Khép lại những trang tiểu thuyết của Thuận,
ta lại thấy những thông điệp mới được mở ra.
Đó chính là hướng mở của tiểu thuyết – là sự
“tràn bờ” mà chúng ta không thể khuôn nó
vào một cái khung định sẵn. Bằng việc tạo ra
sự vượt cấp trong các liên kết trần thuật,
Thuận đã lôi kéo độc giả vào vai trò đồng
sáng tạo với mình, góp phần tạo ra tính chất
đối thoại, đa chiều cho tiểu thuyết. Tìm ra và
khơi dậy sức mạnh của những lớp trần thuật
tiềm ẩn bên trong trần thuật gốc, Thuận đã
thành công trong việc thể hiện những góc
khuất của đời sống đương đại, phơi bày
những vỉa tâm hồn sâu kín mà không phải ai
cũng chạm đến được
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấp độ liên kết và trần thuật trong tiểu thuyết của Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
155
CẤP ĐỘ LIÊN KẾT VÀ TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN
Vũ Thị Hạnh*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Các cấp độ liên kết và trần thuật là những vấn đề cơ bản thuộc về mối quan hệ giao tiếp trong cấu
trúc tiểu thuyết. Một cấu trúc giao tiếp chuẩn mực bao gồm: mối quan hệ giữa tác giả và độc giả;
người kể chuyện và khán giả - người nhận; nhân vật với nhân vật. Tuy nhiên, trên từng trang viết
của Thuận, người đọc không thể khuôn các mối quan hệ giao tiếp vào những “cấu trúc chuẩn mực”
đó. Trong bài viết này, người viết tập trung giới thiệu về các cấp độ liên kết và trần thuật trong tiểu
thuyết của Thuận để tìm ra yếu tố cách tân trong cấu trúc tự sự của nhà văn.
Từ khóa: Nhà văn Thuận, tiểu thuyết, cấp độ liên kết, cấp độ trần thuật, yếu tố cách tân
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, vấn đề đổi mới tư duy tiểu
thuyết đã không ngừng được đặt ra từ sau
1986. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ XXI,
với những thành tựu của các nhà văn như: Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Thuận
nhu cầu “tràn bờ” của tiểu thuyết mới trở nên
mạnh mẽ: “Tiểu thuyết Việt Nam đã đi qua
nhiều biến động, thậm chí cả những cuộc “lột
xác” để đến với đời sống đương đại và có
được diện mạo mới mẻ như ngày hôm nay”
[5]. Mặc dù tiểu thuyết của Thuận mới xuất
hiện trong vài năm trở lại đây nhưng Thuận
đã có những đóng góp không nhỏ trong việc
đưa đến “những chuyển biến sâu sắc về “nòng
cốt” cũng như “đặc trưng thể loại” [5]
GIỚI THUYẾT VỀ CẤP ĐỘ LIÊN KẾT VÀ
CẤP ĐỘ TRẦN THUẬT
Liên kết trần thuật trong nghiên cứu tự sự học
đã giành được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, tiêu biểu là I. P. Ilin và Manfreud
Jahn. Xem tác phẩm ngôn từ như một hiện
tượng giao tiếp và nghiên cứu theo hướng kết
hợp trần thuật học diễn ngôn và trần thuật học
truyện kể, I. P. Ilin và Manfreud Jahn xác
định sự tồn tại hai loại liên kết và biểu hiện
qua ba cấp độ. Quan điểm này được thể hiện
qua mô hình.
Mô hình trên thể hiện hai loại liên kết: ngoại
văn bản và nội văn bản. Liên kết ngoại văn
bản tồn tại cấp độ liên kết không hư cấu (1-
1’), thể hiện mối quan hệ giữa tác giả thực và
độc giả thực thông qua văn bản trần thuật.
Liên kết nội văn bản tồn tại hai cấp độ liên
kết: cấp độ sắp xếp hư cấu (2-2’) thể hiện mối
quan hệ giữa người kể chuyện và người nghe
chuyện thông qua sự kể; cấp độ hành động (3-
3’) thể hiện mối quan hệ giữa nhân vật và
nhân vật thông qua hành động.
Tự sự học hiện đại đã chỉ ra khả năng vượt
cấp trong liên kết trần thuật. Khi đó, ta thấy
xuất hiện các cặp liên kết mới như: 3 – 2’; 3 –
2; 3 – 1’; 3’ – 1. Sự vượt cấp trong liên kết
trần thuật tạo ra sự phức tạp của cấu trúc, đưa
đến những khả năng mới của tự sự.
1. Tác giả thực---Văn bản trần thuật--- 1’. Độc giả thực
*2. Người kể chuyện---Sự kể---2’.Người nghe chuyện
3. Nhân vật ----Hành động---3’. Nhân vật
3 - 3’: Cấp độ hành động – nội văn bản
2 - 2’: Cấp độ sắp xếp hư cấu – nội văn bản
1 - 1’: Cấp độ liên kết không hư cấu – ngoại văn bản
*
Tel: 0984 364766, Email: vuhanhk48@gmail.com
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
156
Manfred Jahn cũng đề cập đến các cấp độ trần
thuật: “Việc kể chuyện có thể diễn ra ở nhiều
cấp độcó “những truyện ở trong truyện
trong truyện”. Trần thuật gốc trở thành
“khung” hoặc “khuôn đúc” và câu chuyện
được kể nhờ nhân vật kể chuyện mà trở thành
một sự “gá lắp” hoặc “dưới trần thuật” [6].
Hình thức trần thuật bao hàm sự gá lắp hay
“dưới trần thuật” là trần thuật ma trận. Kéo
theo sự tồn tại của các bậc trần thuật này là sự
tồn tại của người kể chuyện bậc một, người
kể chuyện bậc hai, người kể chuyện bậc ba
CÁC CẤP ĐỘ LIÊN KẾT TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA THUẬN
Cấp độ liên kết không hư cấu
Ở cấp độ này, chúng tôi quan tâm đến mối
quan hệ giữa Thuận và độc giả thông qua
những thông điệp nhà văn muốn gửi gắm và
việc đọc tác phẩm của độc giả.
Với Thuận, viết văn không phải để giải sầu,
kháng cự những cơn buồn chán, mua vui, vì
cơm, áo, gạo, tiền, danh vọng hay tiền
tàiVới Thuận, viết văn là một nhu cầu tự
thân: “Viết với tôi chính là để phá vỡ trạng
thái cân bằng, cho cả tác giả lẫn độc giả” [3].
Độc giả có ý định giải sầu, có ý định tìm kiếm
một thứ để mua vui, một phương tiện để lấy
lại sự cân bằng nhấtthì đừng mất công tìm
kiếm trên những trang văn của Thuận.
Mỗi nhà văn có cái nhìn riêng về cuộc sống:
“Trong trường hợp của tôi, với tư cách một
nhà văn di dân, con người nhỏ bé đã chuyển
thành di dân nhỏ bé” [10]. Mặc dù thế, “tôi rất
sợ nước mắt” [7], hoài cổ và lãng mạn. “Tôi
muốn độc giả, thay vì khóc, phải phá lên
cười, để sau đó trầm tĩnh trở lại và suy nghĩ”
[7]. Trên đây là những thông điệp Thuận
muốn gửi gắm đến độc giả. Nó không “hiện
hình” trên câu chữ mà ẩn dưới lớp ngôn từ.
Bạn đọc cần phải “trầm tĩnh trở lại và suy
nghĩ” mới có thể hiểu được.
Phong Điệp khi phỏng vấn Thuận đã nhân
danh độc giả phát biểu: “Người ta đọc
Chinatown một cách vừa khó chịu bởi cảm
giác hoang mang và chênh vênh không điểm
tựa (). Những câu tưởng như vu vơ, tưởng
như bị quăng vô tội vạ trong tác phẩmlại
chính là những câu cần phải suy ngẫm. Thân
phận của nhân vật Tôi – thân phận tha hương,
lữ thứ, thậm chí ba quốc tịch mà vẫn vô tổ
quốc trong Chinatown khiến không ít độc giả
thấy bùi ngùi” [2]. Khi người đọc hiểu được
những điều đó, tức người đọc đã nhận được
những thông điệp của nhà văn và mối liên hệ
giữa nhà văn với người đọc đã được thiết lập.
Với Thuận, văn chương không phải món mì
ăn liền nhằm thỏa mãn cơn đói tức thì của độc
giả. Thuận khẳng định: “tác giả rất cần đến sự
tham gia của độc giả” [2]. “Nếu trong hàng
triệu người đọc thông tiếng Việt mà có được
một ít độc giả cho mình thì cũng là điều may”
[8]. “Độc giả cho mình” theo cách nói của
Thuận – thực chất bao hàm sự lựa chọn và
yêu cầu. Thuận đã đặt cho mình quy tắc:
“Nhiệm vụ của nhà văn không phải là kể, mà
viết, viết để viết khác đi, viết để tìm ra những
cách viết mới, viết như thế nào quan trọng
hơn viết cái gì” [4]. Đặt yêu cầu với mình,
Thuận cũng ngầm đặt ra yêu cầu với độc giả:
nhiệm vụ của người đọc không phải là nghe,
mà đọc, đọc để đọc khác đi, đọc để tìm ra
những cách đọc mới, đọc như thế nào quan
trọng hơn là đọc cái gì. Thông qua việc “viết”
và “đọc”, mối quan hệ giữa Thuận và độc giả
được thiết lập – đó là mối quan hệ đồng sáng
tạo. Nhà văn bằng trí tưởng tượng của mình
xây dựng nên tác phẩm. Độc giả đọc tác phẩm
bằng trí tưởng tượng của mình và sáng tạo
nên một tác phẩm khác.
Chữ cuối cùng trong tiểu thuyết khép lại,
Thuận lại mở ra cánh cửa mới. Đó là sự “khai
thông” để độc giả đi đến tận cùng những cảm
nhận và suy tư. Những bạn đọc dễ dãi, quen
với việc nhà văn “dọn cỗ” sẵn, thụ động
thưởng thức hẳn sẽ khó chịu, thất vọng và bỏ
qua cuốn sách từ những trang đầu. Tiểu
thuyết của Thuận luôn đặt độc giả vào vai trò
là người đồng sáng tạo. Khi đọc lại tác phẩm
của mình, Thuận luôn ngạc nhiên và ngỡ
ngàng. Bởi khi viết, Thuận thực hiện nhiệm
vụ của một nhà văn. Khi đọc, Thuận lại thực
hiện nhiệm vụ của một độc giả.
Roland Barthes trong Nhập môn phân tích
cấu trúc truyện kể đã hình dung truyện kể là
“một tổ hợp đơn vị được tập hợp cùng một
lớp xác định” [1] theo mô hình sau:
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
157
Theo Roland Barthes, số lượng các đơn vị
chức năng/ triệu chứng sẽ quyết định cách
đọc tác phẩm. Các đơn vị chức năng tạo thành
“một dãy dài lôgic các hạt nhân nối với nhau
bằng quan hệ liên đới” [1]. Đơn vị triệu
chứng xuất hiện ở những đoạn “nở phình”,
“làm tăng giảm tốc độ, tóm tắt hay bình luận
diễn biến của cốt truyện, đôi khi đánh lạc
hướng người đọc” [1]. Nếu truyện kể gồm
một chuỗi dài các đơn vị chức năng nối tiếp
nhau sẽ đòi hỏi độc giả cách đọc liền mạch.
Nếu truyện kể là một chuỗi những đơn vị bổ
trợ xúc tác sẽ cho phép đọc tác phẩm theo
từng mảnh. Tiểu thuyết của Thuận là những
dãy dài nối tiếp các đơn vị bổ trợ xúc tác, các
đơn vị chức năng chỉ xuất hiện rất ít, lẻ tẻ và
không liên tục. Nghĩa là, tiểu thuyết của
Thuận cho phép độc giả có thể đọc từng
mảng. Ta có thể thấy rõ điều này qua
Chinatown.
Đơn vị chức năng ở Chinatown gồm: “Tôi” bị
kẹt trong tàu điện ngầm. “Tôi” không biết nên
ngồi đợi hay bắt xe buýt đi tiếp. Tác phẩm kết
thúc ở đó. Nhìn vào số lượng quá ít những
đơn vị chức năng như trên, chúng ta có thể
thấy tiểu thuyết của Thuận cho phép độc giả
có thể đọc từng mảng văn bản. Chinatown
xuất hiện nhiều đoạn “nở phình”: quá khứ của
“Tôi” với Thụy, những ngày tháng ở
Leningrad, ParisĐó là những đoạn ngưng
của truyện kể, có khi làm tăng, khi lại làm
giảm tốc độ trần thuật khiến Chinatown có kết
cấu như một bản nhạc. Sự đọc này cho thấy
Thuận là một nhà văn có nhiều cách tân, tìm
tòi và những thể nghiệm mới trong lối viết, là
người đã góp phần làm nên bước chuyển
trong văn học Việt Nam đương đại.
Cấp độ sắp xếp hư cấu
Cấp độ sắp xếp hư cấu thiết lập dựa trên mối
quan hệ giữa người kể và người nghe chuyện.
Việc để người kể và người nghe chuyện lộ
diện hay ẩn tàng là do dụng ý nghệ thuật của
nhà văn.
Có ba mức độ thể hiện mối quan hệ giữa
người kể và người nghe chuyện: rõ ràng
(người kể và người nghe đều xuất hiện); trung
tính (một trong hai người lộ diện); ngầm ẩn
(cả hai đều ẩn tàng). Kết quả khảo sát mối
quan hệ giữa người kể và người nghe chuyện
trong năm tiểu thuyết của Thuận được trình
bày trong bảng dưới.
Bảng khảo sát trên thể hiện hai kiểu truyện kể
với ba mức độ giao tiếp. Truyện kể từ ngôi
thứ ba tương ứng với mức độ giao tiếp ngầm
ẩn. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua
Made in Vietnam, Paris 11 tháng 8 và Vân
Vy. Nếu ở tự sự truyền thống, người kể
chuyện ngôi thứ ba thường mang theo điểm
nhìn tác giả thì ở tiểu thuyết của Thuận, loại
điểm nhìn này bị hạn chế tối đa. Người kể
chuyện không tìm cách áp đặt một cách hiểu
thuần túy và duy nhất lên người nghe chuyện.
Nhờ đó, Thuận đã tạo nên tính khách quan và
trung lập trong lối kể. Người kể chuyện
không định hướng, không chỉ dẫn người đọc
trong vấn đề tiếp nhận và người đọc có quyền
suy luận mọi việc theo chủ kiến của mình.
Mặc dù vậy, người đọc chưa có cơ hội được
bày tỏ tiếng nói của mình trong tác phẩm.
Như vậy, mối quan hệ giữa người kể chuyện
và người nghe chuyện tuy đã được thiết lập
nhưng còn mờ nhạt, lỏng lẻo và ít nhiều còn
mang tính chất đơn chiều.
Đơn vị chức năng
Đơn vị chức năng Đơn vị chức năng
Có số lượng hạn chế
Đơn vị triệu chứng
Có khả năng bành trướng vô hạn
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
158
Tác phẩm Mức độ giao tiếp
Nhận xét
Người kể Người nghe Kiểu truyện kể
Made in Vietnam Ngầm ẩn Ẩn tàng Ẩn tàng Ngôi thứ ba
Chinatown
Trung tính Tôi kể về mình Ẩn tàng
Ngôi thứ nhất Rõ ràng Tôi nhân vật - tác giả Made in Vietnam Hắn, tập thể người đọc
Paris 11 tháng 8 Ngầm ẩn Ẩn tàng Ẩn tàng Ngôi thứ ba
T mất tích
Trung tính Tôi – tự kể về mình Ẩn tàng
Ngôi thứ nhất Rõ ràng
Tôi – nhà báo Bạn đọc
Bạn cùng công ty Tôi
Vân Vy Ngầm ẩn Ẩn tàng Ẩn tàng Ngôi thứ ba
Nếu kiểu truyện kể ngôi thứ ba chỉ tồn tại
mức độ giao tiếp ngầm ẩn thì ở kiểu truyện
thứ nhất có sự kết hợp đan xen của cả hai
mức độ: trung tính và rõ ràng.
Ở mức độ giao tiếp trung tính, người kể
chuyện đã lộ diện. Cái “Tôi” bộc lộ nhu cầu
muốn được giãi bày và chia sẻ với người nghe
chuyện. Trong Chinatown, “Tôi” chủ động
phơi bày tất cả những gì đã xảy ra trong gần
bốn mươi năm cuộc đời mình cùng những ám
ảnh, day dứt trong hiện tại xa, gần. Để người
kể chuyện lộ diện, trực tiếp bày tỏ những suy
nghĩa của mình, người đọc có dịp được nhìn
sâu vào thế giới tinh thần của người kể
chuyện để hiểu, đồng cảm, chia sẻ. Người đọc
hiểu được những ám ảnh dày vò tâm trí “Tôi”.
Người đọc hiểu tại sao từ đầu đến cuối, “Tôi”
cứ nhắc đi nhắc lại một điệp khúc triền miên
“những ngày ấy, Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì”.
Người kể chuyện “Tôi” đã có ý thức thiết lập
mối quan hệ với người nghe chuyện của mình
thông qua hàng loạt những câu hỏi: “hai mươi
bảy tuổi tôi mới đặt được tình yêu của bố mẹ
sang một bên như thế có phải là quá muộn?
Hai mươi bảy tuổi tôi mới bắt đầu sống cho
tôi như thế có phải là quá muộn? [13], “hai
mươi bảy tuổi tôi mới rời giường bố mẹ tôi,
Thụy mới rời giường bố mẹ Thụy. Như thế có
phải là quá muộn? [13]... “Tại sao người ta lại
bất công với tôi như vậy?(). Đó đâu phải là
lỗi của tôi?” [15]; Những câu hỏi là hướng
mở của tiểu thuyết, tạo điều kiện cho người
đọc có thể tham dự vào câu chuyện và nói lên
tiếng nói của mình. Mặc dù “để cửa” cho
người nghe chuyện lộ diện, nhưng người nghe
chuyện vẫn giấu mình.
Khi “Tôi” kể chuyện chuyển sang đảm nhận
vai trò “Tôi” chứng nhân, mối quan hệ giữa
người kể chuyện và người nghe được bộc lộ
rõ ràng. Trong T mất tích, không ít lần “Tôi”
đóng vai trò là người nghe chuyện. Trong
căng tin, “Tôi” vô tình nghe được câu chuyện
của một nhân viên nữ: “Tôi (2) sẽ bầu cho
chính phủ nào ra được bộ luật cấm bố tắm
cho con (). Tôi (1) giả vờ như không nghe
thấy gì và ngửa cổ uống cạn ly nước” [15]. Ở
đây, rõ ràng chúng ta thấy Tôi (1) – chồng
của T, là người kể chuyện ban đầu trong T
mất tích đã chuyển thành người nghe chuyện,
nhường vị trí cho một “Tôi” kể chuyện khác
(2) – nữ nhân viên cùng công ty với “Tôi” (1).
Bằng cách đó, mối quan hệ giữa người kể
chuyện và người nghe chuyện hiện lên ở mức
độ hoàn toàn sáng rõ. Cần phải nói thêm rằng,
trong tiểu thuyết của Thuận, mức độ giao tiếp
rõ ràng không xuất hiện ở trần thuật gốc mà
thường hiện lên rõ nét ở những truyện kể gá
lắp. Điều này tạo nên tính đa thanh, nhiều
giọng trong tiểu thuyết của Thuận.
Cấp độ hành động
Cấp độ hành động thể hiện mối quan hệ giữa
nhân vật với nhân vật. Trong năm tiểu thuyết,
Thuận đều không chủ tâm thiết lập cấp độ
liên kết này. Các nhân vật trong tiểu thuyết
đều sống theo nguyên tắc không tâm sự,
không hỏi, không trả lời, không làm phiền.
Thay vào đó, họ tích cực “im lặng”, “gật
đầu”, “lắc đầu”. Đó là cách để Thuận tách
các nhân vật ra khỏi các mối quan hệ, tự
“phân ly” vào những thế giới riêng – thế giới
mà ở đó - “điện thoại không lắp, tài khoản
không mở, bạn bè không kết” như trong T
mất tích.
Với những chủ ý như trên, Thuận đã có
những thành công nhất định trong việc thể
hiện sự cô đơn, hoang vắng của con người
trong xã hội hiện đại. Họ đều là “người trong
một nước”, “anh em trong một nhà” nhưng họ
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
159
lại là “những đường cong không bao giờ tiệm
cận”: không thể đồng cảm, chia sẻ... Đó cũng
là sự khác biệt giữa Thuận với các nhà văn xa
xứ khác: những nhân vật không chỉ tha hương
mà còn vong thân, không chỉ nhỏ bé mà còn
cô đơn, bi kịch. Xoáy sâu vào sự cô đơn, bi
kịch, sự vụn rời của các mối quan hệ, Thuận
khiến chúng ta không khỏi giật mình khi nghĩ
về chính mình, về hiện thực chúng ta đang
sống. Đó cũng là những lúc chúng ta thấy mất
đi sự cân bằng, băn khoăn không hiểu đâu
mới là ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Trong
cuộc sống bộn bề, sự mất cân bằng nhiều khi
cũng thật cần thiết. Đó là những giây phút
chúng ta cần phải nhìn lại mình, nhìn vào hiện
thực cuộc sống để tự mình điều chỉnh: hãy sống
như thể ngày mai cả ta và họ không còn nữa.
Sự vượt cấp trong liên kết trần thuật
Ở tiểu thuyết của Thuận, các cấp độ liên kết
không tồn tại riêng rẽ, tách rời, mà luôn có sự
vượt cấp – tiến tới thiết lập mối quan hệ với
các cấp liên kết nhỏ hoặc cao hơn. Chúng ta
có thể thấy rõ sự vượt cấp trong liên kết trần
thuật qua bảng dưới đây:
Ở sơ đồ này, tác giả và độc giả thực không
chỉ thiết lập mối quan hệ với nhau mà còn
thiết lập mối quan hệ với người kể, người
nghe chuyện và nhân vật. Điều này thể hiện
rất rõ qua Chinatown: “Bạn bè mày ở trong
nước đọc Made in Vietnam đều không hài
lòng. Con bạn thân nhất của mày gọi điện đến
khóc lóc, yêu quý gì mà viết về nhau như thế
(). Ông hàng xóm hầm hầm vào nhà không
thèm gõ cửa, bảo mày thất nghiệp hay sao mà
lôi chuyện ông ấy ra kể (). Mày () đừng
quên mấy cái dấu chấm để độc giả còn được
xuống hàng nghỉ ngơi, cũng đừng quên mấy
trang lại làm một chương để độc giả có dịp
đếm từ một đến mười. Tôi phì cười. Tôi cũng
không ngờ độc giả yêu cầu cao đến thế” [13].
Chiếu ví dụ trên lên sơ đồ sự vượt cấp chúng
ta có thể thấy: Thuận là tác giả thực của
Chinatown, Made in Vietnam. “Tôi” (1) -
người kể chuyện của Chinatown – tác giả của
Made in Vietnam và I’m yellow. “Tôi” (2) là
người kể chuyện của I’m yellow. Hắn là bạn
của “Tôi” (1) – người đọc I’m yellow. “Bạn
bè trong nước”, “con bạn thân nhất”, “ ông
hàng xóm” là độc giả của Made in Vietnam.
Như vậy, chỉ qua một đoạn trích, chúng ta đã
thấy lớp lang các bậc liên kết đan cài như
“mạng nhện”. Thuận thể hiện mối quan hệ
của tác giả thực với người kể chuyện và nhân
vật “Tôi” (1) - nhân vật của Chinatown; mối
quan hệ giữa tác giả của Made in Vietnam và
người đọcMối quan hệ đan cài như trên đã
phản ánh sự phức tạp trong cấu trúc tự sự của
Chinatown. Mỗi lần độc giả đọc lại khám phá
ra những tầng bậc mới, những mối quan hệ
mới. Chinatown vì thế không đơn giản chỉ là
câu chuyện về một người phụ nữ bất hạnh mà
đó còn là câu chuyện văn chương – dấu ấn tác
giả, hư cấu, hiện thực, tiếp nhận, phản hồi
1.Tác giả thực---Văn bản trần thuật--- 1’. Độc giả thực
2. Người kể chuyện--Sự kể--2’. Người nghe chuyện
3. Nhân vật --Hành động--3’. Nhân vật
3 - 3’: Cấp độ hành động – nội văn bản
2- 2’: Cấp độ sắp xếp hư cấu – nội văn bản
1- 1’: Cấp độ liên kết không hư cấu – ngoại văn bản
CÁC CẤP ĐỘ TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN
Năm tiểu thuyết của Thuận có sự xuất hiện
của nhiều cấp độ trần thuật: trần thuật bậc
một, trần thuật bậc hai và bậc ba.
Trần thuật bậc một
Trần thuật bậc một là trần thuật không gá lắp
dưới bất cứ một trần thuật nào. Với tiểu
thuyết truyền thống, trần thuật này có vai trò
đặc biệt quan trọng. Nhưng ở Thuận, nó lại
mất dần vị trí ngự trị.
Ở Chinatown, trần thuật bậc một kể về một
người phụ nữ tuổi gần bốn mươi đang bị mắc
kẹt trên một toa tàu điện. Ở T mất tích, trần
thuật bậc một kể về sự mất tích của T và
những gì xảy ra sau đó. Ở Vân Vy, trần thuật
bậc một kể về cuộc sống nhàm tẻ, buồn chán
của Vy trong cuộc hôn nhân với người chồng
Việt kiều tên Vượng và đám tang một nhà văn
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
160
đồng tính tên B... Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy trần thuật bậc một chủ yếu nói về
cuộc sống hiện tại của các nhân vật ở Paris.
Như vậy, trần thuật bậc một trong tiểu thuyết
của Thuận rất đơn giản. Nó đã đánh mất vai
trò là bậc trần thuật chính, trở thành cái cớ
đưa người đọc tiếp cận một tầng bậc trần
thuật gá lắp bên trong.
Trần thuật bậc hai và bậc ba
Nếu các tiểu thuyết gia truyền thống thường
ưu ái cho trần thuật bậc một thì Thuận lại đưa
người đọc đến khơi những tầng sâu của văn
bản, tìm ra cơ chế mở tiềm tàng của chúng
bằng cách thiết lập những tầng bậc trần thuật
gá lắp. Sự gá lắp của các bậc trần thuật khác
được thể hiện rõ nét ở Chinatown.
Trần thuật bậc một ở Chinatown nói về người
phụ nữ xưng “Tôi”,bị mắc kẹt trong tàu điện
ngầm. Toàn bộ trần thuật bậc một chỉ nói cho
chúng ta những thông tin đó. Điều này chứng
tỏ ở Chinatown, Thuận đã hạ thấp đến mức
tối đa vai trò của trần thuật bậc một và thay
vào đó là sự mở rộng giới hạn, đưa vào trong
trần thuật gốc những trần thuật gá lắp. Chúng
ta có thể mô hình hóa các bậc trần thuật trong
Chinatown qua sơ đồ dưới.
Sơ đồ trên cho thấy trong Chinatown có sự
tồn tại của ba bậc trần thuật: bậc một (A) nói
về hai giờ đồng hồ “Tôi” (1) bị mắc kẹt trong
tàu điện ngầm; bậc hai (B1) nói về quá khứ
của “Tôi”; (B2) nói về cuộc hôn nhân giữa
hắn và Hélène; bậc ba (C) nói về “Tôi” – một
họa sĩ cùng những ám ảnh trong cuộc sống
hôn nhân với Loan. Trong ba bậc trần thuật
trên, trần thuật bậc một (A) là trần thuật gốc;
trần thuật (B1, B2) được gá vào trong trần
thuật bậc một (A); trần thuật bậc ba (C) được
gá vào trong trần thuật bậc hai (B1).
Trần thuật gá lắp (B1, B2) có tác dụng làm
cản trở, kìm hãm sự tiếp tục của trần thuật
gốc (A). Trần thuật gốc (A) vừa bắt đầu đã bị
cản trở bởi tàu điện ngầm không thể đi tiếp do
bị nghi ngờ có âm mưu khủng bố. Người đọc
không biết thêm thông tin gì về chuyến tàu
điện ngầm đó.
Nhân vật bị nhốt lại trong một không gian
hẹp, tù túng mà ở đó, nhân vật bắt đầu thực
hiện một cuộc vượt thoát bằng tâm tưởng. Sự
cản trở của trần thuật gốc (A) là cơ sở cho sự
bắt đầu của trần thuật gá lắp (B1) và (B2).
Trần thuật (B1) đang tuôn chảy (“Tôi không
dám viết thư cho Thụy”) thì trần thuật (C)
bỗng dưng xuất hiện, làm cho trần thuật gốc
(B1) lại bị cản trở, bị sao nhãng, đột ngột
Những trần thuật gá lắp (B1, B2, C) làm sao
nhãng đi mạch tự sự gốc (A) và cung cấp
thêm thông tin về những sự kiện nằm ngoài
tiến trình sự kiện gốc. Người đọc nhờ đó nắm
bắt được trọn vẹn những sự kiện chính trong
cuộc đời nhân vật, thấu rõ những day dứt, ám
ảnh và bất hạnh của nhân vật trong quá khứ,
hiện tại
Thuận sử dụng khá thành công mô hình trần
thuật gá lắp, đặc biệt khi để nhân vật chính nữ
ở trần thuật gốc (B1) bàn về cuốn tiểu thuyết
mà mình đang viết (C) - ở đó nhân vật chính
vào vai một người đàn ông và nhân vật chính
nữ trong trần thuật gốc (B1) trở thành nhân
vật phụ trong trần thuật gá lắp (C). Trần thuật
gá lắp (C) tạo môi trường để cho nhân vật
chính trong trần thuật gốc (B1) phân thân – từ
đó có cái nhìn sâu vào cái tôi của mình bằng
cái nhìn của “kẻ khác”. Người đọc đồng thời
được đi qua hai cuộc trải nghiệm về một cuộc
đời, đồng thời phát hiện ra được những khát
khao cháy bỏng, những điều thầm kín ẩn sâu
nơi góc khuất tâm hồn, khiến nhân vật có thể
tự bộc bạch trọn vẹn những tâm sự vừa chân
thành, vừa đau đớn, xót xa.
C: Trần thuật bậc ba
B1: Trần thuật bậc hai
B2: Trần thuật bậc hai
A: Trần thuật bậc một
Vũ Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 155 - 161
161
KẾT LUẬN
Khép lại những trang tiểu thuyết của Thuận,
ta lại thấy những thông điệp mới được mở ra.
Đó chính là hướng mở của tiểu thuyết – là sự
“tràn bờ” mà chúng ta không thể khuôn nó
vào một cái khung định sẵn. Bằng việc tạo ra
sự vượt cấp trong các liên kết trần thuật,
Thuận đã lôi kéo độc giả vào vai trò đồng
sáng tạo với mình, góp phần tạo ra tính chất
đối thoại, đa chiều cho tiểu thuyết. Tìm ra và
khơi dậy sức mạnh của những lớp trần thuật
tiềm ẩn bên trong trần thuật gốc, Thuận đã
thành công trong việc thể hiện những góc
khuất của đời sống đương đại, phơi bày
những vỉa tâm hồn sâu kín mà không phải ai
cũng chạm đến được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Roland Barthes (2003), Nhập môn phân tích
cấu trúc truyện kể, Tạp chí Văn học nước ngoài,
số 1
[2]. Phong Điệp, Thuận: Nghệ thuật viết mới là
điều tôi quan tâm,
[3]. Phong Điệp, Thuận: Viết để phá vỡ sự cân
bằng,
[4]. Văn Giá, Đề cương bài nói chuyện của nhà
văn Thuận,
[5]. Hoàng Cẩm Giang (2007), Cấu trúc thể loại
tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Luận văn
Thạc sĩ, Đại học KHXH&NV
[6]. Manfred Jahn (2007), Trần thuật học - Nhập
môn lý thuyết trần thuật, Nguyễn Thị Như Trang
dịch, Đại học KHXH&NV.
[7]. Hà Linh, Thuận: Khi viết tôi không mặc cảm,
[8]. Lan Ngọc, Thuận: Ngôn ngữ Việt thừa hiện
đại và tinh tế để sáng tạo,
[9]. Hoàng Nguyễn, Đôi nét về thi pháp và kết cấu
tiểu thuyết Chinatown, http:/www.evan.com.vn.
[10]. Thụ Nhân, Thuận: Tôi rất muốn biết vì sao
mình được tặng thưởng,
[11]. Việt Quỳnh, Thuận: càng viết là càng bớt
bồng bột,
[12]. Thuận (2003), Made in Vietnam (trích đoạn),
http:/www.tienve.org.
[13]. Thuận (2004), Chinatown, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
[14]. Thuận (2005), Paris 11 tháng 8, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
[15]. Thuận (2006), T mất tích, Nxb Hội Nhà văn
và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam,
Hà Nội.
[16]. Thuận (2008), Vân Vy, Nxb Hội Nhà Văn
và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam,
Hà Nội.
SUMMARY
LINK AND NARRATIVE LEVELS IN THUAN’S NOVELS
Vu Thi Hanh*
College of Sciences – TNU
Link and narrative levels are basic problems of communication relationships in the novel structure.
A standard communication structure include the relationship between authors and readers;
narrators and audience – receivers; and among characters. However, in each page of Thuan’s
novels, readers can’t force communication relationships into these standard structures. In this
paper, the author is going to focus on introducing the link and narrative levels in Thuan’s novels to
find out the renovated elements in Thuan’s narrative structures.
Key words: Thuan writer, novels, link level, narrative level, renovated elements
*
Tel: 0984 364766, Email: vuhanhk48@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36064_39623_181201384653155_8541_2052224.pdf