Chương 11 Đánh giá danh mục đầu tư

Ứng dụng thước đo Jensen Đòi hỏi sử dụng RFR khác nhau cho từng giai đoạn trong kỳ mẫu. So với T và S: xem xét lợi suất bình quân trên toàn kỳ đối với tất cả các biến số (danh mục, thị trường và tài sản phi rủi ro) Giống T: J không trực tiếp xem xét khả năng đa dạng hóa của nhà QT, vì nó tính mức bù rủi ro theo rủi ro hệ thống. Giả thiết này là hợp lý khi áp dụng đánh giá các quỹ đầu tư (đa dạng hóa hoàn toàn).

ppt25 trang | Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2653 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương 11 Đánh giá danh mục đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH GIÁ DANH MụC ĐầU TƯ Chương 11 NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH Các giải pháp đánh giá danh mục Trước 1960: Đánh giá chủ yếu dựa vào tỷ suất lợi nhuận. Chưa có phương pháp lượng hóa rủi ro nên không thể đưa rủi ro vào bài toán đánh giá; lợi suất và rủi ro được xem xét tách rời. Phương pháp phổ biến: So sánh đồng đẳng. Nhóm các danh mục lại theo cùng mức rủi ro (phương sai) và so sánh lợi suất của các danh mục trong một nhóm. Nhược điểm: không tính đến rủi ro một cách trực tiếp, không tạo thành nhóm đồng đẳng đủ lớn, lợi suất tương đối không gắn với mục tiêu và những điều kiện ràng buộc của đầu tư. Sau 1960s Lý thuyết đầu tư hiện đại được xây dựng, với mô hình CAPM. Đòi hỏi đánh giá thành tích quản trị danh mục đầu tư phải gắn lợi nhuận với rủi ro  Các phương pháp đánh giá tổng hợp ra đời. Những đòi hỏi đối với nhà quản trị Mức lợi suất trên trung bình Theo lý thuyết hiện đại, lợi suất vượt trội (trên mức trung bình thị trường) điều chỉnh theo rủi ro có thể đạt được nhờ: Năng lực phân tích thời điểm (timing) vượt trội, hoặc Năng lực lựa chọn chứng khoán vượt trội. Năng lực phân tích thời điểm: đưa ra được các dự báo về xu hướng của nền kinh tế, giá cả, lãi suất… để xây dựng và điều chỉnh danh mục hợp lý, đạt lợi nhuận cao. Năng lực lựa chọn chứng khoán: tìm ra những chứng khoán bị đánh giá thấp so với rủi ro. Phân tích thời điểm (timing) DANH MỤC CỔ PHIẾU DANH MỤC TRÁI PHIẾU Năng lực thực hiện đa dạng hóa Thị trường chỉ “thưởng” cho nhà đầu tư về việc chấp nhận rủi ro hệ thống. Rủi ro phi hệ thống không được tính tới trong mức lợi suất đòi hỏi. → nhà quản trị muốn danh mục được đa dạng hóa hoàn toàn, để loại bỏ rủi ro phi hệ thống. Mức độ da dạng hóa: được đánh giá theo tương quan giữa lợi suất của DM với lợi suất của DM chuẩn (ví dụ, chỉ số thị trường). Danh mục đa dạng hóa hoàn toàn có tương quan hoàn hảo với danh mục chuẩn. Phương pháp Treynor Treynor xây dựng một thước đo tổng hợp thành tích danh mục, có tính đến rủi ro. Tổng rủi ro = rủi ro do những biến động thị trường tổng thể + rủi ro do những biến động riêng của các chứng khoán trong DM. Rủi ro thị trường được nhận diện bằng đường đặc trưng chứng khoán; độ dốc của nó thể hiện tính biến động tương đối (β). Độ lệch khỏi đường đặc trưng cho thấy rủi ro riêng của danh mục, bắt nguồn từ lợi suất của các cổ phiếu riêng lẻ. Danh mục được đa dạng hóa hoàn hảo thì rủi ro cá biệt của những cổ phiếu riêng lẻ sẽ loại bỏ nhau. Tương quan giữa danh mục với thị trường tăng lên, rủi ro cá biệt giảm và tính đa dạng tăng lên. Công thức tính hệ số Treynor Áp dụng cho mọi nhà đầu tư, không phân biệt mức độ chấp nhận rủi ro. Kết hợp một tài sản phi rủi ro với những danh mục đầu tư khác nhau, tạo thành những “đường danh mục khả thi” tương ứng. Một nhà đầu tư hợp lý, sợ rủi ro sẽ luôn luôn thích đường danh mục khả thi cao hơn (có độ dốc lớn hơn). Công thức cho biết mức bù rủi ro trên một đơn vị rủi ro hệ thống T càng lớn, độ dốc của đường danh mục khả thi càng lớn và danh mục càng tốt hơn đối với mọi nhà đầu tư. So sánh T của danh mục với T của thị trường để biết danh mục này có nằm bên trên SML không. Ví dụ: tính giá trị T; RM = 14%; RFR = 8% Nhà quản trị W: xếp hạng thấp nhất, kém hơn cả danh mục thị trường Cả X và Y đều “thắng” danh mục thị trường, đều nằm bên trên đường SML Beta âm: ví dụ về danh mục vàng Nhà quản trị G đầu tư mạnh vào các cổ phiếu khai thác vàng trong một thời kỳ bất ổn về kinh tế, chính trị. Danh mục G có beta = -0,2 và lợi suất trung bình = 10%. TG = (0,10 – 0,08)/ - 0,02 = - 0,100 Mặc dù TG âm, nó vẫn nằm bên trên đường SML. Nhận xét Thành tích lợi suất rất kém, hoặc rất tốt với rủi ro rất thấp, đều đem lại giá trị T RFR cũng có T 0, vì lợi suất thực tế của những DM của họ luôn lớn hơn lợi suất dự tính theo mô hình. Để tìm ra nhà quản trị này → cho phép một điểm chặn (hằng số ≠ 0) đo lường khoảng cách + hoặc – so với mô hình. Khoản chênh lệch >0 → điểm chặn > 0 Rjt - RFRt = αj + βj [RMt – RFRt] + ejt Alpha > 0 cho biết nhà quản trị có năng lực trong phân tích thời điểm thị trường và lựa chọn cổ phiếu. α cho biết: trong lợi suất của DM có bao nhiêu là do năng lực của nhà quản trị (dự báo thị trường hoặc lựa chọn cổ phiếu) để đạt được lợi suất điều chỉnh theo rủi ro cao hơn mức trung bình. Ứng dụng thước đo Jensen Đòi hỏi sử dụng RFR khác nhau cho từng giai đoạn trong kỳ mẫu. So với T và S: xem xét lợi suất bình quân trên toàn kỳ đối với tất cả các biến số (danh mục, thị trường và tài sản phi rủi ro) Giống T: J không trực tiếp xem xét khả năng đa dạng hóa của nhà QT, vì nó tính mức bù rủi ro theo rủi ro hệ thống. Giả thiết này là hợp lý khi áp dụng đánh giá các quỹ đầu tư (đa dạng hóa hoàn toàn). ϬER đôi khi còn gọi là tracking-error của danh mục, là chi phí của quản trị chủ động. IR có thể được coi là hệ số lợi ích – chi phí. Nếu lợi suất định kỳ được đo T lần/năm, thì hệ số IR hàng năm sẽ là: (Trong đó ϭe là sai số chuẩn của phép hồi quy)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pptch11_danh_gia_danh_muc_dau_tu_9205.ppt