số hộ không được hỗ trợ (ở bất kỳ hình thức nào) % 100 - 100 100 0
Tỷ lệ số hộ có nhu cầu hỗ trợ (dưới bất kỳ hình thức nào) % 8,96 - 32,00 100 0
Vốn tài chính Tỷ lệ số hộ có vay vốn ngân hàng % 14,93 - 38,00 100 0
Suy giảm nguồn
lợi và những thay
đổi bất lợi của
vùng khai thác
Mức độ bắt gặp các hình thức khai thác hủy diệt % 49,25 - 100 100 0
Tỷ lệ số hộ đánh giá sản lượng khai thác giảm so
với trước đây % 100 - 100 100 0
Tỷ lệ số hộ đánh giá môi trường vùng khai thác bị ô nhiễm % 100 - 100 100 0
Xung đột/mâu
thuẫn trong
hoạt động
khai thác
Tỷ lệ số hộ đánh giá rằng có xảy ra xung đột trong
hoạt động khai thác % 83,58 - 0,00 100 0
Tỷ lệ số hộ đánh giá xung đột chưa được giải quyết triệt để % 53,73 - 0,00 100 0
Tỷ lệ số hộ đánh giá rằng xung đột chỉ thể hiện ngấm ngầm % 80,60 - 0,00 100 0
Ghi chú: Ở cột Chỉ số, giá trị đứng trước tương ứng thôn Ngọc Diêm, giá trị đứng sau tương ứng thôn Tân Đảo(Nguồn: Số
liệu điều tra)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 19
Dựa theo các yếu tố phụ được trình
bày qua Bảng 3, có thể xác định các yếu tố
chính của chỉ số LVI đối với cộng đồng khai
thác thủy sản tại hai thôn Ngọc Diêm và Tân
Đảo thể hiện ở Bảng 4. Dựa vào Bảng 4, có
thể tính được chỉ số tổn thương sinh kế của
cộng đồng khai thác tại thôn Ngọc Diêm là
LVIND= 0,406 và tại thôn Tân Đảo là LVITĐ
= 0,316. Kết quả này cho thấy cả hai cộng
đồng nhạy cảm với các yếu tố chi phối sinh
kế, đáng lưu ý là cộng đồng khai thác ở thôn
Ngọc Diêm.
Bảng 4. Giá trị các yếu tố chính của chỉ số LVI đối với cộng đồng khai thác tại thôn Ngọc
Diêm và thôn Tân Đảo
Các yếu tố phụ Chỉ số Các yếu tố chính Chỉ số
Tỷ lệ phụ thuộc 0,32– 0,36 Đặc điểm hộ 0,010 – 0,010
Tỷ lệ số hộ có chủ hộ thất học 0,09 – 0,04
Tỷ lệ số hộ có trẻ em mồ côi 0,03 – 0,00
Tỷ lệ số hộ có chủ hộ là nữ 0,06 – 0,00
Tỷ lệ hộ không có nguồn thu ổn định 0,75 – 0,44 Chiến lược sinh kế 0,398 – 0,278
Tỷ lệ hộ không có khả năng tích lũy 0,22 – 0,00
Tỷ lệ hộ có lao động làm thuê 0,37 – 0,50
Thời gian thất nghiệp 0,25 – 0,17
Số ngày ở cơ sở y tế để kiểm tra/theo
dõi sức khỏe
0,014 – 0,011 Sức khỏe 0,082 – 0,076
Tỷ lệ số hộ có thành viên mắc bệnh
kinh niên
0,15 – 0,14
Tỷ lệ số hộ không được hỗ trợ (ở bất
kỳ hình thức nào)
1,00 – 1,00 Mạng lưới xã hội 0,545 – 0,660
Tỷ lệ số hộ có nhu cầu hỗ trợ (dưới bất
kỳ hình thức nào)
0,09 – 0,32
Tỷ lệ số hộ có vay vốn từ các nguồn
khác nhau
0,15 – 0,38 Vốn tài chính 0,150 – 0,380
Mức độ bắt gặp các hình thức khai
thác hủy diệt
0,49 – 1,00 Suy giảm nguồn lợi và
những thay đổi bất lợi
của vùng khai thác
0,830 – 1,000
Tỷ lệ số hộ đánh giá sản lượng khai
thác giảm so với trước đây
1,00 – 1,00
Tỷ lệ số hộ đánh giá môi trường vùng
khai thác bị ô nhiễm
1,00 – 1,00
Tỷ lệ số hộ đánh giá rằng có xảy ra
xung đột trong hoạt động khai thác
0,84 – 0,00 Xung đột/mâu thuẫn
trong hoạt động khai
thác
0,726 – 0,000
Tỷ lệ số hộ đánh giá xung đột chưa
được giải quyết triệt để
0,54 – 0,00
Tỷ lệ số hộ đánh giá rằng xung đột chỉ
thể hiện ngấm ngầm
0,81 – 0,00
Ghi chú: Ở cột Chỉ số, giá trị đứng trước tương ứng thôn Ngọc Diêm, giá trị đứng sau tương ứng thôn Tân Đảo (Nguồn: Số
liệu điều tra)
20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
Các kết quả được trình bày qua Bảng 4
cho thấy các yếu tố đáng quan tâm ở cả hai
thôn là sự suy giảm nguồn lợi và những thay
đổi bất lợi của vùng khai thác (do ô nhiễm môi
trường), và mạng lưới xã hội; lần lượt là 83%
và 100%. Kết quả điều tra cho thấy, mức độ
bắt gặp các hình thức khai thác hủy diệt đều
cao ở cả hai thôn, đặc biệt ở thôn Tân Đảo,
lần lượt là 49% và 100%. Cùng với điều đó,
100% các hộ khai thác được khảo sát ở cả hai
thôn đều cho rằng môi trường vùng khai thác
đã bị ô nhiễm. Điều này thống nhất với các kết
quả khảo sát trước đây của Võ Thiên Lăng
(2001); Nguyễn Văn Quỳnh Bôi và cộng sự
(2009) và Trần Huy (2013). Những vấn đề này
đã dẫn đến sản lượng khai thác giảm dần so
theo thời gian, ngày càng tăng áp lực lên sinh
kế của mỗi cộng đồng và kéo theo là nguồn
lợi thủy sản vùng đầm tiếp tục suy giảm. Về
yếu tố mạng lưới xã hội, 100% số hộ thuộc hai
cộng đồng khai thác không nhận được bất kỳ
hỗ trợ nào trong khi nhiều hộ, đặc biệt thuộc
cộng đồng khai thác thôn Tân Đảo (32%), có
nhu cầu được hỗ trợ để cải thiện sinh kế. Điều
này dễ hiểu khi xem xét đến tỷ lệ hộ không có
nguồn thu ổn định và tỷ lệ lao động làm thuê ở
hai cộng đồng, lần lượt theo thứ tự Ngọc Diêm
– Tân Đảo là 75% – 44% và 37% – 50%. Bên
cạnh đó, do điều kiện riêng, mỗi cộng đồng đặt
ra những tình huống cần xem xét về vấn đề
tổn thương sinh kế. Đối với cộng đồng khai
thác của thôn Ngọc Diêm là chiến lược sinh
kế và xung đột – mâu thuẫn trong khai thác,
lần lượt có chỉ số 0,398 và 0,726; trong khi vấn
đề của cộng đồng khai thác ở thôn Tân Đảo
là vốn tài chính với chỉ số 0,38. Kết quả khảo
sát cho thấy rằng mặc dù cộng đồng khai thác
thủy sản ở thôn Ngọc Diêm có tỷ lệ số hộ có
lao động làm thuê thấp hơn so với thôn Tân
Đảo nhưng chỉ số thời gian thất nghiệp lại cao
hơn và tỷ lệ số hộ có nguồn thu không ổn định
cao hơn nhiều kéo theo là tỷ lệ số hộ không có
khả năng tích lũy cao lên đến 22%. Ngược lại,
chỉ số này của cộng đồng khai thác ở thôn Tân
Đảo là 0%. Điều này có thể lý giải là do cộng
đồng khai thác ở thôn Tân Đảo không lớn, bên
cạnh nguồn thu từ khai thác thủy sản, 54% số
hộ có nguồn thu nhập thứ hai từ các hoạt động
khác bao gồm chủ yếu là làm công nhân. Số
lao động với công việc không ổn định thấp hơn
nên thời gian thất nghiệp cũng ngắn hơn. Theo
đó, tỷ lệ số hộ không có nguồn thu ổn định
thấp hơn và không có hộ nào không có khả
năng tích lũy. Đối với nguồn lợi thủy sản, các
hộ chủ yếu áp dụng loại hình khai thác cố định
với ngư cụ là nò (sáo) nên vấn đề xung đột
cũng không xảy ra. Những khía cạnh này đối
với cộng đồng khai thác thủy sản tại thôn Ngọc
Diêm có tính chất ngược lại với chỉ 37,3% số
hộ có nguồn thu nhập thứ hai chủ yếu là nuôi
trồng thủy sản và buôn bán. Bên cạnh cào sò,
lặn bắt tôm hùm giống, đặt lờ,hoạt động khai
thác chủ yếu là đánh lưới cước với 100% số hộ
thực hiên. Do vậy, chi phí ngư cụ và phương
tiện khá cao nhưng thu nhập không ổn định.
Đồng thời, mâu thuẫn và xung đột trong hoạt
động khai thác cũng nảy sinh với chỉ số 0,76.
Tuy nhiên, để có được kết quả sinh kế, tỷ lệ
vay vốn của cộng đồng khai thác ở thôn Tân
Đảo lên đến 38% so với 15% của cộng đồng
khai thác tại thôn Ngọc Diêm. Điều đó bắt buộc
các hộ phải tích lũy để thanh toán các khoản
vay làm tỷ lệ này đối với cộng đồng khai thác
ở thôn Tân Đảo tăng lên (tỷ lệ số hộ không có
khả năng tích lũy là 0%). Những kết quả nêu
trên được thể hiện qua Hình 3.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 21
So sánh với một số công bố về tổn thương
sinh kế cộng đồng khác, kết quả nghiên cứu
đã chỉ ra hai cộng đồng khai thác thủy sản
ở thôn Ngọc Diêm và thôn Tân Đảo, xã Ninh
Ích, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa có khả
năng tổn thương sinh kế cao hơn so với các
cộng đồng xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh
Quảng Nam với LVI = 0,212 [5] và xã Đất Mũi,
huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau với LVI = 0,26
[2] cũng như cộng đồng dân cư ven biển tỉnh
Cà Mau nói chung với 0,254 [6]. Tuy nhiên,
điều này không thực sự ý nghĩa do trong công
thức tính toán chỉ số có một số khác biệt về
các yếu tố phụ cấu thành nên những yếu tố
chính được xem xét theo đặc điểm riêng của
mỗi địa phương.
Hình 3. Đồ thị thể hiện chỉ số tổn thương sinh kế cộng đồng khai thác thủy sản tại hai thôn nghiên cứu
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
Bảng 5. Các nhân tố đưa đến tính dễ bị tổn thương theo khía cạnh khai thác của
cộng đồng khai thác thủy sản
Sự phô bày (sự thể hiện của tác động) 0,778 – 0,500
Khả năng thích ứng 0,273 – 0,247
Tính nhạy cảm (dễ bị tổn thương) 0,105 – 0,177
LVI - Fishing 0,0529 – 0,0448
Ghi chú: Giá trị đứng trước tương ứng thôn Ngọc Diêm, giá trị đứng sau tương ứng thôn Tân Đảo
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
Kết quả trình bày qua Bảng 5 cho thấy chỉ
số tổn thương sinh kế cộng đồng khai thác
(LVI-Fishing) ở hai thôn Ngọc Diêm và Tân
Đảo ở mức cao lần lượt là 0,0529 và 0,0448.
Sự tác động của 3 nhân tố (sự phô bày, khả
năng thích nghi và sự nhạy cảm/tính dễ bị tổn
thương) thể hiện qua tam giác tổn thương
dưới đây (Hình 4).
Hình 4. Đồ thị thể hiện sự phân bố các yếu tố của chỉ số tổn thương đối với cộng đồng khai thác
tại hai thôn nghiên cứu
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
22 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
Từ Hình 4 có thể thấy sự phô bày đối với
sự suy giảm nguồn lợi và những thay đổi bất lợi
của vùng khai thác, và các xung đột nảy sinh
trong hoạt động khai thác đối với cộng đồng
khai thác ở cả hai thôn Ngọc Diêm và Tân Đảo
là rất cao lần lượt lên đến 0,778 và 0,500. Mặc
dù, tính nhạy cảm của hai cộng đồng bao gồm
sức khỏe và vốn tài chính rất thấp lần lượt là
0,105 và 0,177. Nhưng, khả năng thích ứng
của cả hai cộng đồng đều không cao với giá trị
lần lượt là 0,273 và 0,247. Kết quả này chỉ ra
rằng chính quyền các cấp cần có các giải pháp
để cải thiện đặc điểm hộ, chiến lược sinh kế
và mạng lưới xã hội của hai cộng đồng nhằm
giảm khả năng tổn thương đối với hoạt động
sinh kế là khai thác. Rõ ràng vấn đề cấp bách
nhất là bảo tồn nguồn lợi thủy sản kết hợp bảo
vệ môi trường vùng đầm và giảm tình trạng
xung đột để làm giảm sự phô bày của cả hai
cộng đồng trước các tác động này.
Những trình bày nêu trên cho thấy mặc dù
có thể so sánh sinh kế của các địa phương nói
chung hoặc những cộng đồng khai thác thủy
sản nói riêng, kết quả của nghiên cứu chỉ ra
rằng một vài yếu tố cần phải xem xét để có thể
phản ánh chính xác hơn khả năng tổn thương
sinh kế của cộng đồng. Theo truyền thống của
người Việt Nam, nhiều trường hợp người cao
tuổi trong gia đình được xem là chủ hộ. Điều
này có thể đã làm tăng chỉ số các yếu tố phụ
là tỷ lệ số hộ có chủ hộ thất học và tỷ lệ số hộ
có chủ hộ là nữ đối với yếu tố đặc điểm hộ,
đặc biệt ở các vùng nông thôn. Bên cạnh đó,
số thành viên của hộ có bảo hiểm y tế được
xem là một yếu tố phụ quan trọng cần được bổ
sung cho yếu tố chính là sức khỏe để đánh giá
khả năng tổn thương sinh kế. Tương tự như
vậy, tỷ lệ tiếp cận thông tin nên được xem là
một yếu tố phụ đối với yếu tố chính là mạng
lưới xã hội, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa.
Ngoài ra, tùy theo tình hình thực tế nghiên cứu,
trong trường hợp có thể thu được số liệu chính
xác, tổng thu nhập, chi phí thường xuyên và
các chi phí bất thường (hoặc tổng tích lũy) của
hộ/gia đình đóng vai trò là một chỉ báo quan
trọng về vốn tài chính.
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Dựa trên những kết quả và phân tích trên đây,
có thể đi đến các kết luận và khuyến nghị sau:
1. Kết luận
- Chỉ số LVI cho thấy đối với hai cộng đồng
khai thác thủy sản tại thôn Ngọc Diêm và Tân
Đảo, khả năng tổn thương tăng dần theo thứ
tự các yếu tố chính từ đặc điểm hộ, sức khỏe,
vốn tài chính, chiến lược sinh kế, đến mạng
lưới xã hội và suy giảm nguồn lợi, và những
thay đổi bất lợi của vùng khai thác. Riêng yếu
tố xung đột/mâu thuẫn trong hoạt động khai
thác thể hiện trái ngược nhau ở hai cộng đồng.
- Giá trị chỉ số tổn thương sinh kế của hai
cộng đồng khai thác thủy sản tại thôn Ngọc
Diêm và Tân Đảo lần lượt bằng 0,406 và 0,316
cho thấy tính dễ tổn thương cao và giá trị các
yếu tố chính thay đổi trong khoảng từ 0 (mức
tổn thương thấp nhất) đến 1 (mức tổn thương
cao nhất) với khoảng dao động là 0,2.
- Chỉ số LVI-Fishing của hai cộng đồng khai
thác thủy sản tại thôn Ngọc Diêm và Tân Đảo
lần lượt bằng 0,0529 và 0,0448 cho thấy khả
năng tổn thương trước những ảnh hưởng đến
hoạt động khai thác ở mức cao.
2. Khuyến nghị
Để giảm thiểu khả năng tổn thương sinh kế
đối với cộng đồng khai thác tại hai thôn nghiên
cứu, chính quyền địa phương và các cơ quan
ban ngành có liên quan cần:
- Chú trọng nâng cao dân trí, thường xuyên vận
động ngư dân tham gia các lớp học bổ túc văn hóa
để ngư dân ý thức được vấn đề của mình, đồng
thời kết hợp mở các lớp đào tạo nghề và chuyên
môn kỹ thuật nhằm tạo cơ hội đa dạng hóa hoạt
động tạo thu nhập cho cộng đồng khai thác;
- Vận động các nguồn tài trợ để thiết lập
nguồn quỹ vay vốn ưu đãi, đồng thời xây dựng
phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế đối với
cộng đồng khai thác;
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23
- Tăng cường công tác thông tin tuyên
truyền về lợi ích của việc bảo vệ nguồn lợi thủy
sản theo nhiều hình thức khác nhau, đồng thời
phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với
những trường hợp vi phạm nhằm bảo vệ môi
trường – nguồn lợi và hạn chế xung đột.
Để đánh giá chính xác hơn khả năng tổn
thương của sinh kế của cộng đồng, nên:
- Xem xét yếu tố chủ hộ thất học và chủ
hộ là nữ chỉ trong trường hợp chủ hộ ở độ tuổi
lao động hoặc là lao động tạo thu nhập chính
của hộ đối với yếu tố đặc điểm hộ,
- Bổ sung các yếu tố phụ bao gồm bảo hiểm
y tế đối với vấn đề sức khỏe, tỷ lệ tiếp cận
thông tin đối với yếu tố mạng lưới xã hội (đặc
biệt ở vùng sâu, vùng xa),
- Cân nhắc xem xét các yếu tố phụ tổng
thu nhập, chi phí thường xuyên và các chi phí
bất thường hoặc tổng tích lũy của hộ/gia đình
trong trường hợp có thể thu được số liệu chính
xác để đánh giá vốn tài chính.
Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm
ơn các sinh viên lớp 55-QLNLTS bao gồm
Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Trọng Nghĩa, Bùi
Văn Dương, Phạm Tấn Toàn, Ngô Tùng Lê,
Nguyễn Thị Kim Chi, Nguyễn Phương Thảo và
Phạm Thị Ngọc Thắm đã hỗ trợ điều tra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Dự án IMOLA-Huế, 2006 (Bản dịch). Cẩm nang: Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn và phân tích sinh kế
bền vững. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế.
2. Lê Thị Diệu Hiền, Nguyễn Quốc Nghị, Trần Thị Diễm Cần và Nguyễn Xuân Trúc, 2014. Nghiên cứu tác động
của biến đổi khí hậu đến sinh kế của cộng đồng xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Tạp chí Khoa học
trường Đại học Cần Thơ, số 32 (2014): 103 – 108.
3. Lại Văn Hùng, 2004. Đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường đầm Nha Phu - tỉnh Khánh Hòa và đề xuất các giải
pháp cải thiện và bảo vệ môi trường phục vụ nuôi trồng thủy sản. Báo cáo đề tài, Đại học thủy sản.
4. Nguyễn Quốc Nghị, 2016. Đánh giá tổn thương sinh kế do biến đổi khí hậu tác động đến sinh kế của cộng đồng
cư dân ven biển tỉnh Cà Mau. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp, số 4 – 2016.
5. Nguyễn Văn Quỳnh Bôi và Đoàn Thị Thanh Kiều, 2012. Áp dụng chỉ số tổn thương trong nghiên cứu sinh kế -
Trường hợp xã đảo Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ,
số 24b (2012): 251 – 260.
6. Nguyễn Văn Quỳnh Bôi, Trần Văn Phước, Vũ Thị Thùy Minh; 2009. Quyền tài sản đối với tài nguyên dùng
chung tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam (Property right over common pool resources at Nha Phu
lagoon, Khanh Hoa province, Viet Nam). Tạp chí Khoa học – Công nghệ thủy sản, Số đặc biệt, các trang 84 – 91,
2009. (Journal of Science – Technology of Fisheries, Special issue, pp 84 – 91; 2009).
7. Trần Huy, 2013. Giải pháp quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản đầm Nha Phu. Luận văn thạc sĩ khoa
học chuyên ngành Khai thác thủy sản. Trường Đại học Nha Trang.
8. Võ Thiên Lăng, 2001. Một số vấn đề về quản lý nguồn lợi thủy sản trên cơ sở cộng đồng tại các thôn biển xã
Ninh Ích, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa - stenet.gov.vn/details.asp?Object=1292058&news_
ID=4471576; accessed 20/05/2009
Tiếng Anh
9. Chambers R., and Conway G.R., 1992. Sustainable Rural Livelihoods: Practical Concepts for the 21st Century.
IDS (Institute of Development Studies) Discussion Paper 296 (https://www.ids.ac.uk/publication/sustainable-
rural-livelihoods-practical-concepts-for-the-21st-century; accessed 25/7/2014).
10. Marie-Caroline Badjeck, Edward H. Allison, Ashley S. Halls and Nicholas K. Dulvy; 2009. Impacts of climate
variability and change on fi shery-based livelihoods. Marine Policy.
11. Micah B. Hahn, Anne M. Riederer, Stanley O. Foster, 2009. The Livelihood Vulnerability Index: A pragmatic
approach to assessing risks from climate variability and change-A case study in Mozambique. Global Environ.
Change. (in press - doi:10.1016/j.gloenvcha.2008.11.002)
12. Ram C.Bhuje, 2007. Statistics for aquaculture, Asian Institure of Technology (AIT). Wiley-Blackwell.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_kha_nang_ton_thuong_sinh_ke_cua_cong_dong_khai_thac.pdf