Program evaluation (PE) has been paid great attention in the quality assurance activities within the
higher educational institutions. The article aims at introducing some concepts ralated to
programme evaluation, some of the world’s educational quality evaluation models, themes related
to PE in regional and international set of criteria for PE and programme accreditation and some
suggestions for the design of Vietnamese programme evaluation standards.
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chương trình đào tạo và một số đề xuất về bộ tiêu chuẩn đánh giá chương trình đào tạo của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 85 - 89
85
ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ BỘ TIÊU
CHUẨN ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỦA VIỆT NAM
Phạm Văn Hùng*, Nguyễn Thị Thu Hương
Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hoạt động đánh giá chương trình đào tạo (CTĐT) đang là hoạt động được quan tâm trong quá
trình đảm bảo chất lượng đào tạo trong trường đại học. Bài viết này giới thiệu một số khái niệm
trong đánh giá CTĐT, một số mô hình đánh giá chất lượng đào tạo trên thế giới, các nội dung liên
quan đến CTĐT được đánh giá trong các Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng đào tạo trên thế giới
và khu vực, từ đó đưa ra một số đề xuất trong việc xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá chung cho các
CTĐT tại Việt Nam.
Từ khóa: đảm bảo chất lượng, đánh giá, chương trình đào tạo, tiêu chuẩn, tiêu chí.
Sau khi Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng
cơ sở giáo dục đào tạo đại học ra đời, hàng
loạt các trường đã triển khai hoạt động này rất
tích cực và quá trình này cũng mang lại nhiều
lợi ích cho các đơn vị. Trong quá trình triển
khai hoạt động này, một vấn đề đặt ra là mặc
dù Bộ tiêu chuẩn kiểm định cơ sở đào tạo đại
học đã có những tiêu chuẩn đánh giá CTĐT
và hoạt động đào tạo, các kết quả đánh giá
chưa đi sâu vào chất lượng từng chương trình,
ngành đào tạo. Do vậy, việc triển khai đánh
giá CTĐT là việc cần thiết. Hiện nay trên thế
giới có rất nhiều Bộ tiêu chuẩn đánh giá, kiểm
định CTĐT, tác giả của bài viết này xin giới
thiệu tổng quan về hoạt động đánh giá CTĐT,
một số mô hình đánh giá, quản lý chất lượng
và nội dung của một số bộ tiêu chuẩn trên thế
giới với mong muốn làm sáng tỏ về nội dung
các Bộ tiêu chuẩn đánh giá CTĐT và đưa ra
hướng tiếp cận cho hoạt động đánh giá CTĐT
trong nước.*
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Chương trình là một loạt các hoạt động được
thực hiện với sự hỗ trợ của các nguồn lực
nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể cho các
nhóm khách hàng đã được định sẵn (Guiding
Principles for Program Evaluation in Ontario
Health Units, 1997).
Chương trình đào tạo bao gồm nội dung, cơ
cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và các hoạt
động học thuật của một đơn vị đào tạo
(thường là cấp khoa học bộ môn tùy theo cơ
*
Tel: 01683 410168, Email: vanhungkt@gmail.com
cấu tổ chức của từng đơn vị) đang triển khai
để đào tạo một ngành học trong một bậc học
nhất định (thường được ký hiệu bằng mã
ngành) [1, trang 136].
Đánh giá chương trình là những hoạt động
có tính hệ thống, nằm trong một tiến trình;
các hoạt động này nhằm kiểm tra toàn bộ các
khía cạnh hay một khía cạnh của chương
trình: đầu vào của chương trình, các hoạt
động thực hiện chương trình, các nhóm khách
hàng sử dụng chương trình, các kết quả (các
đầu ra) và làm thế nào để sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực. [1, trang 76]
Đánh giá CTĐT không thể xem là một quá
trình đơn nhất, nó là tập hợp các quy trình có
liên quan đến các giai đoạn khác nhau trong
xây dựng và triển khai CTĐT.
MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
Hoạt động đánh giá chương trình đã được
triển khai tại rất nhiều quốc gia. Bộ tiêu chuẩn
để đánh giá CTĐT được xây dựng trên cơ sở
các mô hình quản lý chất lượng và đánh giá
chất lượng các chương trình này.
Mô hình đánh giá hiệu quả CTĐT của Mỹ
dựa vào 4 yếu tố:
Đầu vào (Inputs): bao gồm các yếu tố liên
quan đến người học (như trình độ chung lúc
vào học, độ tuổi, giới tính . . .), lực lượng
giảng viên, cơ sở vật chất – máy móc thiết bị,
giáo trình, tài liệu học tập, kinh phí đào tạo.
Quá trình đào tạo (Activities): kế hoạch tổ
chức đào tạo, các dịch vụ hỗ trợ học tập, tổ
chức nghiên cứu khoa học . . .
88Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phạm Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 85 - 89
86
Đầu ra (Outputs): mức tiếp thu của người học
đến khi tốt nghiệp (kiến thức, kỹ năng, thái
độ), tỷ lệ tốt nghiệp.
Hiệu quả (Outcomes): mức độ tham gia vào
xã hội, mức độ đáp ứng trong công việc, mức
thu nhập.
Mô hình các yếu tố tổ chức (Organizational
Elements Model) đưa ra năm yếu tố để đánh
giá như sau:
Đầu vào: sinh viên, giảng viên, cơ sở vật chất,
chương trình đào tạo, quy chế, tài chính . . .
Quá trình đào tạo: phương pháp và quy trình
đào tạo, quản lý đào tạo . . .
Kết quả đào tạo: mức độ hoàn thành khóa
học, năng lực đạt được và khả năng thích ứng
của sinh viên.
Đầu ra: sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên
cứu và các dịch vu khác đáp ứng nhu cầu kinh
tế – xã hội.
Hiệu quả: kết quả của giáo dục và ảnh hưởng
của nó đối với xã hội. [3, trang 260]
Mô hình Kirkpatrick gồm bốn mức đánh giá
hiệu quả đào tạo. Những mức này có thể được
áp dụng cho sự đào tạo theo hình thức
truyền thống hoặc dựa vào công nghệ hiện
đại, bao gồm:
Sự phản hồi của người học (Students’
Reaction): người học được yêu cầu đánh giá
chương trình đào tạo sau khi kết thúc khóa
học, những gì mà họ nghĩ và cảm nhận trong
đào tạo, về cấu trúc, nội dung, phương pháp
trong chương trình đào tạo
Nhận thức (Learning Results): Mức hai đo
kết quả nhận thức, đánh giá xem học viên có
học được những kiến thức, kỹ năng và thái độ
như mục tiêu của chương trình đào tạo đặt ra?
Hành vi (Behaviour in the Workplace): sự
thay đổi, sự tiến bộ về thái độ trong lĩnh vực
nghề nghiệp. Một cách lý tưởng, sự đánh giá
nên thực hiện từ ba đến sáu tháng sau khi kết
thúc CTĐT, bởi vì thời gian quá lâu thì học
sinh có cơ hội bổ sung những kỹ năng mới và
dữ liệu đánh giá không thể hiện được điều cần
đánh giá.
Kết quả (Business Result): những hiệu ứng,
tác động đến doanh nghiệp từ chương trình.
Mô hình quản lý chất lượng EFQM được các
nước thuộc cộng đồng chung Châu Âu sử
dụng làm mô hình đánh giá chất lượng CTĐT
theo Chu trình Deming bao gồm:
Lập kế hoạch (Plan): trong đó các chủ điểm
được quan tâm là lãnh đạo, tầm nhìn, sứ
mạng, nhân sự, các nguồn lực.
Triển khai (Do): Bao gồm các quá trình
thực hiện.
Kiểm tra (Check): Bao gồm các điều tra, đánh
giá, khảo sát về việc thực hiện sứ mạng, mục
tiêu của chương trình, sự hài lòng của các bên
liên quan.
Hành động (Act): Các quá trình cải thiện chất
lượng từ các thông tin phản hồi thu được về
CTĐT và các quá trình quảng bá chương trình
ra công chúng.
Trên cơ sở các mô hình quản lý chất lượng
này, các Bộ tiêu chuẩn đánh giá CTĐT được
xây dựng nhằm đánh giá chất lượng của các
chương trình và đưa ra khuyến nghị để các
chương trình cải thiện chất lượng.
NỘI DUNG CHÍNH CỦA CÁC BỘ TIÊU
CHUẨN ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO
Những nội dung chính của các Bộ tiêu chuẩn
đánh giá CTĐT trên thế giới bao gồm các chủ
điểm của chương trình như sau:
Chuẩn đầu ra (Expected learning outcomes/
or learning outcomes): Chuẩn đầu ra được
đặc biệt quan tâm trong việc đánh giá và công
nhận kiểm định các chương trình. Bộ tiêu
chuẩn đánh giá chương trình đào tạo của Hà
Lan, Tiêu chuẩn 1 về chuẩn đầu ra nêu rõ:
“chuẩn đầu ra được cụ thể hóa trong nội
dung, trình độ và định hướng giảng dạy của
chương trình; chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu
quốc tế”. Trong quá trình công nhận kiểm
định chương trình, nếu tiêu chuẩn này không
đạt thì toàn bộ chương trình này không được
phép có thêm thời gian cải thiện chất lượng
để được kiểm định. Trong Bộ tiêu chuẩn của
AUN, Tiêu chuẩn về chuẩn đầu ra được đặt
lên hàng đầu “Tiêu chí 1.1. Chuẩn đầu ra của
chương trình giáo dục, bao gồm kiến thức,
thái độ, kỹ năng cơ bản và kiến thức, thái độ,
kĩ năng nghề nghiệp mà người tốt nghiệp cần
89Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phạm Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 85 - 89
87
đạt được, được xác định rõ ràng và được thể
hiện trong chương trình giáo dục.”
Chương trình học (Curriculum): Hầu hết các
Bộ tiêu chuẩn đều tập chung một số lượng lớn
các tiêu chí vào chương trình học, các nội
dung được đánh giá bao gồm về định hướng
của chương trình để đảm bảo việc phát triển
các kiến thức và kỹ năng cần thiết; nội dung,
cấu trúc; sự phù hợp của chương trình với
trình độ đầu vào và chuẩn đầu ra; tính khả thi
của chương trình; thời lượng và giới hạn nội
dung của chương trình. Riêng các Bộ tiêu
chuẩn đánh giá chương trình theo từng ngành
cụ thể, các tiêu chuẩn về chương trình học
được mô tả cụ thể hơn, ví dụ Tiêu chuẩn 5 về
chương trình học trong Bộ tiêu chuẩn đánh
giá chương trình cơ khí của ABET nêu rõ
“chương trình bao gồm 1 năm học toán học
kết hợp với các môn khoa học cơ bản (có thể
kèm theo thực hành) ở trình độ đại học phù
hợp với yêu cầu của ngành học; một năm
rưỡi học các môn về cơ khí bao gồm khoa học
về cơ khí và thiết kế cơ khí phù hợp với
chuyên ngành của sinh viên” ... Ngoài ra phần
chương trình học trong bộ tiêu chuẩn của
ABET còn có phần riêng, cụ thể cho từng
ngành riêng biệt.
Đội ngũ giảng viên (Faculty): Các tiêu chí về
giảng viên thường tập trung vào năng lực của
đội ngũ, mức độ đáp ứng của giảng viên với
chương trình đào tạo, khả năng thiết kế
chương trình, truyền thụ kiến thức, khả năng
sử dụng các thiết bị hỗ trợ trong giảng dạy, số
lượng giảng viên Đối với các Bộ tiêu
chuẩn đánh giá chung, chất lượng, số lượng
đội ngũ được phải phù hợp với yêu cầu của
chương trình. Với tiêu chuẩn cho các ngành
cụ thể, ví dụ Bộ tiêu chuẩn của ABET nêu rõ
giảng viên thuộc chuyên ngành nào phải có
chứng chỉ nghề nghiệp thuộc ngành đó ví dụ
giảng viên ngành Cơ khí cần có chứng chỉ kỹ
sư chuyên nghiệp “Profesional Engineer”.
Ngoài ra, các chính sách về giảng viên cũng
được đề cập trong các tiêu chí thuộc tiêu
chuẩn này.
Các hoạt động hỗ trợ sinh viên (Services):
Bao gồm các hoạt động giúp đỡ và tư vấn
ngoài giờ học, việc lưu trữ và cung cấp các
thông tin phản hồi về quá trình học tập đáp
ứng nhu cầu của sinh viên.
Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị (Facilities):
Tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị
bao gồm việc đánh giá về số lượng, chất
lượng của trang thiết bị, tài nguyên học tập,
thư viện điện tử, các hệ thống công nghệ
thông tin, phòng máy tính v.v. và sự phù hợp
với các mục tiêu và mục đích thiết kế chương
trình, tạo môi trường khuyến khích sinh viên,
giảng viên tham gia nghiên cứu và học tập.
Đảm bảo chất lượng (Quality Assurance):
Các tiêu chí về đảm bảo chất lượng CTĐT tập
trung vào việc rà soát và đánh giá định kỳ các
mục đích đào tạo, việc sử dụng các kết quả
đánh giá trong quá trình cải thiện chất lượng
giúp chương trình hiện thực hóa các mục đích
đào tạo, và sự tham gia của các bên liên quan
như các nhà quản lý, các hội đồng, sinh viên,
giảng viên, cựu sinh viên, trong hoạt động
đảm bảo chất lượng bên trong.
Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và
những kết quả đầu ra đạt được (Assessment
and learning outcomes achieved): Các tiêu
chuẩn trong chủ điểm này thường đề cập đến
hệ thống đánh giá kết quả học tập bao gồm
các hình thức đánh giá, các quy định về kiểm
tra, đánh giá của chương trình và tính hiệu
quả của các công cụ đánh giá này. Hoạt động
đánh giá bao gồm đánh giá đầu vào, giữa kỳ,
cuối kỳ và tốt nghiệp.
Người học (Students): Một số Bộ tiêu chuẩn
có các tiêu chuẩn về sinh viên và các hoạt
động hỗ trợ sinh viên nhằm giúp họ đạt được
các yêu cầu đầu ra của chương trình học, đảm
bảo cho việc liên thông giữa các chương trình
cho sinh viên.
Một số Bộ tiêu chuẩn đánh giá CTĐT đặt ra
tiêu chuẩn riêng cho Mục tiêu giáo dục của
chương trình (Program Educational
Objectives) – Bộ tiêu chuẩn đánh giá chương
trình đào tạo ABET, AUN, trong đó nêu rõ
mục tiêu của chương trình phải phù hợp với
sứ mạng của trường; các mục tiêu được xác
định trên cơ sở nhu cầu của các bên liên quan;
các quá trình kiểm tra, đánh giá được lưu giữ
định kỳ và thể hiện được mức độ đạt được các
mục tiêu của chương trình đề ra.
90Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phạm Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 85 - 89
88
Một số bộ tiêu chuẩn đánh giá CTĐT phân
định rõ các tiêu chuẩn trong quá trình kiểm
định CTĐT đối với các trường đã được công
nhận kiểm định và các chương trình thuộc
đơn vị chưa được kiểm định. Với hoạt động
kiểm định CTĐT tại Hà Lan, chương trình
đăng ký kiểm định thuộc trường đại học chưa
được đánh giá chất lượng hoặc có kết quả
đánh giá chất lượng thấp sẽ phải đánh giá
trên 16 tiêu chuẩn tuy nhiên với các chương
trình trong trường đại học đã được đánh giá
chất lượng với kết quả tốt, chỉ có 3 tiêu chuẩn
giành cho các chương trình này bao gồm tiêu
chuẩn về chuẩn đầu ra, môi trường dạy – học
và đánh giá kết quả học tập và chuẩn đầu ra
đạt được.
THANG ĐÁNH GIÁ
Thang đánh giá các tiêu chí được chia làm
hai hình thức, có thể được chia thành các
thang định khoảng từ 2 đến 7 mức hoặc theo
thang điểm.
Thang điểm: Đánh giá chất lượng chương
trình theo tiêu chuẩn AUN-QA sử dụng thang
điểm gồm 7 mức (có giá trị từ 1 đến 7), được
chuẩn hóa thành những mô tả như sau:
1 – hầu như không có bằng chứng bằng văn
bản về chỉ báo này
2 – có ít bằng chứng bằng văn bản về chỉ
báo này
3 – bằng chứng bằng văn bản về chỉ báo này
đạt mức dưới trung bình
4 – bằng chứng bằng văn bản về chỉ báo này
đạt mức trung bình
5 – bằng chứng bằng văn bản về chỉ báo này
đạt mức trên trung bình
6 – có khá nhiều bằng chứng bằng văn bản
về chỉ báo này
7 – có rất nhiều bằng chứng bằng văn bản về
chỉ báo này
Để đánh giá chất lượng và các hoạt động cải
tiến chất lượng, sử dụng thang điểm gồm 7
mức (có giá trị từ 1 đến 7), được chuẩn hóa
thành những mô tả như sau:
1 –hoàn toàn không đạt, cần phải cải tiến
ngay lập tức
2 – không đạt, cần cải tiến
3 – không đạt nhưng cần cải tiến chút đỉnh
để đạt
4 – đạt đúng như dự kiến
5 – đạt trung bình khá
6 – là một ví dụ tốt để làm gương
7 – xuất sắc
Thang định khoảng
Một số bộ tiêu chuẩn đánh giá CTĐT dùng
thang định khoảng với các mức độ: Không
đạt (Unsatisfactory); Đạt (Satisfactory); Tốt
(Good); Xuất sắc (Excellent), hoặc chỉ đơn
giản là Đạt hoặc Không đạt. Chương trình
được đánh giá đạt hoặc không đạt phụ thuộc
vào một số tiêu chí có đạt mức tốt hay không,
ví dụ như các tiêu chuẩn về chuẩn đầu ra,
chương trình học, giảng viên v.v.
Nhìn chung, các chủ điểm của các bộ tiêu
chuẩn kiểm định chất lượng CTĐT bao quát
toàn bộ các mặt hoạt động liên quan đến
chương trình đào tạo. Các nội dung chính của
CTĐT là chuẩn đầu ra và kết quả đầu ra đạt
được cùng với các hoạt động đào tạo, các hoạt
động đảm bảo chất lượng và cải thiện chất
lượng là những phần quan trọng trong các bộ
tiêu chuẩn. Với đặc điểm là CTĐT của các
nước tiên tiến, gắn liền với sự công nhận quốc
tế, các bộ tiêu chuẩn luôn hướng tới chất
lượng quốc tế của các CTĐT.
HƯỚNG TIẾP CẬN CHO BỘ TIÊU
CHUẨN KIỂM ĐỊNH / ĐÁNH GIÁ CTĐT
TẠI VIỆT NAM
Trên cơ sở các mô hình ĐBCL và đánh giá
chất lượng đã nêu trên cùng nội dung của các
bộ tiêu chuẩn kiểm định CTĐT trên thế giới,
chúng tôi xin đề xuất một số nội dung cho
Bộ tiêu chuẩn đánh giá CTĐT của Việt
Nam như sau:
Thứ nhất: Chất lượng CTĐT là kết quả của
một quá trình dài do vậy nên đánh giá từ đầu
vào, quá trình đào tạo/ triển khai và đến đầu
ra (kết quả).
Thứ hai: Cần chú trọng đến việc xây dựng
chuẩn đầu ra và đánh giá đầu ra khi thiết kế
các tiêu chuẩn đánh giá.
Thứ ba: Nội dung đánh giá nên phân chia
thành hai loại để tạo điều kiện thuận lợi và
khuyến khích các trường đại học và các
CTĐT đăng ký kiểm định chất lượng.
91Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phạm Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 85 - 89
89
Thứ tư: Việc đánh giá chất lượng CTĐT để
nâng cao chất lượng đào tạo là điều rất cần
thiết tuy nhiên việc xây dựng các tiêu chuẩn
cần xét đến điều kiện thực tế của Việt Nam.
Có thể đặt các tiêu chuẩn ở mức tiệm cận với
các chương trình đào tạo Đông Nam Á. Đối
với các chương trình đạt chuẩn Đông Nam Á
và thế giới, có thể dùng các bộ tiêu chuẩn của
các tổ chức này để tự đánh giá và đăng ký để
được kiểm định bởi các tổ chức bên ngoài.
Đánh giá CTĐT để tiến tới nâng cao chất
lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội ngày
càng phát triển là điều rất cần thiết hiện nay.
Việc xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh
giá cho phù hợp với tình hình thực tế và đặc
điểm CTĐT ở Việt Nam sẽ đóng góp thiết
thực trong việc tìm ra giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo tại các cơ sở giáo dục hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Kỷ yếu “Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng cho
các trường sư phạm Việt Nam” (2003), Viện
Nghiên cứu Giáo dục, Trường ĐH Sư phạm
TPHCM.
[2]. Sổ tay thực hiện các hướng dẫn đảm bảo chất
lượng trong mạng lưới các trường đại học Đông
Nam Á, AUN-QA, (2009). Nxb ĐH Quốc gia
Hà Nội.
[3]. Nguyễn Đức Chính, (2002). Kiểm định chất
lượng trong giáo dục đại học. Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
[4]. Assessment frameworks for the higher
education accreditation system Programme
assessment (limited/extensive), (2011) NVAO.
[5].
[6].
documents/
SUMMARY
PROGRAMME EVALUATION AND SOME SUGGESTION FOR THE
VIETNAMESE PROGRAMME EVALUATION STANDARDS
Pham Van Hung*, Nguyen Thi Thu Huong
Thai Nguyen University
Program evaluation (PE) has been paid great attention in the quality assurance activities within the
higher educational institutions. The article aims at introducing some concepts ralated to
programme evaluation, some of the world’s educational quality evaluation models, themes related
to PE in regional and international set of criteria for PE and programme accreditation and some
suggestions for the design of Vietnamese programme evaluation standards.
Key words: quality assurance, programme evaluation, standards, criteria.
Ngày nhận bài:29/11/2012, ngày phản biện:19/12/2012, ngày duyệt đăng:26/3/2013
*
Tel: 01683 410168, Email: vanhungkt@gmail.com
92Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38554_42103_20820138282685_8334_2052040.pdf