Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của người Việt

Thứ ba, thế giới hiện đại hôm nay có khuynh hướng nhấn mạnh tính toàn cầu hóa về các quyền của trẻ em. Trong quan niệm phương Tây, tuổi thơ được xem như một quá trình dài của tình trạng chưa chín và do đó trẻ con cần và có quyền được trợ giúp. Văn hóa Việt Nam truyền thống ngược lại đặt lên vai trẻ con những bổn phận hơn là quyền. Trong số những bổn phận ấy là nghĩa vụ của em với anh, của con cái với cha mẹ, của cháu chắt với các bậc tiền nhân, v.v. Được sinh ra và nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa như vậy, trẻ em ngay từ nhỏ đã sớm tiếp thu và thực hành các khuôn mẫu đạo đức ấy một cách tự nhiên. Nhìn từ viễn cảnh đổi thay của xã hội, những ràng buộc văn hóa này là một gánh nặng của quá khứ đối với việc mang lại các quyền thực sự cho trẻ em. Trong khi những lời hùng biện vẫn vang lên về bảo vệ các quyền lợi của trẻ, cội rễ sâu xa của tình trạng lạm dụng tuổi thơ nằm sâu trong các nền tảng văn hóa lại vẫn thường bị lờ đi. Đấy chính là những thách thức của quá trình chuyển hóa toàn cầu từ bổn phận sang quyền của trẻ em ở các xã hội nơi mà những khuôn mẫu đạo đức bảo thủ vẫn đang cắm rễ như là một tác nhân của sự trì trệ.

pdf12 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của người Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 3&4 (67&68), 1999 85 Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt Nguyễn Văn Chính ở Việt Nam, các giá trị văn hóa cũ đ−ợc xem là bị ảnh h−ởng nặng nề bởi đạo Khổng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và gia đình. Tuy nhiên, cho đến hiện thời, còn có rất ít những nghiên cứu về ảnh h−ởng giáo thuyết này lên quá trình xã hội hóa của trẻ em trong xã hội Việt Nam. Bài viết này chỉ nêu lên một vài quan sát dân tộc học và xã hội học nhằm xem xét một vấn đề đ−ợc gợi ra từ nhiều nghiên cứu của các tác giả Tây Âu về mối liên hệ giữa mức sinh cao và vai trò kinh tế của trẻ em trong các xã hội nông dân châu á. Vấn đề này thực ra đã đ−ợc giới khoa học thảo luận sôi nổi từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ này, đặc biệt là từ khi Mamdani công bố công trình nghiên cứu nổi tiếng của ông, cuốn Huyền thoại về kiểm soát dân số (1972), trong đó cho rằng trẻ em là một nguồn lao động quan trọng đối với các gia đình tiểu nông châu á, và những công việc do trẻ em đảm nhiệm là một nguồn bổ sung cho lao động của ng−ời lớn. Mamdani cho rằng có nhiều con là một chiến l−ợc để làm tăng tích lũy kinh tế của hộ gia đình vì theo ông, những ng−ời nông dân ít có điều kiện nâng cao mức sống thì không những không tìm cách giảm mức sinh mà ng−ợc lại, họ còn mong muốn tăng thêm số con (Mamdani 1972:127). Sau Mamdani, hàng loạt các nghiên cứu nhân học khác về các xã hội nông dân châu á đã ủng hộ hoặc phát triển lý thuyết của ông về mối liên hệ giữa mức sinh cao và lao động của trẻ em, chẳng hạn, Hull (1975), Mueller (1976), White (1975, 1976), Nag (1972), Phan Đại Doãn (1983, 1987), Nag và Kak (1984), v.v... Dựa trên tài liệu đ−ợc tập hợp từ đợt nghiên cứu thực địa dài ngày tại một làng thuộc tỉnh Hải D−ơng năm 1995 là làng Giao, bài viết này sẽ tập trung thảo luận về mối quan hệ giữa tỷ lệ sinh cao và vấn đề sử dụng lao động của trẻ em trong xã hội nông dân. Trong khi không chối bỏ các vai trò kinh tế của trẻ em đ−ợc nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh, chúng tôi cho rằng chính các yếu tố cấu trúc của gia đình, các ràng buộc văn hóa và các giá trị xã hội của trẻ em là nguyên nhân cơ bản của tình trạng mức sinh cao. Để làm rõ giả thiết này, tr−ớc hết chúng tôi sẽ phân tích vai trò của trẻ em trong cấu trúc gia đình và dòng họ, chỉ ra tại sao sinh con, đặc biệt là con trai, lại quan trọng đến nh− vậy đối với các gia đình Việt Nam và sau đó sẽ xem xét ảnh h−ởng của đạo Khổng lên giáo dục gia đình và quá trình xã hội hóa của trẻ em, một quá trình đã ăn sâu, bén rễ trong xã hội ta từ nhiều thế kỷ qua và vẫn đang còn là tác nhân sâu xa của động cơ sinh đẻ mà th−ờng gây ra những bất ổn cho các ch−ơng trình kế hoạch hóa gia đình. 1. Vị trí của trẻ em trong cấu trúc gia đình và dòng họ Sống trong bối cảnh của một cộng đồng nông thôn với hàng loạt các quan hệ xã hội và kinh tế phức tạp, ng−ời nông dân luôn luôn giữ t− cách là thành viên của một hay nhiều tổ chức kinh tế-xã hội tồn tại trong làng. Giống nh− nhiều làng khác ở đồng bằng sông Hồng, Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt 86 làng Giao trong lịch sử cũng đ−ợc cấu tạo trên cơ sở của những bộ phận hợp thành. Nếu xem làng Việt là một cấu trúc thì ta có thể gọi những bộ phận này là các cấu trúc phụ. Các cấu trúc phụ ấy có thể bao gồm các nhóm cộng đồng nhỏ trong làng, chẳng hạn, các tổ chức theo địa bàn c− trú (xóm, ngõ), theo huyết thống (dòng họ), các cộng đồng tín ng−ỡng (thờ thần bảo hộ làng, hội phật tử, những ng−ời theo đạo thiên chúa v.v...), các tổ chức theo giới tính (giáp, chẳng hạn, là một tổ chức của những ng−ời đàn ông trong khi hội ch− bà lại chỉ bao gồm những ng−ời phụ nữ theo đạo Phật), và nhiều loại ph−ờng hội khác nh− hội họ, hội đồng niên, hội t− văn và các ph−ờng nghề nghiệp. Trải qua nhiều thập kỷ cách mạng, không kể một vài loại hội nh− giáp và t− văn đã mất đi hoặc biến dạng, hầu hết các tổ chức còn lại đã chứng tỏ sức sống dai dẳng của nó để rồi phục hồi mạnh mẽ từ sau các cải cách kinh tế hồi cuối thập kỷ 1980. Tuy nhiên, v−ợt lên trên cả một phức hợp các mối quan hệ trong làng, gia đình vẫn luôn luôn nổi bật lên nh− là một tổ chức quan trọng nhất trong đời sống của dân làng. Thực ra, trong ý niệm của ng−ời dân địa ph−ơng, thuật ngữ gia đình không hẳn là để chỉ một gia đình hạt nhân gồm cha mẹ và các con của họ mà còn để chỉ một phạm vi t−ơng đối lớn hơn, gọi là chi họ (gia đình mở rộng). Mặc dù khuynh h−ớng "hạt nhân hóa" gia đình đang tăng lên gần đây, hình thức gia đình mở rộng vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của dân làng Giao1. Do đó, muốn hiểu đ−ợc vị trí của trẻ em trong xã hội, ng−ời ta không thể bỏ qua cấu trúc của gia đình mà trong đó đứa trẻ đ−ợc sinh ra, nuôi d−ỡng, giáo dục và tr−ởng thành. 1.1. Dòng họ. Hệ thống thân tộc Việt Nam đ−ợc xây dựng trên cơ sở của một mô hình trọng nam, gọi là họ, dòng họ hay gia tộc (patrilineage). Thành viên của họ tin rằng mình đ−ợc sinh ra từ một ông tổ chung (thủy tổ), ng−ời mà họ có bổn phận thờ cúng và tin t−ởng sẽ đ−ợc tổ tiên ban phúc và che chở. Một dòng họ thông th−ờng bao gồm nhiều chi họ trong đó ng−ời tr−ởng họ thờ ông tổ chung của dòng họ trong khi các tr−ởng chi có trách nhiệm thờ các vị tổ từ tứ đại trở xuống. Sự phân nhiệm này thực ra phản ánh các mức độ thân sơ khác nhau của các quan hệ thân tộc trong họ. Các thành viên trong họ th−ờng cảm thấy có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau, cả về vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt trong các dịp quan, hôn, tang, tế cũng nh− những dịp gặt hái. Trao đổi lao động giữa các hộ gia đình là thành viên của cùng một dòng họ cũng th−ờng đ−ợc nhìn nhận, đặc biệt từ khi vai trò kinh tế hộ gia đình đ−ợc công nhận trở lại. Nhiều khi những tranh chấp giữa các cá nhân khác họ đã trở thành xung đột giữa các họ. Điều này cho thấy hệ thống thân tộc, với t− cách là một cấu trúc xã hội, có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống làng xã. Tuy nhiên, cần nhận thấy các quan hệ họ hàng cũng có những cấp độ khác nhau cần phải làm rõ. Thuật ngữ họ th−ờng đ−ợc sử dụng để chỉ các quan hệ họ hàng chung, có sự phân biệt rõ ràng giữa họ đằng cha (họ nội) và họ đằng mẹ (họ ngoại). Trong các quan hệ hai chiều này, cũng có sự phân biệt giữa họ xa (chỉ các thành viên của cùng một họ nh−ng khác chi) và họ gần (các thành viên trong cùng một chi họ, thờ cùng một ông tổ tứ đại trở 1 Houtart và Lemercinier (1981) cho rằng khuynh h−ớng "hạt nhân hóa" các gia đình ở đồng bằng Bắc Bộ đã tăng lên trong khi L−ơng Văn Hy (1989) nhấn mạnh tính hai chiều của quan hệ thân tộc Việt Nam, mà theo ông, “vẫn đang tồn tại nh− là những thông số căn bản của nền tảng gia đình và các quan hệ giới trong suốt thế kỷ 20" (1989: 741-42). Quan sát của chúng tôi ở làng Giao năm 1995 chỉ ra rằng khuynh h−ớng tách hộ hình nh− có chiều h−ớng gia tăng mạnh từ khi chế độ khoán sản phẩm ra đời và đặc biệt từ khi chính sách chia lại ruộng đất cho hộ gia đình nông dân đ−ợc áp dụng vào đầu những năm 1990. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Văn Chính 87 xuống). Hơn nữa, quan hệ họ hàng còn đ−ợc phân biệt giữa họ ruột và họ nói chung. Chẳng hạn, những ng−ời anh em do cùng một bố - mẹ sinh ra, gọi là anh chị em ruột, đối lại với anh chị em họ là những ng−ời do những anh chị em cùng thế hệ với bố, mẹ sinh ra. Trong khi "cùng với các mối quan hệ khác, sự phân biệt giữa họ nội và họ ngoại cho thấy sự thừa nhận tầm quan trọng của các quan hệ họ hàng trong và ngoài gia đình hạt nhân" (L−ơng Văn Hy 1989: 747), nó cũng, trên thực tế, chỉ ra một ngụ ý rõ ràng về các mức độ khác nhau giữa quyền và nghĩa vụ trong nội hàm của hai khái niệm ruột và họ. Chẳng hạn, đối với một đứa trẻ, cậu ruột (anh em trai của mẹ) đ−ơng nhiên quan trọng hơn cậu họ, (những ng−ời anh em họ của mẹ) và đổi lại, ng−ời cậu ruột cũng cảm thấy có quyền và bổn phận với cháu ruột cao hơn đối với cháu họ của mình. 1.2. Gia đình và trẻ em trong gia đình Con trai và vị trí ng−ời con trai cả Các quan hệ họ hàng dựa trên cấu trúc trọng nam gán cho những ng−ời con trai, đặc biệt ng−ời con trai cả, một vị trí quan trọng. Kết quả khảo sát của chúng tôi tại làng Giao chỉ ra rằng trong khi phần lớn các hộ gia đình trong làng (69% tổng số hộ) là loại gia đình hạt nhân có hai thế hệ cùng chung sống, gồm cha mẹ và các con của họ, có đến 30% số hộ vẫn bao gồm từ ba thế hệ trở lên sống chung d−ới một nóc nhà. Kết quả phỏng vấn với dân làng cho thấy mô hình gia đình cũ trong đó coi gia đình nhiều thế hệ nh− là một biểu t−ợng của đoàn kết và hạnh phúc gia đình vẫn còn đ−ợc coi trọng trong những ng−ời già. Trong quá khứ, hộ gia đình với bốn hoặc năm thế hệ cùng chung sống đ−ợc coi là lý t−ởng và đ−ợc nhà n−ớc phong kiến đề cao2. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, biểu t−ợng này đã mất đi sự hậu thuẫn của hệ thống chính trị. Mặc dầu vậy, quan sát lối c− trú của hộ, ng−ời ta vẫn có thể nhận ra rằng hầu hết các hộ gia đình có ba thế hệ cùng chung sống ở làng Giao là các hộ của những ng−ời con trai cả. Những ng−ời này sau khi c−ới đã ở lại trong cùng khuôn viên với cha mẹ và những ng−ời anh chị em ch−a c−ới của mình trong khi những ng−ời em trai khác th−ờng đ−ợc cha mẹ giúp làm nhà và lập gia đình riêng sau khi c−ới. Ng−ời con trai cả th−ờng đ−ợc giữ ở lại với cha mẹ bởi vì anh ta sẽ thừa h−ởng từ ng−ời cha không chỉ nhà cửa mà còn tiếp tục kế thừa bổn phận thờ cúng gia tiên. Trong những gia đình đông con, ng−ời con trai út th−ờng thiệt thòi hơn so với các anh bởi vì khoảng cách tuổi tác giữa ng−ời con cả và con út t−ơng đối lớn. Khi ng−ời con út lớn lên thì các anh đã có gia đình riêng và bố mẹ cũng đã già. Vì thế, khuynh h−ớng bù đắp cho con út đ−ợc biểu hiện t−ơng đối rõ ở các gia đình loại này. Ng−ời mẹ th−ờng ở với ng−ời con út để giúp đỡ việc nhà. Những ng−ời con trai trong các gia đình chỉ có một con trai duy nhất th−ờng đ−ợc chiều chuộng một cách đặc biệt, ít khi bị bố mẹ bắt làm việc nặng cho đến lúc tr−ởng thành. Không có cơ sở để khẳng định sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái nh−ng cha mẹ chắc chắn kỳ vọng vào những ng−ời con trai . Vì vậy sự h−ớng nghiệp cho các con trai đ−ợc thể hiện t−ơng đối rõ ràng. Con gái "Con gái là con ng−ời ta", câu ngạn ngữ quen thuộc này có ngụ ý rõ ràng đối với vị trí của ng−ời con gái so với các anh em trai của họ. Những quan sát trực tiếp ở các gia đình làng Giao cho thấy rằng con gái th−ờng bắt đầu làm các công việc vặt trong nhà ở độ 2 Các sách "Đại Nam Thực Lục" và “Đại Nam Nhất Thống Chí ” cho biết d−ới triều Nguyễn, nhà n−ớc có định kỳ xem xét và tặng th−ởng cho những gia đình gồm bốn hoặc năm thế hệ cùng chung sống hòa thuận nhằm cổ súy cho lý t−ởng hạnh phúc gia đình theo quan điểm Nho giáo. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt 88 tuổi sớm hơn con trai. Việc sớm định h−ớng vào các công việc nội trợ của con gái xuất phát từ quan niệm của xã hội x−a đối với vai trò của một ng−ời vợ sẽ phải đảm nhiệm trong t−ơng lai. Nguyên tắc c− trú bên nhà chồng sau hôn nhân đã đặt những ng−ời con gái ở vị trí "ng−ời ngoài" nh− câu nói cửa miệng của nhiều ng−ời, nữ nhi ngoại tộc. Đặc biệt, kể từ khi lấy chồng, ng−ời con gái không còn vai trò quyết định ở nhà bố mẹ đẻ nữa, mặc dầu họ vẫn giữ mối quan hệ th−ờng xuyên và làm các bổn phận của ng−ời con đối với bố mẹ và họ nội của mình. Quãng thiếu thời của con gái đ−ợc xem là một quá trình xã hội hóa hoặc học nghề trong đó ng−ời mẹ sẽ kèm cặp để giúp họ nắm đ−ợc các công việc nội trợ khi về nhà chồng. Thành công của một ng−ời phụ nữ trong con mắt của gia đình nhà chồng đ−ợc đánh giá cao ở chỗ cô ta hoàn thành các việc nội trợ thế nào và liệu cô có sinh đ−ợc con trai cho nhà chồng hay không. Con gái ở làng Giao ngày nay cũng đ−ợc thừa h−ởng một phần gia tài của cha mẹ để lại trong khi của hồi môn không phải là một điều kiện nhất thiết đối với con gái khi lấy chồng. Nhiều gia đình không có con trai cũng chấp nhận cho gửi rể và ng−ời con gái trong tr−ờng hợp này đ−ợc thừa h−ởng toàn bộ gia tài của cha mẹ mình. Tuy nhiên, c− trú bên nhà vợ vẫn không đ−ợc d− luận hoàn toàn ủng hộ. Anh em cùng cha khác mẹ Mặc dù Luật Hôn nhân và Gia đình ngăn cấm chế độ đa thê, tình trạng lấy nhiều vợ vẫn đ−ợc tập quán địa ph−ơng ngấm ngầm đồng ý. Chẳng hạn, trong số những ng−ời đàn ông đã kết hôn của họ Vũ Xuân, có 12 ng−ời hai vợ và một ng−ời ba vợ. Động cơ lấy nhiều vợ hiện nay phần lớn bắt nguồn từ ý muốn có con trai để nối dõi mặc dù trong quá khứ, những động cơ khác nh− có thêm lao động cũng th−ờng đ−ợc nói tới. Chính vì vậy, nhiều ng−ời vợ tâm sự rằng họ chỉ cảm thấy có chỗ đứng chắc chắn ở gia đình nhà chồng khi đã sinh đ−ợc con trai. Trong các gia đình đa thê, thân phận của các con phụ thuộc vào vị trí của ng−ời mẹ chúng. Theo tập quán, con của ng−ời vợ hai sẽ gọi con của ng−ời vợ cả là anh chị, không kể tuổi tác. Khi ng−ời vợ cả không có con, con của ng−ời vợ thứ sẽ có nghĩa vụ coi bà là mẹ cả và trong tr−ờng hợp này, tục thay thế cho phép con trai cả của vợ hai thừa kế gia sản và nối dõi tổ tiên. Mặc dầu vậy, trong nhiều gia đình đa thê, sự tranh chấp giữa các con cùng cha khác mẹ vẫn là chủ đề đàm tiếu trong dân làng. Và sự lạm dụng sức lao động trẻ con của những bà mẹ ghẻ cũng th−ờng xảy ra. Con nuôi Nhận con nuôi là một tập quán khá phổ biến ở làng Giao cả trong quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên, cần phân biệt hai hình thức nhận con nuôi, gọi là con nuôi lập tự và con nuôi. Lập tự là một hình thức nhận một ng−ời con trai thuộc dòng trực hệ để làm con nuôi trong tr−ờng hợp cặp vợ chồng không có con đẻ để nối dõi. Ng−ời con lập tự có đầy đủ thân phận nh− con đẻ. Tập tục này trong quá khứ t−ơng đối phổ biến, đ−ợc luật pháp phong kiến công nhận. Hiện tại ở làng Giao cũng có vài cặp vợ chồng không con nhận cháu ruột (cả trai lẫn gái) làm con lập tự. Tuy nhiên, một khảo sát trên 400 hộ ở một làng Thái Bình năm 1984 đã phát hiện 16 cặp vợ chồng không con đã nhận con nuôi vì cùng một mục đích là để có ng−ời nối dõi (Trịnh Thị Quang, 1984: 47-52). Hình thức nhận con nuôi không nhằm mục đích thừa tự phổ biến hơn. Nó th−ờng bắt nguồn từ nhiều lý do, cả duy lý lẫn duy tình, và không bị ràng buộc bởi quan hệ dòng máu hoặc giới tính của đứa trẻ. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Văn Chính 89 Không con là bất hiếu3 Xem xét ảnh h−ởng của đạo Khổng trong xã hội Việt Nam, Đào Duy Anh nhận xét rằng mỗi ng−ời Việt Nam, trong suốt cuộc đời họ, đều hít thở không khí của Khổng tử, uống n−ớc của Khổng tử, ăn cơm của Khổng tử, và cho đến ngày tận thế, vẫn sống trong vòng c−ơng tỏa của những nghi lễ Khổng giáo (Đào Duy Anh, 1994:23). Theo ông, các giá trị đạo đức Khổng giáo đã ăn sâu bén rễ trong xã hội Việt Nam trong nhiều thế kỷ, và đ−ợc hệ thống pháp lý của nhà n−ớc hỗ trợ. Kinh Lễ, chẳng hạn, cho phép ng−ời chồng đ−ợc bỏ vợ nếu họ phạm vào một trong 7 điều răn, trong đó không có con là lý do đầu tiên. Để xét xem tàn d− của t− t−ởng này còn ảnh h−ởng mạnh mẽ đến mức nào tới tập quán sinh đẻ trong xã hội Việt Nam, chúng tôi đã tập trung sự quan sát của mình vào những cặp vợ chồng không có con ở làng Giao và lắng nghe d− luận xã hội xem ng−ời ta nói và nghĩ gì về họ. Tr−ờng hợp 1: Phạm là một cựu chiến binh từng chiến đấu ở miền Nam trong chiến tranh. Anh trở về làng và c−ới vợ năm 1975. Sáu năm sau không sinh đ−ợc con, vợ Phạm cảm thấy cuộc sống chồng vợ nh− vậy thật vô nghĩa, họ đã quyết định ly dị. Phạm c−ới vợ thứ hai năm 1986 nh−ng cho đến hiện thời (1995), họ vẫn không có con. Phạm nói rằng anh không mấy tin t−ởng ở các đấng siêu nhiên nên khi c−ới lần đầu, anh đã không chọn ngày lành. Bố mẹ Phạm cho rằng con trai họ c−ới phải ngày xấu, bị quỷ thần quấy quả nên đã làm lễ c−ới lại. Họ nhờ thầy chọn ngày tốt để đón dâu lại theo đúng nghi thức và mời một ng−ời đông con nhiều cháu trong họ trải chiếu phòng loan với mong mỏi sẽ sớm có con. Tuy nhiên, tất cả những nghi thức có tính biểu tr−ng nh− vậy đều không xoay chuyển đ−ợc tình hình của họ. Bố đẻ của Phạm, trong nỗi dằn vặt nghi ngờ về khả năng có con của con trai, đã khuyên anh nên theo tục thả cỏ, vốn đ−ợc ngầm chấp nhận ở vùng này, cho vợ đ−ợc quan hệ với ng−ời khác nhằm mục đích có con. Tr−ờng hợp 2. Vũ cũng là một cựu binh. Anh sinh ra trong một gia đình khá giả ở làng. Ông nội Vũ đã từng là tiên chỉ, còn bố Vũ là lý tr−ởng d−ới thời thực dân. Vũ c−ới vợ năm 1973, lúc mới học xong phổ thông, nh− anh giải thích, vì anh là con trai một, bố mẹ cần sớm có cháu nội, anh đồng ý c−ới để làm vừa lòng cha mẹ dù ch−a kịp yêu. Bố Vũ cẩn thận đã tự mình xem ngày c−ới cho con trai và làm đúng các nghi lễ của nho gia. Không may, sau nhiều năm, họ không có con. Bố Vũ muốn anh c−ới vợ hai nh−ng anh không muốn. Trong nỗi chán nản đến cùng cực vì không khuyên bảo đ−ợc con trai, ông đã một ngày vứt tất cả sách thánh hiền xuống ao rồi đổ lăn ra ốm. Ông đã qua đời mấy năm sau đó, mang nỗi hận không ng−ời nối dõi về nơi vĩnh hằng. Vợ Vũ luôn sống trong tình trạng nơm nớp. Cô cố làm việc thật nhiều để quên đi nỗi bất hạnh không con. Tr−ờng hợp 3. Hoàng xuất thân từ một nhà nghèo trong làng. Những năm nghề chạm gỗ rộ lên, anh bỗng trở thành một ng−ời giầu có nhờ buôn gỗ về bán cho đám thợ chạm. Ngôi nhà hai tầng của anh ngự ở vị trí đẹp nhất ngay cổng làng. Nh−ng anh không thấy nỗi hạnh phúc giầu có là trọn vẹn chỉ vì hai ng−ời c−ới nhau đã trên 20 năm mà vẫn không có con. Có những lời đồn rằng anh có vợ lẽ ở đâu đó vì th−ờng ít ở nhà. Vợ Hoàng nói chị cảm thấy sức ép nặng nề từ phía bố mẹ chồng vì tội chị không có con. Họ th−ờng nói chị chịu quả báo từ tiền kiếp nên phải năng cầu khấn mới mong có hy vọng. Theo lời khuyên, chị đã đi cầu cúng ở nhiều nơi nh− chùa H−ơng và đền đức thánh Trần. Chị đã làm nhiều việc nh− phát tâm làm phúc, mời thầy làm sớ cầu cúng, hành lễ về chùa H−ơng cầu xin đức Phật ban phúc cho một 3 Thành ngữ này bắt nguồn từ quan niệm về đạo hiếu của Nho giáo "bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại", cho rằng trong ba điều mà ng−ời con trai đáng tội là bất hiếu thì không con nối dõi là tội nặng nhất. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt 90 ng−ời con.. Những nghi thức có tính biểu tr−ng nh− xoa đầu cậu, mời cậu cùng về, mua vé xe đò cho cậu, cho cậu tiền ăn quà dọc đ−ờng và mời cậu cùng ăn mỗi ngày, v.v... đ−ợc thực hiện với lòng thành tâm. Nh−ng nhiều năm đã qua mà chị vẫn ch−a đ−ợc toại nguyện. Bố mẹ chồng cứ mỗi lần đến thăm lại nói mát: - Chúng mày chỉ thích làm giầu mà không có con thì để đâu cho hết. Làm gì thì cũng phải nghĩ đến cha mẹ, dòng giống của gia đình và họ hàng. Vợ Hoàng nói chị cứ cảm thấy nh− tội đồ dù không có làm gì nên tội. Chị nói chị vẫn không ngừng hy vọng rằng một ngày kia rồi trời phật sẽ rủ lòng th−ơng ban cho chị một đứa con. 2. d−ới cái bóng của tổ tiên Tục nối dõi và chính sách kế hoạch hóa gia đình Ba tr−ờng hợp trình bầy tóm tắt ở trên chỉ ra rằng truyền thống lâu đời của các giá trị Khổng giáo vẫn đang ảnh h−ởng mạnh mẽ đến tập quán sinh đẻ của ng−ời dân làng Giao. Động lực có con trai mạnh đến nỗi ng−ời ta dám v−ợt qua những giới hạn đ−ợc nhà n−ớc qui định chính thức về kế hoạch hóa gia đình để đạt mục đích. Các khảo sát xã hội học ở khu vực đồng bằng sông Hồng chỉ ra rằng đã có những thay đổi đáng kể trong khoảng m−ời năm qua về số con mong muốn của các cặp vợ chồng. Nguyễn Lan Ph−ơng báo cáo rằng kết quả nghiên cứu của cô ở một làng giữa hai thời điểm 1984 và 1994 cho thấy nếu nh− năm 1984, có khoảng 59% ng−ời đ−ợc phỏng vấn nói rằng họ muốn có ba con và khoảng 16% muốn có từ bốn con trở lên thì đến 1994, tỷ lệ ng−ời muốn có ba con đã giảm xuống còn 14% trong khi gần nh− không có ng−ời nào nói họ muốn có 4 con trở lên. Thêm vào đó, ở năm 1984, không ai nói họ chỉ muốn có một con. M−ời năm sau, tỷ lệ ng−ời muốn có một con đã tăng lên tới 4%. Tuy nhiên, cần phải nói rằng ở cả hai cuộc khảo sát đều không thấy có ng−ời nói họ không muốn có con (Nguyễn Lan Ph−ơng, 1995:49)4. Đáng l−u ý là trong khi số đông những ng−ời nông dân nói họ muốn quy mô gia đình ở mức 2 con, có đến 88,3% số phụ nữ và 86,8% số đàn ông đ−ợc hỏi nói họ muốn có ít nhất một con trai (Trần Lan H−ơng 1995: 53-54). Điều này có thể giúp giải thích tại sao ch−ơng trình kế hoạch hóa gia đình lại th−ờng bị phá vỡ ngay ở tầm hộ gia đình. Chính sách kế hoạch hóa gia đình thực ra đã đ−ợc hình thành ngay từ đầu những năm 60 với Chỉ thị 216/CP (1961) của chính phủ Việt Nam (Viện Thông tin Khoa học xã hội 1995:48-72) nh−ng nó chỉ đ−ợc đặt ra một cách cấp bách từ sau 1975 trở đi. Những biện pháp hành chính, giáo dục và tuyên truyền cũng đ−ợc tăng c−ờng cùng với việc phổ biến các ph−ơng tiện tránh thai đến tận cấp thôn xã (Võ Quý Nhân 1991:115). Những biện pháp hành chính mạnh mẽ do nhà n−ớc quy định đối với ng−ời vi phạm chính sách kế hoạch hóa gia đình đ−ợc áp dụng chặt chẽ ở làng Giao. Theo quy định của chính quyền địa ph−ơng, xã sẽ phạt 150 ki-lô-gam thóc đối với những ng−ời đẻ con thứ ba và 300 ki-lô-gam thóc cho những ai đẻ con thứ t− trở lên hoặc khai trừ ra khỏi Đảng nếu ng−ời vi phạm là đảng viên. Cho đến 1995, ở làng này đã có ba cô giáo bị buộc cho thôi việc và hai đảng viên bị khai trừ vì lý do phá vỡ kế hoạch hóa gia đình. Mặc dầu vậy, quan sát từ thực địa cho thấy các biện pháp mạnh ít có hiệu quả đối với những cặp vợ chồng ch−a có con trai. Cán bộ y tế xã cho biết trong năm 1995, có 96 ng−ời ở làng Giao đã đến trạm y tế xã để thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình trong đó có 12 tr−ờng hợp đình sản (5 đàn ông và 7 phụ nữ). Nạo thai là một biện pháp đ−ợc sử dụng t−ơng đối phổ biến với 75 tr−ờng 4 Đáng tiếc là do tập trung vào động cơ có con, Nguyễn Lan Ph−ơng đã không cung cấp cho ta biết số con thực có của mỗi gia đình hoặc tỷ lệ lần sinh trung bình của mỗi phụ nữ trong khoảng 1984-1994 để giúp hiểu đ−ợc thực trạng của việc giảm tỷ lệ sinh giữa hai thời điểm. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Văn Chính 91 hợp trong 2 năm 1994-1995. Tuy nhiên, những phàn nàn về tác dụng phụ của các biện pháp tránh thai nh− đặt vòng, đình sản và nạo thai là khá phổ biến. Vì thế, chỉ thấy những ng−ời đã có từ hai con trai trở lên mới h−ởng ứng biện pháp đình sản. Lý thuyết về giảm mức sinh hiện nay cho rằng điều kiện sống thay đổi đã dẫn đến nhận thức của các bậc cha mẹ về số con cũng thay đổi (Freedman, 1994:89-101). Có thể ghi nhận một thực tế là sự thay đổi của hệ thống kinh tế từ tập thể sang hộ gia đình cá thể gần đây cũng góp phần thay đổi −ớc vọng về số con bởi vì những chi phí đ−ợc bao cấp tr−ớc đây nh− giáo dục và y tế nay dồn lên quỹ gia đình buộc các cá nhân phải tính toán khi có thêm con. Tuy vậy, những sức ép của d− luận xã hội lên các cặp vợ chồng ch−a có con trai là rất đáng kể, nhất là đối với những ng−ời đàn ông là con trai duy nhất của gia đình. Tác động của việc giảm tỷ lệ sinh Tài liệu có đ−ợc cho thấy tỷ lệ tăng tr−ởng dân số ở làng Giao đã giảm mạnh trong vòng ba m−ơi năm qua, từ 3.5% trong những năm 60 xuống gần 2.0% trong những năm 90 (ĐBLĐ 1993). Số con trung bình của một phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ hiện nay ở mức 3,2. Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ 1994 ở quy mô quốc gia cũng chỉ ra khuynh h−ớng giảm tỷ lệ sinh của mỗi phụ nữ từ 3,3 xuống còn 3,0 trong vòng sáu năm qua (TCTK 1995:20)5. Nh− chúng tôi đã phân tích, nguyên nhân của khuynh h−ớng giảm tỷ lệ sinh phần nào đó có vai trò tích cực của ch−ơng trình kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, những chuyển biến nhanh chóng của hệ thống kinh tế-xã hội mấy thập kỷ qua d−ờng nh− có tác động quan trọng dẫn đến tỷ lệ sinh giảm đi. Tr−ớc hết, động cơ sinh con ở các gia đình nông dân đang trải qua những thay đổi đáng kể. Niềm hạnh phúc gia đình đông con nhiều cháu từng là lý t−ởng của thời đại cũ d−ờng nh− không còn đ−ợc số đông đề cao nữa trong khi con cái nh− là một nguồn an sinh tuổi già cũng đang trải qua những thách thức có tính thời đại. Chính sách khoán 10 với việc chia lại ruộng đất cho các hộ gia đình nông dân đã tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng trẻ thoát khỏi ràng buộc của gia đình lớn và cho họ cơ hội tự lập nhiều hơn trong làm ăn và sinh con. Chính sách chia ruộng đất theo đầu ng−ời cũng cho phép ng−ời già quyền sử dụng mảnh đất riêng của họ mà không quá lệ thuộc vào các con. Đấy chính là lý do tại sao quy mô gia đình hai hoặc ba con đang đ−ợc −a thích ở nông thôn hiện nay. Bảng 1: Tổng tỷ suất sinh và chia theo nhóm tuổi của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở Việt Nam giữa hai thời điểm 1989-1993. Nhóm tuổi 1989 1993 15-19 0.035 0.041 20-24 0.197 0.187 25-29 0.209 0.187 30-34 0.155 0.109 35-39 0.100 0.060 40-44 0.049 0.033 45-49 0.014 0.002 Tổng tỷ suất sinh 3.8 3.1 -------------------------- 5 Tổng điều tra dân số 1989 cho biết tỷ lệ sinh thô trên cả n−ớc trong thời kỳ 1955-1959 là 45 phần nghìn. Tỷ lệ này giảm xuống 38 phần nghìn trong quãng thời gian 1970-1974 và chỉ còn 31 phần nghìn ở thời kỳ 1985-1989 (TCTK, 1991:98). Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt 92 Nguồn: Tổng cục Thống kê, 1995:22 Hareven cho rằng những thay đổi dân số học có tác động đáng kể lên vị trí của trẻ con trong gia đình (Hareven 1989:15-36). Nhận xét này có thể là có ích để xem xét tr−ờng hợp của làng Giao, nơi mà qui mô gia đình đang có xu h−ớng nhỏ lại và số con trong mỗi gia đình đang có chiều h−ớng giảm đi. Hậu quả của quá trình này là khoảng cách tuổi tác giữa ng−ời con cả và con thứ bị rút ngắn lại, sự quan tâm của cha mẹ với con cái sẽ tăng lên, v.v... Tuy nhiên, vấn đề đ−ợc thảo luận ở đây là số con trong mỗi gia đình nông dân đang ít đi sẽ có ảnh h−ởng thế nào đến quan điểm của cha mẹ nói riêng, xã hội nói chung về giá trị của đứa trẻ. Tài liệu dân tộc học về tập quán chăm sóc trẻ con ở làng Giao sẽ giúp hiểu rõ hơn vấn đề này. Gửi con vào cửa thánh là một phong tục lâu đời của ng−ời Việt. Thời tr−ớc, những đứa trẻ th−ờng xuyên yếu đau hoặc là con một của gia đình th−ờng đ−ợc cha mẹ bán, gửi cho thần linh trông nom giúp và ng−ời ta chỉ làm lễ xin về khi chúng đã tr−ởng thành. Nhiều gia đình đã gửi con cho thần chăm sóc đến hết đời6. Ng−ời ta tin t−ởng rằng bằng cách gửi con cho thần thánh, chúng sẽ đ−ợc bảo vệ khỏi sự hãm hại của ma quỷ. Một khi đứa trẻ đã đ−ợc gửi vào cửa đền (chùa), sẽ đ−ợc xem là con của thần (Phật), cha mẹ và anh chị không đ−ợc phép đối xử tệ với con nuôi của thánh, chẳng hạn nh− sai làm việc nặng, chửi mắng hay đánh đập vì nh− vậy là xúc phạm đến thần linh. Đã có một thời, tục này bị liệt vào những hành vi mê tín dị đoan và bị cấm. Mặc dù cho đến hiện thời, sự cấm đoán này vẫn ch−a đ−ợc chính thức bãi bỏ nh−ng ng−ời dân không còn cảm thấy lo ngại khi làm lễ gửi con vào cửa thánh. Những thông tin có đ−ợc cho thấy ở khu vực đồng bằng sông Hồng, tục này đang gia tăng đáng kể trong khoảng hơn một thập kỷ qua, kể từ sau cải cách kinh tế những năm đầu 80. Hơn một trăm đứa trẻ ở làng Giao đã đ−ợc gửi, bán cho các vị thần trông giữ từ 1981 đến nay (1995). Nhiều tài liệu đã mô tả việc thực hành nghi lễ này nh− là một sự lãng phí và tốn kém (Nguyễn Thanh Bình, 1993:3). Tuy nhiên, nhiều bậc cha mẹ đã không ngần ngại mời thầy làm lễ "bán con" vào "cửa thánh" chỉ vì nỗi lo ngại vu vơ cho sự "chẳng may" của đứa con. Một ng−ời bố đã nói với tôi rằng anh không tin lắm vào siêu nhiên, nh−ng nếu có chuyện gì xảy đến với con anh thì anh sẽ ân hận cả đời vì đã không làm hết những gì có thể cho con. Bên cạnh tục gửi con vào "cửa thánh" đang phục hồi và phổ biến rộng rãi ở vùng đồng bằng sông Hồng, tục cầu tự cũng gia tăng nhanh chóng. Chính sách kiểm soát mức sinh không chỉ buộc các cặp vợ chồng trẻ phải suy tính về số con mà còn chú trọng đến giới tính của đứa trẻ. Nhiều ng−ời ch−a có con trai đã trông cậy vào đấng siêu nhiên và hàng năm, số ng−ời hành h−ơng đến các đền chùa để cầu tự đang không ngừng tăng lên. Sự hồi sinh nhanh chóng của các nghi lễ trong xã hội Việt Nam có vai trò tác động đáng kể của các cải cách kinh tế gần đây, trong đó sự kiểm soát của nhà n−ớc đối với lĩnh vực này phần nào đã đ−ợc nới lỏng (L−ơng Văn Hy 1993:259). Tuy nhiên, cũng khó có thể chối bỏ rằng sự hồi phục và phổ biến những tập quán và nghi lễ truyền thống liên quan đến đứa trẻ nh− nói tới ở trên còn là hậu quả của tình trạng giảm mức sinh trong mấy thập kỷ qua. 3. Đạo hiếu và vấn đề xã hội hóa của trẻ em Có thể nói rằng xã hội Việt Nam tiền hiện đại đ−ợc đặc tr−ng bởi sự độc tôn của Khổng giáo trong các lĩnh vực quản lý nhà n−ớc và giáo dục. Luật nhà n−ớc từ triều Lê đến Nguyễn (thế kỷ 15-19) đều đã vận dụng các nguyên lý của đạo đức nho giáo vào quản lý nhà n−ớc và gia đình (Phan Đại Doãn 1992:5-7). Những đạo luật này đều nhấn mạnh các mối quan hệ giữa cha mẹ và 6 Những vị thần th−ờng đ−ợc tin cậy gửi con cháu nhờ trông nom giúp ở làng Giao là Đức Thánh Trần, Đức Thánh Mẫu, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh Phù ủng, Thành hoàng làng và Đức Phật. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Văn Chính 93 con cái, giữa vợ với chồng, và giữa những ng−ời anh chị em. Trong gia đình, quyền lực tuyệt đối của ng−ời cha đ−ợc luật pháp ủng hộ. Các đạo luật x−a chủ yếu dựa trên tinh thần cơ bản của đạo Khổng để duy trì gia đình, trong đó chữ Hiếu rất đ−ợc coi trọng. Hiếu đ−ợc xem nh− là nền tảng cơ bản của quan hệ cha mẹ-con cái. Một mặt, đạo hiếu quy định các bổn phận tôn kính và chăm sóc cha mẹ của con cái7. Mặt khác, đạo hiếu đặc biệt nhấn mạnh bổn phận vâng lời của các con đối với cha mẹ. Đạo lý này thậm chí không dừng ở lĩnh vực giáo dục mà còn đ−ợc hệ thống chính trị và pháp luật bảo hộ. Đào Duy Anh cho biết luật Gia Long khép những ng−ời con không chăm sóc hoặc bỏ rơi cha mẹ vào tội bất hiếu bằng cách đánh 80 tr−ợng và truy cứu những ng−ời con có hành vi bất kính với cha mẹ (Đào Duy Anh 1938:123). Luật Tự Đức thậm chí còn trừng phạt không những đứa con bất hiếu mà cả lý tr−ởng và tr−ởng tộc do sự thiếu quan tâm của họ (Phan Đại Doãn, 1992:6). Cùng với những quy định chặt chẽ về quyền và bổn phận của cha mẹ với các con, Khổng giáo cũng nhấn mạnh sự phân biệt về những thân phận khác nhau giữa con trai và con gái, con cả và con thứ, con nhà giầu và con nhà nghèo. Tài liệu hồi cố thu thập đ−ợc từ những ng−ời dân làng Giao sẽ góp phần củng cố thêm vấn đề này. Tr−ớc hết, những câu chuyện đời sống của dân làng cho thấy quá trình xã hội hóa trẻ em thời kỳ tr−ớc cách mạng khác nhau đáng kể, phụ thuộc vào giới tính và tầng lớp xuất thân của chúng. Con trai các nhà giầu th−ờng bắt đầu đi học vào quãng 10 đến 12 tuổi và tùy vào từng hoàn cảnh mà kéo dài thời gian đi học đến 10 hay 15 năm. Mục đích đi học của họ th−ờng đ−ợc h−ớng đến việc tham gia vào "chính sự" (việc làng, n−ớc) sau này (Vũ Ngọc Khánh, 1985:88). Ngay cả d−ới thời thực dân, khi mà chữ quốc ngữ đã đ−ợc phổ biến ở các tr−ờng hàng tổng, hàng huyện thì ở làng - xã, công việc dạy học phần lớn vẫn còn do các ông đồ đảm nhiệm. Điều này có thể đ−ợc giải thích nh− là sự hạn chế của hệ thống giáo dục thời thực dân nh−ng mặt khác, phải thấy rằng những đạo đức nho giáo mà các ông đồ là ng−ời truyền tải cho thế hệ trẻ vẫn còn đang đ−ợc đề cao trong xã hội. Trong khi học chữ thánh hiền đ−ợc xem là công việc đáng trọng của các cậu ấm con nhà giầu thì sự học của những ng−ời con gái lại ít đ−ợc quan tâm. Tất cả những ng−ời phụ nữ lớn lên d−ới chế độ cũ ở làng Giao đều không biết đọc chữ Hán hay chữ Việt và ch−a từng đ−ợc đến tr−ờng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng họ đã không hề tiếp nhận nền giáo dục nho giáo. Dậy dỗ con gái để chúng nắm đ−ợc lễ, nghĩa là công việc của cha mẹ ở nhà. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi đa phần phụ nữ cao tuổi trong làng đều biết rõ ý nghĩa của Tam Tòng và Tứ Đức. Vài ng−ời trong số họ thậm chí còn có thể đọc thuộc lòng những đoạn dài văn vần khuyên nhủ đàn bà, con gái do các nhà nho chuyển thể từ những nguyên tắc xử thế của nho giáo. Đạo đức Khổng giáo áp đặt lên phụ nữ thân phận phụ thuộc vào ng−ời đàn ông trong suốt cuộc đời họ. Thân phận phụ thuộc này d−ờng nh− không có sự khác biệt nhiều giữa con gái nhà giầu và con nhà nghèo. Khác với con trai các nhà khá giả theo đòi sự học để tham gia vào đời sống chính trị của làng xã, con trai nhà bình dân cũng th−ờng đ−ợc gửi cho một thầy đồ để học dăm ba chữ, nh−ng có lẽ chủ yếu là để học lối xử thế ở đời, nh− ng−ời ta th−ờng nói, "tiên học lễ", "học để làm ng−ời". Nhiều ng−ời còn nhớ đ−ợc, tuổi thơ ấu của họ th−ờng gắn với nhiều chuyện buồn, đói và khổ nh−ng bù lại, họ cũng có nhiều thời gian để vui thú với bạn bè đồng lứa. Có lẽ bài học vào đời của họ là những bài học không có thầy giáo, đó là những tục ngữ, ca dao, đồng dao nói về gia đình, xã hội, thiên nhiên, ứng xử, tình yêu... Cái kho tàng phong phú của đời sống dân dã ấy đã không chỉ 7 Theo Vũ Tuấn Sán, các bổn phận chăm sóc cha mẹ của con cái trên tinh thần đạo hiếu phải bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần, trong đó chủ yếu là sự tôn kính và phụng d−ỡng (Vũ Tuấn Sán 1995:4). Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt 94 bù đắp cho họ những thiếu hụt của đời sống học đ−ờng mà cũng hun đúc nếp sống văn hóa trong sáng của tâm hồn nhiều thế hệ ng−ời dân Việt. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mang lại những đổi thay to lớn trong đời sống con trẻ. Mấy thập kỷ chuyển hóa xã hội chủ nghĩa đã phá vỡ các trật tự cũ. Trẻ em đ−ợc đến tr−ờng, đ−ợc đào tạo để trở thành những con ng−ời mới cho chủ nghĩa xã hội. Bình đẳng giữa nam và nữ cũng nh− quyền trẻ em đ−ợc đề cao. Hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa đã thay thế các ông đồ cùng những bài học luân lý nho giáo của họ. Nhà n−ớc cách mạng hy vọng sử dụng hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa để loại bỏ các tàn d− giáo dục cũ, bởi vì "chế độ cũ của thực dân và phong kiến không khỏi còn để lại ít nhiều ảnh h−ởng không tốt trong những đầu óc trẻ con. Vậy chúng ta phải dùng tinh thần và đạo đức mới để rửa gột những ảnh h−ởng ấy"(Hồ Chí Minh, 1990:138). Khác với nền giáo dục cũ chỉ nhấn mạnh đến đạo đức Nho giáo, nền giáo dục mới không chỉ dạy kiến thức văn hóa và đạo đức Lêninít mà còn đ−a vào nội dung rèn luyện thân thể và lao động sản xuất. T− t−ởng của nền giáo dục mới đ−ợc Hồ Chủ Tịch nhiều lần nhấn mạnh rằng nó phải chú trọng đến đức dục, dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, tình yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động và ng−ời lao động, thật thà, dũng cảm (Hồ Chí Minh 1990:227). Không ai có thể phủ nhận những thành tựu của nền giáo dục mới khi mà tỷ lệ biết chữ trong dân chúng tăng lên đột biến và sự phân biệt nam-nữ trong giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác đã đ−ợc cải thiện đáng kể. Nhà n−ớc đã ủng hộ mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa các quyền cơ bản của trẻ em bằng việc phê chuẩn gần nh− ngay lập tức Công −ớc quốc tế về quyền của trẻ em do Liên Hiệp quốc đề x−ớng (1989). Mặc dù nền giáo dục mới đã đạt nhiều thành tựu, tuy vậy khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế vẫn còn là điều đáng phải suy ngẫm để có những điều chỉnh phù hợp. Trong thời gian nghiên cứu thực địa ở làng Giao, chúng tôi đã có dịp tổ chức những cuộc thảo luận với các cụ cao tuổi trong làng để tìm hiểu cách suy nghĩ của họ đối với lớp trẻ hôm nay. Chúng tôi nhận ra rằng, hầu hết ng−ời cao tuổi đều có ý kiến t−ơng đối giống nhau trong cách nhận định rằng trẻ con hiện nay "h−" hơn ngày x−a. Biểu hiện ở chỗ chúng: 1/ dám trái ý cha mẹ và cãi lại cả ng−ời già; 2/ ít quan tâm chăm sóc đến cha mẹ cả về vật chất lẫn tinh thần và 3/ bỏ qua sự khuyên bảo của cha mẹ để làm theo ý riêng. Nhiều ng−ời thậm chí còn đề nghị truy cứu trách nhiệm dân sự những ng−ời con bất hiếu và thiếu trách nhiệm với cha mẹ. Theo họ, nguyên nhân của xu h−ớng "bất hiếu" đang tăng lên của con trẻ hiện nay là do nền giáo dục mới đã gần nh− bỏ qua giáo dục về gia đình, do tình trạng xuống cấp đạo đức nói chung và phần nào do tác động tiêu cực của việc đề cao đồng tiền trong nền kinh tế thị tr−ờng. Những điều tâm sự của ng−ời già hôm nay về con cháu họ rõ ràng phản ánh những mâu thuẫn thế hệ về các giá trị đang thay đổi. Họ có khuynh h−ớng nhận xét cách ứng xử của lớp trẻ theo những chuẩn mực nho giáo mà họ đã tiếp thu đ−ợc từ hệ thống giáo dục cũ trong đó quyền uy của cha mẹ là tuyệt đối trong khi thế hệ trẻ muốn thoát ra khỏi những ràng buộc của những chuẩn mực ấy8. 4. Kết luận Chúng tôi đã phân tích các cấu trúc xã hội và ràng buộc văn hóa mà trong đó thân phận của mỗi đứa trẻ đ−ợc xác định cùng các giá trị xã hội gắn với nó. Bằng cách tập trung sâu hơn vào các tập quán sinh đẻ và những nhận thức về vai trò của con trẻ trong mối liên hệ với các tập quán sinh đẻ và những nhận thức về vai trò của con trẻ trong mối liên hệ với các ràng buộc văn 8 Cần l−u ý rằng vào những năm 90- thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, ng−ời ta thấy nhiều tài liệu Nho giáo cũ phổ biến từ những thế kỷ tr−ớc, lại đ−ợc in ấn và phát hành rộng rãi, cả hợp pháp và bất hợp pháp. Tr−ớc những chao đảo của tình trạng "xuống cấp" của đạo đức, d− luận xã hội d−ờng nh− muốn phục hồi một số khía cạnh của đạo hiếu trong nho giáo. Cuộc tranh luận về vấn đề này đ−ợc báo Đại đoàn kết khởi x−ớng trong năm 1995 và đ−ợc nhiều bạn đọc và các báo khác đã h−ởng ứng. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Văn Chính 95 hóa-giáo dục từ một viễn cảnh lịch sử-dân tộc học, chúng tôi hy vọng bài viết có thể mang lại một cái nhìn hệ thống về vị trí của trẻ em trong gia đình cũng nh− ý nghĩa của các hoạt động kinh tế của chúng và xin rút ra vài nhận xét kết luận nh− sau. Tr−ớc hết, trong một phức hợp của các quan hệ xã hội của đời sống thôn xã, gia đình và họ tộc nổi lên nh− một thể chế quan trọng nhất. Chính cấu trúc trọng nam của gia đình và dòng họ đã xác định thân phận khác nhau của mỗi đứa trẻ. Nguyên tắc trọng nam của gia đình đã phân biệt tôn ty trật tự ng−ời trên và kẻ d−ới, đàn ông và đàn bà. Những giá trị đạo đức Khổng giáo đã góp phần củng cố các nguyên tắc này bằng việc nhấn mạnh đến các thân phận, cao hay thấp và các nghĩa vụ mà thân phận ấy đòi hỏi. Trong văn hóa nho giáo về gia đình, "vấn đề có ý nghĩa không phải là ở chỗ ng−ời ta là một đứa trẻ, mà là ở chỗ đứa trẻ ấy là con trai hay con gái, đẻ tr−ớc hay đẻ sau, và là con nhà th−ờng dân hay kẻ bần cùng" (Dardess 1991:88). Thứ hai, mặc dù ở một mức độ nào đấy, ng−ời ta có thể nói đến sự lỏng lẻo trong các quan hệ giới tính và bổn phận trong mô hình gia đình của ng−ời Việt so với mô hình gia đình các dân tộc Đông á khác (Hirschman & Vũ Mạnh Lợi 1994:28) thì ng−ời con trai, đặc biệt con trai tr−ởng, vẫn tiếp tục đóng vai trò trung tâm trong gia đình ng−ời Việt. Thờ cúng tổ tiên và sự tiếp nối dòng tộc là những động cơ quan trọng nhất trong việc theo đuổi để có con trai. Đạo đức Khổng giáo xem việc không có con nối dõi nh− một tội nặng với tổ tiên và là biểu hiện của sự bất hiếu với cha mẹ vẫn đang còn tác động mạnh lên tập quán sinh đẻ ở khu vực nông thôn ngày nay. Tuy nhiên, động cơ theo đuổi con trai ở Việt Nam không dẫn đến những hành động cực tả nh− ở Trung Quốc, nơi mà "những đứa con gái có ít cơ hội sống còn hơn con trai" do nạn giết thai nhi hoặc bỏ rơi (Croll 1995:165) mặc dầu nó vẫn là nguyên nhân chính để ng−òi ta làm ngơ tr−ớc chính sách kiểm soát mức sinh của nhà n−ớc9. Tài liệu về tập quán sinh đẻ của ng−ời làng Giao cũng gợi ra cách suy nghĩ mới về giá trị xã hội của đứa trẻ. Trong khi các nghiên cứu dân số học đã làm dấy lên cuộc thảo luận về mối liên hệ giữa tỷ lệ sinh cao và giá trị kinh tế của trẻ con trong các xã hội châu á, thì phân tích của chúng tôi, ng−ợc lại, tìm thấy một mối liên hệ giữa các giá trị văn hóa, ràng buộc xã hội và đặc điểm cấu trúc của gia đình với tập quán sinh đẻ trong xã hội nông dân Việt Nam. Chính các giá trị và ràng buộc này cũng là căn nguyên của tình trạng tỷ lệ sinh cao trong các xã hội nông dân mà nghiên cứu nhân học-dân số học không thể bỏ qua. Thứ ba, thế giới hiện đại hôm nay có khuynh h−ớng nhấn mạnh tính toàn cầu hóa về các quyền của trẻ em. Trong quan niệm ph−ơng Tây, tuổi thơ đ−ợc xem nh− một quá trình dài của tình trạng ch−a chín và do đó trẻ con cần và có quyền đ−ợc trợ giúp. Văn hóa Việt Nam truyền thống ng−ợc lại đặt lên vai trẻ con những bổn phận hơn là quyền. Trong số những bổn phận ấy là nghĩa vụ của em với anh, của con cái với cha mẹ, của cháu chắt với các bậc tiền nhân, v.v... Đ−ợc sinh ra và nuôi d−ỡng trong môi tr−ờng văn hóa nh− vậy, trẻ em ngay từ nhỏ đã sớm tiếp thu và thực hành các khuôn mẫu đạo đức ấy một cách tự nhiên. Nhìn từ viễn cảnh đổi thay của xã hội, những ràng buộc văn hóa này là một gánh nặng của quá khứ đối với việc mang lại các quyền thực sự cho trẻ em. Trong khi những lời hùng biện vẫn vang lên về bảo vệ các quyền lợi của trẻ, cội rễ sâu xa của tình trạng lạm dụng tuổi thơ nằm sâu trong các nền tảng văn hóa lại vẫn th−ờng bị lờ đi. Đấy chính là những thách thức của quá trình chuyển hóa toàn cầu từ bổn phận sang quyền của trẻ em ở các xã hội nơi mà những khuôn mẫu đạo đức bảo thủ vẫn đang cắm rễ nh− là một tác nhân của sự trì trệ. 9 Dẫu chỉ là hiếm hoi, công luận ở Việt Nam cũng từng không ít lần lên tiếng về hành động bất nhân của một số bậc cha (mẹ) đã bỏ mặc hài nhi khi đứa trẻ sinh ra là con gái. Tuy nhiên, ở làng Giao ch−a bao giờ nghe nói đến hiện t−ợng nh− vậy xảy ra. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh đẻ của ng−ời Việt 96 Tài liệu tham khảo: 1. Croll, E. : 1995 Changing identities of Chinese Women: Rhetoric, Experience and Self-perception in Twentieth Century China. London & New Jersey: Zed Books 2. Đảng bộ xã L−ơng Điền: Lịch sử Đảng bộ xã L−ơng Điền. Cẩm Bình, Hải H−ng - 1993. 3. Đào Duy Anh: 1937. Infuence of Confucianism in Vietnam. Vietnamese Studies. 1/1994: 23-25. 4. Đào Duy Anh: 1938. Việt Nam văn hóa sử c−ơng. Quan Hải Tùng Th−. In lại 1992. Đại học S− phạm thành phố Hồ Chí Minh. 5. Dardess, J. : 1991 Childhood in Premodern China. In Hawes, J. & N. Ray Hines (eds) Children in Historical and Comparative Perspective, New York-London: Green Wood Press, pp. 71-91. 6. Freedma, R. : Nhìn lại lý thuyết giảm mức sinh. Tạp chí Xã hội học số 3 (47), 1994. Tr. 89-101. 7. Hirschman, Ch. & Vũ Mạnh Lợi: Gia đình và cơ cấu hộ gia đình Việt Nam, vài nét đại c−ơng từ một cuộc khảo sát xã hội học dân số gần đây. Xã hội học số 3 (1994). Tr. 14-28 8. Hồ Chí Minh: Về vấn đề giáo dục. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội -1990 9. Houtart, F. & G. Lemerciner: La sociologie de une commune Vietnamiene. Louvain-la-Nieuve: Catholic Universty of Louvain-1981. 10. Hull, T. : 1975 Each child bring its won fortune: An enquiry into the value of children in a Javanese villagi. Ph. D thesis, Canberra: ANU. 11. L−ơng Đức Thiệp: 1971 Xã hội Việt Nam. Sài Gòn. Hoa Tiên 12. Luong Van Hy: 1989 Vietnamese kinship: Structural principles and social transformation in Northern Vietnam. The Journal of Asian Studies, Vol.48, No.4, pp.741-756 13. Luong Van Hy: 1992 Revolution in the village. Tradition and Transformation in North Vietnam 1925-1986. Honolunu: University of Hawaii Press. 14. Luong Van Hy: 1993 Economic Reforms and the Intensification of Rituals in two northern Vietnamese village 1980-1990. In Ljunggren, B. (ed). The challenge of Reform in Indochina, Cambridge: Harvard University . 15. Mamdani, M.: 1972 The myth of populatin control. Family, Cast and Class in an Indian village. N.Y. Monthly Press. 16. Nag, M. & N. Kak: 1984 Demographic Transition in a Punjab Village. Population and Development Review, 10 (4), pp. 661-678. 17. Nguyễn Lan Ph−ơng: Nhận xét về sự chuyển đổi giá trị của đứa con sau m−ời năm ở một xã. Tạp chí Xã hội học số 2 (50), 1995. Tr. 45-50. 18. Nguyễn Thanh Bình: Một kiểu bán con. Báo Phụ nữ Việt Nam ngày 26.9.1993. Tr.3 19. Phan Đại Doãn: Chữ hiếu trong quan hệ gia đình, làng xã ng−ời Việt truyền thống. Tạp chí Dân tộc học số 2 (1992). Tr. 5-7 &42. 20. Tổng cục Thống kê: Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ: Báo cáo sơ bộ. Hà Nội-1995. Nxb Thống kê 21. Trần Lan H−ơng: Mấy nhận xét về d− luận xã hội ở nông thôn về số con và giới tính của đứa con. Tạp chí Xã hội học số 2 (50), 1995. Tr. 51-54. 22. Trịnh Thị Quang: Mấy vấn đề về quan hệ thân tộc ở nông thôn. Tạp chí Xã hội học số 2 (6), 1984. Tr. 47-52. 23. Viện Thông tin Khoa học xã hội: Pháp luật Dân số Việt Nam: Giới thiệu và bình luận. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội-1995. 24. Võ Quý Nhân: 1991 Fertility and family planning in Vietnam: trends and challenge. In Forbes, D. et all (eds). Doi Moi: Vietnam’s Renovation, Policy and Performance. Canberra: ANU. 25. White, B. : 1982 Child Labour and Population Growth in Rural Asia. In Development and Change, 13 (4): pp. 587-610 26. White, B. : 1975 The Economic Importance of Chilren in a Javanese Village. In Nag, M. (ed) Population and Social Organization. The Hague: Mouton. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcau_truc_trong_nam_trong_gia_dinh_va_tap_quan_sinh_de_cua_ng.pdf
Tài liệu liên quan