Việc xác định đặc điểm của văn bản nói không chỉ có giá trị về mặt nhận thức mà
còn có ý nghĩa trong giáo dục ngôn ngữ. Bởi vì,trong giao tiếp, người ta thường
dùng những trải nghiệm nhiều hơn về một sự vật, hiện tượng cụ thể để nhận
thức một sự vật, hiện tượng trừu tượng và ít trải nghiệm hơn. Nguyên lí này, sẽ là
những gợi ý bổ ích cho các nhà soạn sách giáo khoa cũng như giảng dạy bản ngữ,
ngoại ngữ trong việc phát triển ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ nói.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm của văn bản nói, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trịnh Sâm và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
5
ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN NÓI
TRỊNH SÂM*, TẠ THỊ THANH TÂM**
TÓM TẮT
Vận dụng lí thuyết ngữ vực, dựa vào tính tương tác ngữ cảnh, bài viết đã khái quát
được một số đặc điểm trong ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ của văn bản nói. Về khía cạnh
thứ nhất, đặc điểm ngôn ngữ được đúc kết từ cấp độ ngữ âm đến tổ chức văn bản, về khía
cạnh thứ hai, một số nhân tố chi phối đến cách tích hợp kiến thức cũng như quản lí thông
tin từ góc độ hội thoại đã được phân tích.
Từ khóa: văn bản nói, lí thuyết ngữ vực, đặc điểm ngôn ngữ, đặc điểm chi phối.
ABSTRACT
Characteristics of the spoken text
Using the register theory and a base on the interaction and context, this paper has
generalized some extra-linguistic and intra-linguistic characteristics of the spoken text.
Firstly, linguistic characteristic has been composed from the phonetic level to the text
structure. Secondly, some factors have ruled the way of integrating knowledge as well as
managing information in terms of the analyzed conversation.
Keywords: spoken text, register theory, linguistic characteristic, ruled factors.
* PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
** TS, Học viện Hành chính Quốc gia cơ sở TPHCM
1. Đặt vấn đề
Sự phân biệt nói/viết, ngôn ngữ
nói/ngôn ngữ viết là một đề tài không
mới. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, khi
trào lưu Phân tích diễn ngôn ra đời với sự
ứng dụng rộng rãi của nó trên nhiều lĩnh
vực của cuộc sống thì đề tài này lại có
sức cuốn hút kì lạ với nhiều khuynh
hướng nghiên cứu khác nhau, có thể kể
đến Thompson (1982), D. Tanen (1982),
R. T. Lakoff (1982), M. A. K. Halliday
(1987, 2002), W. L. Chafe (1981, 1991),
D. Langford (1994), D. Nunan (1993),
G. Brown & G. Yule (2002), Biber. D.
(2006), Diệp Quang Ban (2008)
Sự phân biệt đơn giản và có tính
chất tĩnh tại nói/viết như ngôn ngữ học
truyền thống đã làm không còn bao quát
và đặc biệt không có sức giải thích đối
với các sự kiện giao tiếp hiện đại. Sự
phân biệt diễn ngôn như một sản phẩm
(viết) với diễn ngôn như một quá trình
(nói) có ý nghĩa về mặt phương pháp
luận. Sự phân biệt quá trình/sản phẩm là
một sự phân biệt phù hợp trong ngôn ngữ
học bởi nó tương ứng với sự phân biệt
giữa kinh nghiệm về lời nói với kinh
nghiệm về văn tự của chúng ta; văn tự
tồn tại, còn lời nói thì diễn ra [2]. Hơn
nữa, giao tiếp hiện đại có những dạng
thức rất phong phú mà ngôn ngữ học
truyền thống không hình dung hết, và
ngày nay, lằn ranh giữa nói và viết chỉ có
tính chất tạm thời. Ta có hình thức viết
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
6
mà thực chất là nói qua các tin nhắn điện
thoại, các hình thức chat không chỉ là
song thoại, các hình thức email có thể
kèm các biểu tượng bán ngôn ngữ, có
hình thức giao tiếp trực tuyến, hoặc trao
đổi, đối thoại qua Webcam Có lẽ, đây
cũng là một trong những lí do khiến cho
ngày càng nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm đến văn bản nói. Vả lại, theo các nhà
ngôn ngữ học hiện đại, văn bản nói quan
trọng không phải ở chỗ nó là hình thức có
trước xét về mặt lịch sử hình thành, cũng
như xét về mặt thụ đắc ngôn ngữ của một
cá nhân. Nó quan trọng bởi vì trong bản
thân văn bản nói hàm chứa một tiềm
năng thích nghi và thay đổi là rất lớn, nó
luôn bộc lộ sự thể hiện nhiều hình thức
mới với ngôn từ đa dạng và phong phú.
Điều này hoàn toàn có thể giải thích
được, bởi ngôn ngữ nói chung, văn bản
nói nói riêng, sinh ra từ trong lòng xã hội,
gắn bó mật thiết với xã hội, đáp ứng và
ghi dấu những thay đổi của xã hội. Các
hình thức ngôn ngữ trong định danh,
trong biểu đạt các sự vật, hiện tượng mới,
trước hết là xuất hiện trong vản bản nói,
sau khi được sàng lọc thì chúng mới có
chỗ đứng trong văn bản viết. Nói chung,
khi nhập hệ vào hệ thống văn bản viết,
thường chúng phải có một độ ổn định
nhất định. Chính điều này, như Halliday
đã xác nhận, đã làm thay đổi môi trường
giao tiếp cả ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
cũng như gây áp lực ngữ nghĩa lên một
số hình thức biểu đạt. Chẳng hạn, trong
tiếng Việt, các kiểu diễn đạt kiểu như hơi
bị đẹp, ứ thèm, tụi bóng lộ hay một số
cách định danh kiểu như chìm xuồng, lăn
tăn, trùm mền, rút ruột, treo ao, úp ao
trước khi được sử dụng phổ biến trong tất
cả loại hình giao tiếp, sự có mặt của
chúng đầu tiên là trong ngôn ngữ nói.
Việc quan sát, sưu tập văn bản viết
là quá thuận lợi, cuộc sống hiện đại đã
cung cấp cho xã hội một số lượng văn
bản viết rất lớn, trong khi đó giao tiếp
miệng cũng đa dạng và phong phú không
kém, nhưng chỉ có thể quan sát tại hiện
trường, còn việc sưu tập nó trong điều
kiện ở Việt Nam còn gặp không ít khó
khăn. Halliday đánh giá rất cao hình thức
ghi âm, ông viết: “Có lẽ phát minh vĩ đại
nhất trong lịch sử ngôn ngữ học là phát
minh ra máy ghi âm, mà lần đầu tiên đã
bắt giữ được hội thoại tự nhiên và làm
cho cho nó có thể tiếp cận được đối với
nghiên cứu hệ thống” [2]. Như vậy, băng
ghi âm một cuộc giao tiếp miệng là một
văn bản nói. Đương nhiên, ở đó không
hẳn những thứ được ghi lại đều là ngôn
ngữ. Thông thường thì căn cứ vào những
gì được ghi âm, tùy theo sự quan tâm của
người nghiên cứu, anh ta phiên âm lại lời
được ghi với một số chú giải bằng các
quy tắc chính tả, trong khi đó không thể
nào ghi lại hết các biểu hiện của các
phương tiện phi ngôn ngữ như cử chỉ
điệu bộ, và cũng khó lòng ghi lại được và
ghi chính xác các biểu hiện của các hiện
tượng ngôn điệu. Trước tình hình đó,
ngoài những quan sát trực tiếp các cuộc
giao tiếp miệng diễn ra hằng ngày, chúng
tôi còn sưu tập các văn bản nói được ghi
lại bằng văn tự như các cuộc thoại buôn
bán, các cuộc trao đổi, giao lưu, trò
chuyện của nhiều tầng lớp trong xã hội.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trịnh Sâm và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
7
Cuối cùng, cần phải phân biệt văn bản
nói với các hình thức đọc, chẳng hạn đọc
diễn văn, đọc báo cáo, đọc tin tức trên
radio, trên tivi thực chất đây là những
văn bản viết thay vì in ra gửi đến cho
người xem, người ta đọc lên, cũng cần
lưu ý một số trường hợp không thuần
nhất, chẳng hạn như bài giảng trên lớp
của thầy cô giáo là trình bày các văn bản
viết đã soạn sẵn, nhưng giao tiếp ở đây
có tính tương tác cao nên có pha trộn cả
hình thức nói.
2. Đặc điểm của văn bản nói
Theo Ngữ pháp chức năng hệ
thống, với một ngữ vực (register) có tính
chất bao trùm, trải dài trong tất cả ngõ
ngách của cuộc sống, cấu hình nghĩa và
các biến thể chức năng này có tầm hoạt
động rất rộng.
Ngữ vực của văn bản nói lại được
cụ thể hóa bằng những trường diễn ngôn
(field) rất đa dạng, có thể nói cuộc sống
có bao nhiêu lĩnh vực thì có bấy nhiêu
chủ đề - đề tài được phản ánh trong diễn
ngôn. Còn không khí diễn ngôn (tenor),
về cơ bản là được xây dựng trong tình
huống thân mật, giữa các nhân vật giao
tiếp có chung một niềm tin, dưới sự tác
động của một nền văn hóa, như các thành
viên trong gia đình, hoặc cùng sở thích
các hội đoàn, loại quan hệ cùng trang
lứa Nói về cơ bản mà không dám tuyệt
đối hóa, bởi văn bản nói không loại trừ
các cuộc giao tiếp có tính chất thăm dò,
đàm phán kinh tế, đàm phán ngoại giao,
và hiển nhiên tuy cũng là môi trường
tương tác như nhau, nhưng xét trên nhiều
phương diện, là có những điểm khác
nhau. Cuối cùng là cách thức diễn ngôn
(mod), ở đây thoạt nhìn, hình như có sự
đối lập giữa văn bản nói và văn bản viết,
phải thừa nhận rằng đây là sự đối lập rõ
nhất, dễ thấy nhất, nhưng thực ra trong
lòng từng tiểu hệ thống, từng biến thể
cũng có khác nhau về mức độ. Chẳng
hạn, cũng là hình thức nói, nhưng với các
chủ đề thuộc lĩnh vực cuộc sống đời
thường rất khác với các chủ đề như chính
trị, như kinh tế; hội thoại giữa các thành
viên gia đình chân thành cởi mở hoàn
toàn khác với giao tiếp xã giao khách sáo
trong đàm phán. Như vậy, sự phân biệt
văn bản nói/ văn bản viết chỉ có tính
tương đối ngoài sự đối lập về cách thức
giao tiếp.
Trên thực tế, khó lòng tìm thấy một
loại văn bản thuần khiết đơn chức năng,
mà vấn đề là chức năng nào có tính chất
nổi trội. Ngoài chức năng là giao tiếp và
tư duy, Phân tích diễn ngôn còn bàn đến
chức năng giao dịch và tương tác. Tại
đây, có thể nghĩ đến một sự lưỡng phân
nhỏ hơn nhưng lại có ý nghĩa phân lập,
văn bản nói thiên về chức năng giao tiếp,
có tính chất tương tác, cộng hưởng; còn
văn bản viết thiên về chức năng thông
tin.
Theo tri nhận luận, văn bản nói vốn
là kết quả của một sự tương tác, đòi hỏi
các tham thoại phải sử dụng các cấu trúc
ngữ dụng hợp lí, sử dụng tri thức nền, trí
nhớ dài hạn, trí nhớ ngắn hạn một cách
vô cùng linh hoạt. Trong đó, các ẩn dụ tri
nhận và liên kết giữa các ẩn dụ, hoán dụ
tri nhận đóng vai trò quan yếu trong hỗ
trợ lưu trữ, xử lí và truy xuất thông tin.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
8
2.1. Đặc điểm chi phối
Đặc điểm chi phối được hiểu là
những nhân tố ngữ dụng quan yếu chi
phối đến toàn bộ hoạt động văn bản, từ
quá trình hình thành, chất liệu sử dụng,
đến hình thức giao tiếp.
2.1.1. Ngữ cảnh tự nhiên
Văn bản nói là kết quả của một sự
tương tác hết sức tự nhiên. Do vậy, thủ
pháp quy chiếu bao gồm quy chiếu nội
chỉ và việc khai thác tính kế thừa thông
báo, tức các thông tin có tính chất hồi chỉ
đã diễn ra trong quá trình hội thoại, thứ
tự của sự luân phiên lượt lời, cũng như
việc điều khiển lèo lái các chủ đích thông
tin theo hướng khứ chỉ, việc sử dụng các
tri thức nền, các tiền giả định đều được
xuất hiện. Bên cạnh đó, các thủ pháp quy
chiếu ngoại chỉ với các thao tác chỉ xuất
không gian, chỉ xuất thời gian, chỉ xuất
chỉ định đều được phát huy tối đa, thậm
chí trong trường hợp này ngoại chỉ còn
quan trọng hơn cả nội chỉ, và chính ngữ
cảnh tự nhiên kéo theo hàng loạt hệ quả
làm nên sự khác biệt giữa văn bản nói so
với văn bản viết.
2.1.2. Giao tiếp đối mặt
Văn bản nói, kết quả của sự tương
tác liên nhân, một loại giao tiếp trực tiếp,
mặt đối mặt. Trong đó, sự luân phiên
thay đổi vai, sự thương lượng nghĩa được
thực hiện một cách dễ dàng. Nói như
ngôn ngữ học tri nhận, đối với người tạo
lập văn bản, việc tạo ra những tiêu điểm
quan yếu với những chỉ báo đi kèm, đối
với người nhận hiểu văn bản, việc ngoại
suy các tiêu điểm quan yếu dựa vào
những gợi ý thường không mất thời gian
nhiều. Bởi ngữ cảnh hiện đương bao gồm
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ bày ra trước
mắt, với một năng lực ngôn ngữ bình
thường, các tham thoại biết phải làm gì
để cuộc thoại đi đến chỗ thành công,
trong đó không thể không có vai trò của
việc tự điều chỉnh.
Do là giao tiếp trực tiếp nên các
tham thoại luôn nhận rõ đặc điểm của
môi trường, không khí, đặc biệt là quan
hệ giữa các nhân vật giao tiếp, từ đó mới
phân biệt đâu là nhân vật chính, tức
người nói (addressor) và người nghe mà
người nói nhắm đến (addressee) và đâu là
nhân vật vai phụ, người nghe tình cờ
người nghe hóng chuyện (audience) để
xây dựng các chiến lược giao tiếp tương
thích [6, tr.30-31].
2.1.3. Tính cá thể
Tính cá thể trong văn bản nói được
hiểu là những đặc điểm đại diện cho một
cộng đồng diễn ngôn nhưng đồng thời
cũng có thể là một cá nhân với những nét
riêng với tư cách là một con người độc
lập. Hiển nhiên, do giao tiếp trực tiếp,
gắn liền với không khí tự nhiên nên hơn
đâu hết, đây là môi trường dễ bộc lộ cá
tính dù muốn hay không, dù xét với tư
cách là bản ngữ cộng đồng hay cá nhân
riêng lẻ. Ngôn ngữ nói cho phép người ta
nhận ra đặc điểm diễn đạt ở một con
người, đây là ngôn ngữ bản ngữ hay
ngoại ngữ. Ngay cùng là bản ngữ nhưng
là người ở vùng nào, nước nào cũng được
bộc lộ thông qua giọng nói. Chẳng hạn
cùng là bản ngữ tiếng Anh phổ biến
nhưng tiếng Anh Mỹ khác với tiếng Anh
Anh, tiếng Anh Island, tiếng Anh Úc
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trịnh Sâm và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
9
Với ngôn ngữ thứ hai, chẳng hạn như
tiếng Anh Ấn Độ rất khác với tiếng Anh
Thái Lan, tiếng Anh Malaysia tất cả
đều dễ nhận thấy có dấu ấn của tiếng mẹ
đẻ. Ngay tiếng Việt nếu quan sát, chúng
ta cũng có thể biết được tiếng Việt vùng
nào, Bắc, Trung, hay Nam. Nói khác,
giọng nói có thể cung cấp nhiều thông tin
về quê kiểng, gốc gác, nói rộng ra là
những ảnh hưởng về văn hóa.
Như vậy, dấu ấn cá nhân bao gồm
những đặc điểm ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ thông qua tương tác trực tiếp, sẽ
cung cấp nhiều rất nhiều điều lí thú và bổ
ích.
2.1.4. Phản ứng linh hoạt
Nếu như văn bản viết do nhiều lí do
khác nhau, sự ứng xử, lựa chọn ngôn từ
là kết quả của một sự cân nhắc kĩ lưỡng,
thậm chí còn được biên tập, chỉnh sửa
cẩn trọng thì văn bản nói không có đặc
điểm này. Văn bản nói luôn bị khống chế
bởi thời gian, và tình huống. Nó đòi hỏi
chủ thể giao tiếp một sự phản ứng nhanh
nhạy và linh hoạt, sử dụng các thủ pháp
lấp chỗ trống, đẩy đưa, nối kết các ngữ
đoạn, xét từ phía tạo lập cũng như nhận
hiểu. Trong đó, việc cùng tham chiếu,
việc dùng các biểu thức chỉ xuất, việc
tung hứng, việc cộng hưởng, việc phô
diễn, nhận hiểu các yếu tố ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ làm cho ngôn ngữ nói rất
năng động.
2.1.5. Trong 4 đặc điểm chi phối bên
trên, có thể thấy sự giao tiếp mặt đối mặt
có ý nghĩa quan trọng, chính nó là nhân
tố có tầm tác động đến các nhân tố khác
trong hệ thống. Vì cùng tham gia trực
tiếp vào cuộc thoại, các nhân vật đều có
mặt và luôn gắn với một ngữ cảnh cụ thể,
việc tự điều chỉnh, việc suy ý là điều dễ
hiểu. Chính thông qua ngữ cảnh tự nhiên,
tính mục đích của cuộc thoại cũng như
cấu trúc của nó được bộc lộ. Và cũng
chính mặt đối mặt trong một ngữ cảnh,
dù là có tính gò bó nhưng lại bị khống
chế bởi thời gian, cho nên cá tính, tập
quán ngôn ngữ dù muốn hay hay không,
đều đươc thể hiện một cách rõ nét. Và để
cuộc thoại tiến triển, nhân vật giao tiếp
phải có một phản ứng ngôn từ hết sức
linh hoạt.
Trong bốn đặc điểm ấy thì hai đặc
điểm đầu thuộc về bản chất của sự kiện
giao tiếp, còn hai sự kiện sau thuộc về
các nhân vật giao tiếp.
2.1.6. Theo một quan niệm khá phổ biến,
chúng ta thường đơn giản cho rằng, văn
bản nói dễ hiểu hơn văn bản viết. Thật ra,
sự tình không hẳn thế.
Quan sát cuộc đối thoại sau đây thì rõ:
Sp1: Hôm qua cuối cùng rồi thế
nào?
Sp2: Chẳng đi đến đâu.
Sp1: Thế mà cứ tưởng là xong xuôi
rồi.
Sp2: Xong đâu mà xong!
(Hội thoại hàng ngày)
Dễ thấy, văn bản khai thác khá
nhiều tri thức ngữ cảnh, ở đây là tri thức
nền và nhiều tiền giả định. Và phải là
người trong cuộc mới có thể giải mã cuộc
thoại mà về mặt thao tác, lại không đơn
giản. Hóa ra, là dễ hay khó, đơn giản hay
phức tạp là phải xem xét, giao tiếp với ai,
người trong cuộc hay ngoài cuộc, mức độ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
10
thân/sơ thế nào, và đặc biệt liệu có khôi
phục được ngữ cảnh giao tiếp hay không.
M. A. K. Halliday, ông tổ của
trường phái ngữ pháp chức năng hệ
thống, người có công tiên phong trong
việc xem xét lại vai trò và chức năng của
văn bản nói và văn bản viết, sau một thời
gian dài ít được ngôn ngữ học chú ý đến,
có cách kiến giải vấn đề này khá đặc biệt.
Theo ông, văn bản nói không kém phức
tạp hơn văn bản viết, nhưng hai hình thức
biểu đạt này có độ phức tạp theo các cách
khác nhau. Độ phức tạp của ngôn ngữ
viết thể hiện ở độ đậm đặc, gắn kết và
đóng gói về mặt từ vựng nhưng lại nằm
trong một khung cú pháp khá đơn giản.
Trong khi đó, văn bản nói không tĩnh tại,
không đậm đặc, lại rất cơ động và rắc rối,
ý nghĩa được diễn đạt qua phương tiện
ngữ pháp nhiều hơn là từ vựng và kết cấu
cú pháp của nó là khá phức tạp. [8]
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản nói
sẽ được bài viết lần lượt trình bày dưới
các cấp độ: ngữ âm, từ vựng, cú pháp và
tổ chức văn bản.
2.2.1. Ngữ âm
Văn bản nói là văn bản có chất liệu
âm thanh. Các tham thể bao giờ cũng
phát ngôn dưới dạng một giọng nói nhất
định. Đối với người Việt, nếu quan sát,
dựa vào giọng nói cụ thể, chúng ta có thể
nhận biết quê quán người ấy ở vùng nào,
tất nhiên chỉ là trên những vùng lớn.
Do gắn liền với từng cá nhân cụ thể
nên các phương tiện ngữ âm bao gồm các
chiết đoạn đoạn tính cũng như các yếu tố
ngôn điệu chẳng những là mặt biểu đạt
trong tương ứng với mặt được biểu đạt
mà còn là phương tiện rất đắc địa để bộc
lộ cảm xúc. Tất cả các hiện tượng như tốc
độ nói nhanh hay chậm, gằn giọng hay
bình thường, việc nhấn giọng bằng trọng
âm cường điệu, trọng âm logic, bằng các
giọng như mỉa mai châm biếm, đay
nghiến, hờn dỗi, hiển nhiên không đơn
thuần là phương tiện hoàn toàn hình thức.
Trái lại, nhịp điệu cùng với ngữ điệu
trong lời nói miệng tạo nên những đặc
điểm tự nhiên rất riêng mà ngôn ngữ viết
không thể nào có được.
Hãy chú ý đến mẩu đối thoại sau:
Sp1: Ê, mày thấy tao mặc chiếc áo
này có đẹp hông?
Sp2: Đẹp lắm!
Đối với câu trả lời của Sp2, nếu nói
với một ngữ điệu bình thường thì đây là
một lời nhận xét tích cực. Nhưng nếu nói
với một ngữ điệu mỉa mai với cả hai âm
tiết đều được kéo dài, nhất là âm tiết sau
được kéo dài với một trường độ không
bình thường thì hẳn nhiên nó lại mang ý
nghĩa khác. Và với một ngữ điệu như vậy
lại có thêm biện pháp từ vựng hỗ trợ kiểu
như Đẹp lắm đem ra mà triển lãm được
đấy thì không còn nghi ngờ gì nữa, đây là
cách nói châm biếm.
Hay chú ý đến đoạn thoại của đôi
nam nữ sau đây:
Sp1: Nhỏ Ngọc ở lớp em có cặp
mắt đẹp ghê hén?
Sp2: Vâng, còn em thì xấu thôi!
(Cô bé đáp lại với giọng hờn dỗi)
Có thể nói, có bao nhiêu ngữ điệu
thì có bấy nhiêu cung bậc tình cảm, nhiều
khi chỉ có thể cảm mà khó lòng biện giải
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trịnh Sâm và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
11
một cách ngọn ngành.
Trong các ngôn ngữ biến hình, ngữ
điệu nói trên dòng ngữ lưu luôn luôn có
sự biến hóa rất đa dạng, trong đó đáng
chú ý là các hiện tượng nối âm và nuốt
âm.
Về hiện tượng thứ nhất, thường thì
trên dòng ngữ lưu, âm tiết trước kết thúc
bằng một phụ âm, âm tiết liền kề bắt đầu
bằng một nguyên âm thì lập tức có hiện
tượng nối.
Ví dụ như trong tiếng Anh: like it,
find out
I’ve been here for an hour. How
often do you come here.
Về hiện tượng thứ hai, trong ngữ
lưu có một số âm tiết bị nuốt hoặc lược
bỏ hoặc biến đổi.
Ví dụ: Have you [vju] got the time?
I can’t go because [kəz] I’m broke.
What time did she [dʃi:] get here?
I don’t want to [wɒnə] go out.
Do tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn
lập, ranh giới hình vị trùng với âm tiết
cho nên các âm tiết bao giờ cũng được
phát âm một cách tách bạch rạch ròi.
Trọng âm trong tiếng Việt có mối quan
hệ với ngữ pháp. Trọng âm bao giờ cũng
rơi vào âm tiết cuối cùng hay âm tiết duy
nhất của ngữ đoạn. Đáng chú ý là trọng
âm có chức năng phân giới ngữ đoạn.
Hoa hồng [01] có gai, khác với
Hoa hồng [11] lên trong nắng.
Cả nhà hát [01] đứng dậy vỗ tay
hoan hô nhiệt liệt khác với Cả nhà hát
[11] bài thánh ca mừng chúa trong đêm
Noel.
Làm nên đặc điểm ngữ âm trong
giọng nói của người Việt, trước hết là hệ
thống âm vị của từng phương ngữ, thứ
đến là các biến thể ngữ âm địa phương.
Ví dụ như giọng nói Bến Tre, giọng
nói vùng biển ở Thái Bình, Nam Định có
hiện tượng tr>t. Hiện tượng lẫn lộn l/n,
hiện tượng nhược hóa hoặc mất âm đệm
kéo theo hàng loạt sự biến đổi ở âm chính
như trong phương ngữ Nam Bộ, vần
ăn/ăng chuyển thành eng, vần ao chuyển
thành ô trong phương ngữ Quảng Nam,
Quảng Ngãi, vần ôi chuyển thành vần âu
trong giọng Bình Định nói chung, vần eo
chuyển thành vần ia trong một số vùng
biển ở Bình Định, cùng với một số hiện
tượng ngữ âm khác nữa làm nên tính đa
dạng trong các giọng vùng miền, cũng
như trong giọng các cá nhân cụ thể.
Liên quan đến giọng nói, cách đọc,
vấn đề chuẩn ngữ âm không đặt ra đối
với tiếng Việt, bởi trên thực tế không có
giọng nào là chuẩn mực và còn bắt nguồn
từ một thực tế sâu xa hơn: tiếng Việt là
một ngôn ngữ thống nhất nằm trong thế
đa dạng, tuy có khác biệt ngữ âm trong
từng phương ngữ, nhưng sự khác biệt đó
không cản trở nhiều đến trong giao tiếp.
Ngôn ngữ nói, rõ nhất là trên bình
diện ngữ âm trong nhiều thập kỉ qua có
những biến đổi sâu sắc. Do ảnh hưởng
của các cuộc di dân, kinh tế phát triển,
giao thông đi lại dễ dàng, các phương
ngữ không còn là ốc đảo, có sự pha trộn
tích cực giữa các giọng, có sự thẩm thấu
tự nhiên giữa các phương ngữ làm cho
các giọng nói xích lại gần nhau.
Bên cạnh đó, còn phải kể đến lí do
chủ quan thuộc về tâm lí ngôn ngữ, dù vô
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
12
thức hay ý thức. Có một thực tế là, các
thành phố lớn ở Việt Nam như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh có một sức cuốn
hút mãnh liệt đối với dân nhập cư. Hàng
năm, số lượng người từ nơi khác đến
sống tại các thành phố lớn là không ít.
Đối với cư dân vùng khác mới gia nhập
thành phố, giọng nói của họ bao giờ cũng
có sự điều chỉnh, trước hết là để không
quá khác biệt với cư dân tại chỗ, thứ hai
là để dễ giao tiếp, cho nên trong giọng
nói của họ bao giờ cũng có một số mô
hình ngữ điệu, cả từ vựng, nhất là những
tiểu từ tình thái của “ngôn ngữ thành
phố”. Theo thời gian, giọng địa phương
nhạt dần, và họ sớm hòa nhập vào cư dân
tại chỗ. Tất nhiên là còn lệ thuộc vào độ
tuổi. Nếu để ý chúng ta thấy có trường
hợp này, ví dụ ở Thành phố Hồ Chí
Minh, sinh hoạt trong gia đình cha mẹ
đều nói giọng Bắc nhưng con cái họ lại
nói giọng Nam, tuy có hơi “cứng” hơn so
với những đứa bé sinh trưởng tại chỗ.
Điều đó cho thấy, môi trường phát âm
của xã hội có ý nghĩa như thế nào trong
quá trình hình thành giọng nói cho một
đứa bé.
2.2.2. Từ vựng
Trước hết do văn bản nói là kết quả
của sự giao tiếp trực tiếp nên hay xuất
hiện các từ ngữ có chức năng đưa đẩy,
nhấn nhá đệm lót hay bộc lộ tình thái.
Đây cũng là phương tiện để lấp chỗ trống
trong quá trình lựa chọn ngôn từ để giao
tiếp và như đã phân tích ở trước, cùng với
ngữ âm, từ vựng cũng góp phần tạo nên
cá tính trong giao tiếp của các tham thể.
Trong một nghiên cứu khá công
phu trên cứ liệu tiếng Anh, Halliday
chứng minh được rằng, mật độ từ vựng
trong văn bản nói có xu hướng thấp hơn
trong văn bản viết. Ông khảo sát từ hai
góc độ: (i) Tỉ lệ thực từ trong tổng thể số
lượng từ được phân bố trong văn bản; (ii)
Tỉ lệ thực từ trong tổng thể số lượng cú
được phân bố trong văn bản. Trong cả hai
trường hợp, tỉ lệ mật độ thực từ trong văn
bản nói đều có xu hướng thấp hơn trong
văn bản viết. [8]
Về cơ bản, kết quả này mang tính
phổ quát. Điều đó làm nổi rõ hơn đặc
điểm của văn bản nói chẳng những ở
bình diện từ vựng mà còn ở bình diện cú
pháp. Vả lại, chúng cũng góp phần soi
sáng thêm tính phức tạp giữa văn bản và
ngôn bản theo mỗi cách khác nhau về từ
vựng ngữ nghĩa và ngữ pháp mà Halliday
từng kiến giải.
Trong văn bản nói thường xuất hiện
các tiểu từ như: à, ơi, nhỉ, nhé, các từ
ngữ lấp chỗ trống như vângvâng, còn
còn, và, thế là, với các từ ngữ có chức
năng kiểm thông như thế à, thế sao, phải
hông, ừ nhỉ, các dạng rút gọn ở bển,
ổng, bả, ngoải, ở trỏng các từ ngữ chỉ
xuất kiểu như ấy, đấy, này, nọ, đó kia,
các từ ngữ có chức năng phân đoạn lời
nói hừm, hừm, à à các từ ngữ bày tỏ
cảm xúc như ngạc nhiên ối trời ơi, úi
dào, mèn đéc ơi, lạy chúa tui, hết sẩy,
năm bờ oăn
Trong tiếng Anh cũng có hệ thống
từ ngữ với chức năng tương tự như ví dụ
lấp chỗ trống well, all rigt, right, then, so,
and, I see những từ ngữ đẩy đưa by the
way, like this, sort of, kind of, các dạng
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trịnh Sâm và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
13
rút gọn I’ll, d’ you, I’m, here’s, hay các
từ chỉ xuất this, that, here, there
Và bao trùm lên tất cả là một lớp từ
thông tục rất được ưa dùng, được sử dụng
khá rộng rãi như: cà kê dê ngỗng, búa
xua, ê hề, sao quả tạ, xúi quẩy, số dách,
bá láp, lủ khủ, biết chết liền; các từ
ngữ địa phương: rú, cơi, chộ, mô; các
từ nghề nghiệp như: chạp phô, hàng xén,
hàng xáo, nậu nguồn, nậu rỗi; các từ
ngữ lóng: cớm, bồ câu, đồ chơi cúp,
phao, đạn, bùa, giáo sư gây mê, tiến sĩ
gây mê; các quán ngữ: nói nào ngay,
nghiệt nỗi là, nói vô phép, nói khí không
phải, nói bỏ ngoài tai
Tùy theo ngữ vực, các đơn vị thành
ngữ, tục ngữ được sử dụng với số lượng
khác nhau, màu sắc khác nhau như bằng
mặt chứ không bằng lòng, ông nói gà, bà
nói vịt, tùy cơ ứng biến.., nhập gia tùy
tục, cá không ăn muối cá ươn, mất bò
mới lo làm chuồng.
Phổ biến và đa dạng nhất là những
đơn vị gắn ngữ vực sinh hoạt hằng ngày:
vào ba ra bảy, cho chó ăn chè, xả láng
sáng về sớm, yêu thì khổ không yêu thì lỗ,
tới luôn bác tài, ba gai, teo bu gi
Mật độ hư từ, tức lớp từ vựng ngữ
pháp trong văn bản nói xuất hiện cao hơn
văn bản viết.
2.2.3. Cú pháp
Do nhiều lí do khác nhau, các ngữ
đoạn trong văn bản nói thường không
được nối kết theo chuỗi một cách mạch
lạc liên tục mà thường có nhiều chỗ gián
đoạn, chêm xen. Vả lại, do tương tác với
ngữ cảnh cho nên người ta ít sử dụng
trường cú. Do vậy cấu trúc câu đơn giản,
ít có tầng bậc và trong nhiều trường hợp
rất khó xác định thuộc sở hữu của chủ thể
phát ngôn nào.
Hãy chú ý đoạn đối thoại sau đây
giữa Vũ Trọng Phụng (sp1) và Tản Đà
(sp2):
Sp1: Mời cụ Sơi kẹo lạc.
Sp2: Ông bảo cái gì?
Sp1: Dạ, kẹo lạc va-ni ròn và thơm
lắm.
Sp2: Kẹo lạc! Ăn ra cái quái gì.
(Giai thoại làng văn)
Có thể thấy, bên cạnh một số từ ngữ
biến âm địa phương, về mặt ngữ pháp, về
tương tác hội thoại và cả tổ chức văn bản
đều có những vấn đề đặc trưng cho văn
bản nói.
Nhìn một cách khái quát, câu trong
văn bản nói chứa hai đặc điểm thoạt nhìn
dễ tưởng mâu thuẫn nhau, đó là một mặt
chứa rất nhiều yếu tố dư thừa, thường là
những ngữ đoạn đẩy đưa, nhưng mặt
khác do gắn liền với ngữ cảnh nên cho
phép tỉnh lược tối đa, nhiều khi tỉnh lược
cả chủ ngữ lẫn vị ngữ, chỉ giữ lại tiêu
điểm thông báo.
Chị lái đò dè dặt:
- Bạch thầy! Mời thầy lên bờ.
Nhà sư lắc đầu:
- Thôi, tôi nghĩ lại rồi Cho tôi về.
Ngần ngừ giây lát, ông lưỡng lự
nói:
- Tôi sẽ đi sau.
(Nguyễn Huy Thiệp)
Có thể khái quát, câu đơn giản có
cấu trúc một nòng cốt, hoặc một trong hai
nòng cốt xuất hiện rất phổ biến trong văn
bản nói.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
14
Và cũng giống như một số ngôn
ngữ khác, trong tiếng Việt có một số cấu
trúc chuyên dụng cho văn bản nói, kiểu
như: Đúng rồi; có biết không?;
thế đấy; À
2.2.4. Tổ chức văn bản
Đặc điểm ngữ cảnh tự nhiên không
những chi phối cách tổ chức ngôn ngữ
trong phạm vi câu mà còn ảnh hưởng đến
việc tạo lập văn bản và nhận hiểu văn
bản. Quả vậy, nếu như trong văn bản
viết, để bảo đảm tính mạch lạc liên thông,
mối liên kết giữa các phát ngôn, giữa các
đoạn, giữa các phần, nói rộng ra giữa các
cấu tố làm nên văn bản, nhìn chung là rất
rõ ràng, thậm chí nhìn vào các phương
thức liên kết, người đọc có thể phân giới
được các ý, thậm chí đâu là ý chính đâu
là ý phụ, trong khi đó, ở văn bản nói
không hoàn toàn như thế. Ở đây có thể
khẳng định, chính ngữ cảnh là bà đỡ cho
văn bản và ngữ cảnh sẽ gắn kết các hành
động ngôn từ, làm cho chúng liên thông
mạch lạc, mặc dù trên bề mặt văn bản
không có bất kỳ một dấu hiệu hình thức
nào cho thấy chúng liên kết với nhau.
Đối với văn bản viết, dù có phức
tạp đến mấy cũng có thể tiến hành mô
hình hóa, còn đối với văn bản nói sự tình
không đơn giản như vậy. Các nhà ngữ
dụng đã cố gắng xác lập các cách mở
thoại, sự vận động của cuộc thoại và kết
thoại nhưng xem ra rất khó bao quát hết
các tình huống giao tiếp. Có lẽ, một trong
những khó khăn trong tiếp nhận nội dung
đối với người nghe ngoài cuộc thoại là
trong văn bản nói thường có sự chuyển
hướng, sự thay đổi đề tài rất nhanh,
không có dấu hiệu hình thức đánh dấu.
Vả lại, trên nguyên tắc giao tiếp cục bộ,
đề tài của cuộc thoại có thể lặp lại, ví dụ
cả nhóm thanh niên đang hóng chuyện về
bóng đá, liền sau đó là bàn về tình hình
chính trị, sau lại đột ngột trở lại bóng đá.
Cách tổ chức chủ đề như vậy là bình
thường trong văn bản nói, nhưng rõ ràng
không thể có được trong văn bản viết.
Hãy chú ý đến sự chuyển đề tài khá
đột ngột trong văn bản nói sau đây:
Ông giáo Chi cảm thấy nghẹt thở,
nước mắt chảy ra giàn giụa. Ông cười
không thành tiếng:
- Ừ vậy nó là thanh tra giáo
dục Thế nó nói gì?
- Không nói gì cả.
- Thằng ông mãnh! Thế là nó
khôn
- Được cái thật thà Mà khỏe lắm!
Cứ như lực điền...
- Đúng rồi Tất cả là cảm giác
- Hồi ấy là mùa thu Hoa cúc nở
vàng như mê như man ở trong thung
lũng. Mật ong thì nhiều vô kể Lũ học
trò mang đến cho con bao nhiêu là hoa
với mật ong
(Nguyễn Huy Thiệp)
Trong văn bản nói tiếng Việt, từ sau
Cách mạng Tháng Tám, có cách phân
đoạn nội dung bằng cách đánh dấu mỗi
đoạn bằng các con số kiểu như: một là,
hai là, ba là Phương thức này đến nay
vẫn còn thấy trong nhiều diễn ngôn chính
trị.
3. Kết luận
Văn bản nói không thể tách rời khỏi
ngữ cảnh, bao gồm ngữ cảnh rộng và ngữ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trịnh Sâm và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
15
cảnh hẹp. Dựa vào căn cứ này, bài viết đã
chỉ ra một số đặc điểm trong và ngoài
ngôn ngữ. Về khía cạnh thứ nhất, các đặc
điểm ngôn ngữ trải dài trên tất cả các cấp
độ từ ngữ âm đến tổ chức văn bản, về
khía cạnh thứ hai, đây là các tác nhân chi
phối đến sự lựa chọn các chiến lược giao
tiếp cũng như suy ý của các tham thể.
Việc xác định đặc điểm của văn bản nói
không chỉ có giá trị về mặt nhận thức mà
còn có ý nghĩa trong giáo dục ngôn ngữ.
Bởi vì,trong giao tiếp, người ta thường
dùng những trải nghiệm nhiều hơn về
một sự vật, hiện tượng cụ thể để nhận
thức một sự vật, hiện tượng trừu tượng và
ít trải nghiệm hơn. Nguyên lí này, sẽ là
những gợi ý bổ ích cho các nhà soạn sách
giáo khoa cũng như giảng dạy bản ngữ,
ngoại ngữ trong việc phát triển ngôn ngữ,
trong đó có ngôn ngữ nói.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giáo
dục.
2. Halliday M. A. K. (2002), Dẫn luận ngữ pháp chức năng (Hoàng Văn Vân dịch),
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
4. Biber, D. (1988), Variation across speech and writing. Cambridge: Cambridge
University Press.
5. Biber, D., Johansson, S., Leech, G., Conrad,S., &Finegan,E. (1999), The Long man
Grammar of Spoken and Written English, London: Longman.
6. Biber, D. (2006), University language: acorpus-based study of spoken and written
registers, Amsterdam: JohnBenjamins.
7. Nunan, D. (1993), Introduction to discourse Analysis,London : Penguin Books.
8. Halliday M. A. K. (1987), Spoken and written models of meaning,in Comprehending
oral and written language, New York : Academic press.
9. Halliday, M. A.K., & Hasan, R., (1985/1989), Language, context, and text: aspects of
language in asocial-semioticper spective. Oxford: Oxford University Press.
10. Diane Ponterotto (2000), The cohensive role of cognitive metaphor in discourse and
conversation, in Metaphor and Metonymy at the Crossroads, Mouton de Gruyter.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 03-9-2014; ngày phản biện đánh giá: 16-10-2013;
ngày chấp nhận đăng: 23-10-2014)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1_9445.pdf