Động vật thủy sản là nguồn gốc của nhiều
enzyme với những tính chất độc đáo và hữu dụng,
mở ra tiềm năng khai thác trong rất nhiều lĩnh vực
khác nhau của cuộc sống. Enzyme từ thủy sản
thường thể hiện hoạt tính cao ở nhiệt độ thấp hoặc
không cao lắm, vì vậy nhà sản xuất có thể thực hiện
phản ứng ở nhiệt độ thấp, giúp tiết kiệm năng lượng,
phản ứng này cũng dễ dàng ngừng lại khi nâng nhiệt
độ lên không quá cao và nhờ đó giảm được nguy
cơ hư hỏng do vi sinh vật. Những thành tựu công
nghệ sinh học ngày nay cho phép sản xuất ra nhiều
loại enzyme khác nhau với giá thành rẻ và dễ dàng
nhờ qui trình tách chiết và tinh sạch đã được cải tiến.
Enzyme từ động vật thủy sản đã, đang và sẽ được sử
dụng như phương tiện trợ giúp hiệu quả ở rất nhiều
lĩnh vực sản xuất thực phẩm và ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong công nghệ thực phẩm.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các loại enzyme từ động vật thủy sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 183
CÁC LOẠI ENZYME TỪ ĐỘNG VẬT THỦY SẢN
ENZYMES FROM FISH AND AQUATIC INVERTERBRATES
Nguyễn Lệ Hà1
Ngày nhận bài : 06/6/2013; Ngày phản biện thông qua: 26/6/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013
TÓM TẮT
Bài viết điểm lại các nghiên cứu về các loại enzyme từ động vật thủy sản và những tính chất cơ bản của chúng như
pH tối thích, phân tử lượng, hoạt tính trên các cơ chất khác nhau, ảnh hưởng của enzyme đến biến đổi của mô cơ trong quá
trình bảo quản Protease là nhóm được nghiên cứu nhiều nhất: các protease chịu axit từ dạ dày cá, protease từ ruột và
gan tụy động vật thủy sản, protease trung tính và kiềm trong mô cơ. Động vật thủy sản còn là nguồn của các enzyme khác
như elastase, carbohydrase và polyphenoloxydase với những tính chất độc đáo mở ra cơ hội cho nhiều ứng dụng trong sản
xuất và bảo quản.
Từ khóa: enzyme, protease, động vật thủy sản, giáp xác
ABSTRACT
The article reviews information related to enzymes in fi sh and aquatic invertebrates, their characteristics such as
pH optimum, molecular weight, temperature optimum, activity on different substrates, and the effect on changes in muscle
during preservation. Protease is most well known group: acid protease from fi sh gastric, intestinal and hepatopancreas
proteases, neutral and alkaline muscle protease. Fish and aquatic invertebrates are the sources of other enzymes like
elastase, carbohydrase and polyphenoloxydase with unique characteristics, hence offer a wide range of applications in
food processing and preservation.
Keywords: enzyme, protease, fi sh, aquatic invertebrates
1 TS. Nguyễn Lệ Hà: Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI
I. MỞ ĐẦU
Động vật thuỷ sản hầu hết là loài máu lạnh vì
chúng sống ở trong nước có nhiệt độ thấp, do đó
để duy trì cuộc sống (trao đổi chất, hoạt động, tiêu
hoá) cần phải có hệ enzyme tương đối mạnh
(Nguyễn Trọng Cẩn, 2006). Hầu hết enzyme có
nguồn gốc từ động vật thủy sản đều có thể tìm thấy
ở động vật trên cạn (Haard 1998). Sự khác nhau
giữa chúng chính là khối lượng phân tử, thành phần
acid amin, pH và nhiệt độ hoạt động tối ưu, tính ổn
định, điều kiện hoạt hóa hay ức chế và động học
phản ứng (De-Vecchi & Coppes, 1996).
Đã từ lâu, người ta biết rằng, ruột cá là nguồn
chứa enzyme tiêu hóa quan trọng. Nhiều nghiên cứu
đã được thực hiện nhằm tách chiết các protease
từ ruột cá và vào năm 1988 Reece đã thành công
trong việc tách chiết các enzyme này ở qui mô lớn.
Thời gian gần đây, nhiều enzyme như phosphatase,
hyluronidase, acetylglucosaminidase, chitinase and
protease cũng đã được thu từ phế liệu thủy sản
(Venugopal, 1995). Tuy nhiên, các enzyme thường
gặp nhất ở cá và động vật thủy sản phải kể tới
polyphenolase từ tôm hùm (Ferer, Koburger,
Simpson, Gleeson, Marshall, 1989) và tôm
(Gallas-Galvan và cộng sự, 1999; Simpson,
Marshall & Otwell, 1988), urease từ gan cá (Kinsella
và cộng sự, 1985), thymidilate kinase từ nhím biển
(Terentyev và cộng sự, 1999) và trymethylamine
oxide demethylase từ cá tuyết và cá bơn
(Lundstrom và cộng sự, 1982). Trong số các
enzyme tự nhiên thu nhận được từ các loài thủy
sản, protease là nhóm quan trọng và được phân
chia thành các endoproteinase và exopeptidase.
Chúng xúc tác các phản ứng thủy phân liên kết
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
184 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
peptid trong các mạch polypepdide và protein. Theo
Haard (1994), các protease từ cá và động vật thủy
sản có thể phân làm hai nhóm chính là các enzyme
acid và enzyme hoạt động trong môi trường kiềm
tới trung tính. Theo cách phân loại của Hiệp hội
sinh hóa ứng dụng quốc tế, protease trong động vật
thủy sản lại có thể chia làm bốn nhóm cơ bản là
protease acid và aspartic, serin, thiol (hay cystine) và
metalloproteases (Haard, Simpson, 1994)
II. NỘI DUNG
1. Các protease trong dạ dày cá
Protease trong dạ dày cá và động vật thủy
sản thuộc họ aspartic protease và bao gồm các
loại: pepsin, pepsinogen, chymosin và gastricsin.
Protease từ các nguồn khác nhau có tính chất rất
khác nhau (Han & Shahidi, 1995). Nhìn chung, các
enzyme trong hệ tiêu hóa của động vật thủy sản thể
hiện hoạt tính tốt nhất ở nhiệt độ cao hơn nhiều so
với môi trường chúng sống. Điều này có thể do nhiệt
độ bên trong hệ tiêu hóa thường cao hơn nhiều so
với nhiệt độ môi trường sống bên ngoài (Gildberg,
1988). Các protease từ nguồn hải sản thường có
các tính chất khá độc đáo như dễ bị biến tính do
nhiệt, có hoạt tính cao ở nhiệt độ thấp và có khả
năng xúc tác và thủy phân protein nguyên thủy
(Simpson & Haard, 1989a).
Pepsin: Pepsin cá thuộc họ aspartic
endopeptidase và là cũng là protease tiêu hóa có
mặt trong dịch vị của động vật trên cạn, chúng có
hoạt tính riêng mạnh hơn so với các động vật thủy
sản thuộc loài có vú (Gildberg & Raa 1983). Chúng
cũng tồn tại ở dạng đồng enzyme (Squires, Haard,
Feltham, 1986). Một số nghiên cứu đã chứng minh
rằng, rất nhiều loại cá có ít nhất hai loại pepsin
khác nhau với pH tối ưu khác nhau và được gọi là
pepsin I và pepsin II (Gildberg, 1988). Người ta đã
tách chiết được pepsin từ lớp màng nhầy dạ dày của
nhiều loài cá nước mặn và nước ngọt khác nhau, kể
cả các loài sống ở vùng nước lạnh và nước ấm. Các
protease hoạt động tốt trong môi trường axit của
động vật thủy sản có pH tối ưu trong khoảng 2,5 - 4,
giá trị thường gặp nhất là 3 và nhiệt độ tối ưu trong
khoảng 30 - 550C với giá trị phổ biến nhất là 370C
(Shahidi & Kamil, 2001).
Chymosin và gastricsin:
Chymosin còn được gọi là rennin, thuộc
protease acid có các tính chất đặc trưng như: thể
hiện hoạt tính proteolytic ổn định ở pH gần 7 (trên
một số cơ chất), đây cũng là đặc tính khác biệt của
enzyme này so với các protease acid khác (Haard
& Simpson,1994). Chymosin thường có mặt trong
dạ dày múi khế của động vật nhai lại. Tính chất
của chymosin khác nhiều so với pepsin: khả năng
đông tụ protein sữa rất cao, pH tối ưu khi thủy phân
haemoglobin là 2,2 - 3,5; không có khả năng vô
hoạt ribonuclease, thể hiện hoạt tính thấp trên
N-acetyl-1-phenylalanyl-3,5-diiodo-1-tyrosin (Haard
& Simpson, 1994; Shamsuzaman, 1984). Han và
Shahidi (1995) còn thử cố định protease từ dạ dày
hải cẩu và cho biết chúng có khả năng đông tụ sữa
thấp hơn so với protease nguyên thủy.
Gastricsin là các protease aspartyl có tính
chất hóa học và hoạt tính enzyme khá tương đồng
với pepsin (De-Vicchi & Coppes, 1996; Sanchez-
Chiang & Ponce, 1981). Sanchez-Chiang và Ponce
(1981) đã tách chiết được hai tiền enzyme của
gastricsin từ dạ dày cá tuyết Merluccius gayi, cả
hai tiền enzyme này đều được hoạt hóa ở pH dưới
10 và có pH tối ưu là 3,0. Thêm vào đó, các tiền
enzyme này khác xa các protease trong dạ dày của
loài có vú bởi vì chúng có hoạt tính khá ổn định ở
môi trường kiềm và khả năng hoạt động khác biệt
trên các cơ chất protein và cơ chất nhân tạo. Các kết
quả này phù hợp với nhận định của Haard (1986) về
tính chất của protease dạ dày cá tuyết Atlantic.
2. Các protease từ ruột và gan tụy của cá và
động vật thủy sản
Protease nội tạng các loài cá có xương cứng
thường được tách từ ruột hoặc tuyến tụy (Haard,
1994; Walsh Wilcox, 1970). Hai dạng protease
serine thu được từ ruột cá là trypsin và chymotrypsin
(Han, 1993), ngoài ra còn có collagenase, elastase
và carboxypeptidase.
Các nghiên cứu về enzyme protease ở hệ tiêu
hóa của nhiều loài cá khác nhau cho thấy rằng,
các protease serine trong ruột cá thể hiện hoạt tính
trong môi trường kiềm tốt hơn so với môi trường
trung tính (Walsh, 1970), kích thước phân tử, thành
phần amino acid và độ nhạy với các chất kìm hãm
của chúng khá tương đồng với protease serine ở
các động vật máu nóng.
Trypsin và chymotrypsin:
Trong các thập niên vừa qua, người ta đã
nghiên cứu nhiều về trypsin và các enzyme tựa
trypsin ở nhiều loài cá sống ở vùng nước lạnh và
nước ấm. Các enzyme này được tinh chế và nghiên
cứu tính chất từ nhiều nguồn khác nhau như cá mòi,
cá ốt vảy nhỏ, cá tuyết Greenland, cá tuyết Atlantic,
cá hồi Atlantic (Shahidi & Kamil, 2001).
Trypsin và các enzyme tựa chymotrypsin có
khối lượng phân tử khoảng 25.000 Da (Cohen
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 185
& Gertler, 1981). Simpson (1989) đã chỉ ra phân
tử lượng của trypsin ở cá tuyết Atlantic, cá tuyết
Greenland lần lượt là 24.000 và 23.500 Da. Các
trypsin ở nhiều loài cá khác nhau có tính chất ổn
định ở pH kiềm, điều này khác xa so với trypsin ở
các loài có vú ổn định nhất ở điều kiện acid (De
Vecchi & Coppes, 1996; Haard, 1992; Haard và
Simpson, 1994). Tuy nhiên, Haard và Simpson
cũng cho biết rằng, enzyme tựa trypsin thu được
từ cá rô biển xanh cunner ở biển Atlantic lại tỏ
ra bền hơn ở pH 2-4, và điểm này khá giống với
trypsin tách được ở các loài có vú. Tính bền nhiệt của
trypsin cá phụ thuộc vào giống loài và điều kiện
phản ứng (De Vecchi & Coppers, 1996). Simpson
(1984) và Simpson cùng cộng sự (1989) đã nghiên
cứu tính chất động học của trypsin từ ba loài cá
khác nhau và trypsin bò. Kết quả cho thấy, vận tốc
của cả phản ứng esterase và amidase đều cao
hơn đối với trypsin cá. Các tác giả cũng cho biết
năng lượng hoạt hóa Arrhenius đối với trypsin cá
thấp hơn so với trypsin của các loài có vú, họ cho
rằng, điều này là do tính chất ít đáp ứng với sự
thay đổi nhiệt độ của phản ứng.
So với trypsin, các loại chymotrypsin của cá
ít được nghiên cứu hơn nhiều (Haard, 1994). Một
số nghiên cứu đã được thực hiện bao gồm công
trình của Kalac (1978) trên cá ốt vảy nhỏ và cá
trích, của Asgeirson và Bjarnason (1991) trên cá
tuyết Atlantic. Người ta đã tìm ra, chymotrypsin từ
cá tuyết có hoạt tính cao hơn trên cơ chất ester
và amid. Các tác giả giải thích rằng, sự khác nhau
về tính chất động học của trypsin và chymotrypsin
cá tuyết Atlantic so với động vật có vú là do khả
năng thích ứng với môi trường sống ở nhiệt độ
thấp của chúng.
Một số tác giả cũng đã tách chiết và nghiên cứu
trypsin và chymotrypsin từ các loài cá nước ngọt
như cá chép (Cohen & Gertler, 1981) và cá rô phi
lai (El-Shemy, 1997). Trypsin tinh chế được từ cá rô
phi lai có hoạt tính esterase tốt hơn so với amidase
ở pH tối ưu 9 và nhiệt độ tối ưu 40oC. Fong, Chan
và Lav (1998) tinh chế được hai loại chymotrypsin I
và II từ nội tạng cá chép cỏ có độ nhạy trên các chất
kìm hãm giống như chất kìm hãm trypsin đậu nành
và phenylmethylsulphonyl fl uoride. Các kết quả này
phù hợp với những phát hiện của Kristjansson và
Nielson (1992) về hai loại chymotrypsin trong ruột
cá hồi.
Ở các loài giáp xác, gan tụy hay ruột là cơ quan
đảm nhiệm chức năng của gan và tụy tạng ở động vật
có vú, là nơi sản sinh ra các protease tiêu hóa (Tsai,
Lu & Chuang,1991). Các protease serine, như trypsin
chẳng hạn, có mặt ở nhiều loại giáp xác và động vật
thân mềm (Garcia-Carreno & Haard, 1993; Kim và
cộng sự, 1992), chymotrypsin thì tìm thấy ở sò điệp
(Le-chevalier và cộng sự, 1995), bào ngư (Groppe
& Morse, 1993) và tôm bạc (Hernandez-Cortes
và cộng sự, 1997). Các protease tiêu hóa này chịu
trách nhiệm chính trong quá trình tự phân giải của
các protein mô cơ sau khi động vật chết, chúng
cũng chịu trách nhiệm gián tiếp trong hiện tượng
biến đen của các loại tôm. Tsai, Chuang và Chuang
(1986) cũng đã chỉ ra rằng, chymotrypsin ở các loài
giáp xác có tính chất xúc tác độc đáo đối với phản
ứng thủy phân các cơ chất nhân tạo nhờ tính đặc
hiệu của chúng.
Collagenase và elastase:
Các collagenase thuộc loại protease serine
khác nhiều so với collagenase mô cơ. Chúng có
khả năng thuỷ phân các phân tử collagen loại I, II
và III, và nói chung có tính chất khá tương tự các
trypsin và chymotrypsin (Haard, 1994). Người ta
đã tinh chế và xác định được tính chất của nhiều
protease serin collagenase ở hệ tiêu hoá của nhiều
loại cá và thuỷ sản khác nhau như cáy (Elsen &
Jeffrey, 1969), tôm càng (Baranowski, Nip & Moy,
1984), tôm đất (Garcia-Careno và cộng sự, 1994),
cá tuyết Atlantic (Krisjansson và cộng sự, 1995).
Các enzyme này thể hiện hoạt tính cao nhất ở
khoảng pH 6,5-8,0 và hầu như mất hoạt tính ở pH
nhỏ hơn 6,0 (Haard & Simpson, 1994). Zefi rova
cũng thông báo rằng, ứng dụng vào thực tế của
các enzyme này thật sự hạn chế bởi vì chúng ít
bền với nhiệt, ngay cả nhiệt độ 40oC cũng có thể
làm chúng vô hoạt. Nhiều nghiên cứu đã xác định
rằng, các protease serin collagenolytic đóng vai trò
quan trọng trong quá trình tự phân mô cơ sau khi
chết của các loài giáp xác (Baranowski và cộng sự,
1984; Kawamura và cộng sự, 1984).
Elastase trong tụy tạng cũng thuộc về họ
protease serine và có khả năng tiêu hoá elastin
của mô liên kết (Asgeirson & Bjarnason, 1993). Tuy
nhiên, Shotton (1970) lại thông báo rằng, elastase
có khả năng phân giải nhiều loại protein chứ không
phải chỉ elastin nguyên thuỷ. Người ta đã thu nhận
được elastase từ dạ dày nhiều loại cá như cá chép,
cá da trơn, cá tuyết Atlantic và cả từ tụy tạng nhiều
loài cá nước mặn cũng như nước ngọt. Asgeirsson
và Bjarnason (1993) đã quan sát thấy các gốc acid
amin trong elastase cá tuyết có tính kỵ nước hơn so
với elastase của lợn và cho rằng, do sự hiện diện
của các tương tác yếu trong nhân kỵ nước của phân
tử đã làm cho enzyme này dễ dàng thích nghi hoạt
động ở môi trường nhiệt độ thấp.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
186 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
3. Các protease trung tính và kiềm trong mô cơ
động vật thủy sản
Các protease nội tại của mô cơ chủ yếu tồn
tại trong các tơ cơ và mạng liên kết cơ phía ngoài
tế bào (Haard, 1994). Trong các sợi cơ, có thể tìm
thấy các enzyme này ở dịch bào và trong chất cơ
hoặc những cơ quan khác của tế bào (Kolodziejska
& Sirorski, 1996). Các protease trong tơ cơ lại có thể
phân loại thành các protease thể men (lysosome),
protease kiềm, trung tính và kim loại (Haard, 1994;
Kolodziejska & Sirorski, 1996).
Các protease lysosome như cathepsin A
(caroxypeptidase A), cathepsin B (caroxypeptidase
B), cathepsin D, H và L đã được thu nhận từ nhiều
loại cá và thuỷ sản khác nhau, người ta cũng xác
định được nhiều tính chất của chúng. Ngoại trừ
cathepsin D, tất cả các protease khác đều thuộc
nhóm protease serin hoặc cystein (thiol) với pH hoạt
động tối ưu ở khoảng kiềm tính. Riêng cathepsin D
lại là protease aspartic và có pH hoạt động tối ưu
ở vùng acid (Haard, 1994, Kolodziejska & Sirorski,
1996), chúng có thể hoạt động trong môi trường pH
từ 2 đến 7, nhưng tối thích ở pH 4 (Nguyễn Trọng
Cẩn, 2006). Giá trị pH tối ưu của các cathepsin trong
mô cơ cá thấp hơn nhiều so với pH đo được trong
thịt cá, chúng có thể hoạt động trong nồng độ muối
tăng lên tới 5% thì sẽ bị ức chế. Tính hoạt động của
cathepsin trong các loại cơ thịt khác nhau là không
giống nhau, thường ở các bắp cơ hoạt động nhiều
cathepsin hoạt động mạnh hơn ở bắp cơ ít hoạt
động (Nguyễn Trọng Cẩn, 2006). Gildberg (1988)
đã thông báo rằng, lượng cathepsin D trong cơ thịt
cá cao gấp 10 lần so với cơ thịt động vật có vú.
Người ta cho rằng có lẽ hàm lượng enzyme trong
cơ thịt cá cao như vậy là để bù đắp sự giảm hoạt
tính do tác dụng của nhiệt độ thấp ở môi trường
sống. Cho đến hiện tại, có khá nhiều báo cáo về khả
năng phân giải mô cơ của các protease lysosome.
Người ta tin rằng, cathepsin D chịu trách nhiệm
chủ yếu trong phân giải protein mô cơ (Makinodan,
Toyohara, & Ikeda, 1983), các protease cystein như
cathepsin B, H và L cũng góp một phần vai trò trong
quá trình đó nhưng chỉ là thứ yếu vì cathepsin D
khởi đầu sự phân giải các protein trong tế bào nội tại
thành các peptid, sau đó các cathepsin khác mới tác
dụng tiếp tục. Chưa có nhà khoa học nào tách chiết
được cathepsin C từ mô cơ cá, tuy nhiên, Hameed
và Haard (1985) đã thu được enzyme này từ tụy
tạng loại mực có rìa ngắn ở Atlantic, họ cho rằng,
chính độ chịu mặn, hoạt tính exopeptidase của
enzyme này đã ảnh hưởng sâu sắc đến mùi vị thơm
ngon của các sản phẩm lên men.
Các protease kiềm của cơ thịt cá đã được
nghiên cứu khá nhiều. Các enzyme này thường
tồn tại trong chất cơ của mô thịt hoặc các phần tử
siêu nhỏ gắn vào tơ cơ (Makinodan, Kyaw, & Ikeda,
1982; Makinodan, Toyohara, & Ikeda, 1983). Các
enzyme này ít, thậm chí không thể hiện hoạt tính
trừ phi phản ứng được thực hiện ở nhiệt độ cao hơn
nhiều so với môi trường sống tự nhiên (60 - 650C)
hoặc phải được hoạt hóa nhờ các tác nhân làm biến
tính protein như urea, acid béo hay chất tẩy rửa
(Toyohara và cộng sự, 1987). Gần đây, protease kiềm
được biết đến như loại enzyme chính tham gia vào sự
phá vỡ mạch myosin chuỗi nặng trong gel cá. Surimi
là loại sản phẩm mới được sản xuất từ các loài thủy
sản trong đó enzyme đóng vai trò quan trọng quyết
định chất lượng sản phẩm. Nishimoto và các tác giả
khác (1987) thông báo rằng, gel cá trở nên yếu đi
khi nấu các sản phẩm surimi chính là do hoạt động
của protease kiềm này. Sự phân giải của các protein
tơ cơ như vậy làm giảm độ bền gel xuống. Trong số
hàng loạt protease hiện diện ở mô cơ, endoprotease
cysteine có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến cấu trúc
do độ bền nhiệt và khả năng cắt đứt các liên kết
peptid bên trong, tạo ra hai mạch peptid ngắn hơn (An,
Peters, & Seymour, 1996). Cathepsin L là enzyme
chủ yếu quyết định sự “yếu” đi của surimi khi gia
nhiệt. Việc đun nóng các sản phẩm cá ở dạng gel
với nhiệt độ khoảng chừng 600C có thể gây hậu quả
làm mềm quá mức. Kolodziejska và Sirorski (1996)
cho rằng, hiện tượng này quan hệ mật thiết với quá
trình phân giải protein tơ cơ cá (chính là thành phần
quyết định sự tạo gel). Loại protease gây nên tác
dụng làm mềm gel cá không giống nhau và phụ thuộc
giống loài, tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp
protease serine đóng vai trò chủ yếu. Kinoshita và
cộng sự (1990) đã xác định được tính chất của bốn loại
protease trung tính chịu trách nhiệm phân giải mạch
myosin và gọi chúng là “protease làm mềm”, đây là
các protease kim loại trung tính.
Trong quá trình tự phân sau khi chết xảy ra ở
mô cơ cá, độ pH sau cùng đạt được thường dao
động trong khoảng giữa 6 và 7. Có nhiều loại
enzyme thích hợp hoạt động ở pH gần trung tính
như calpain, hay “protease làm mềm”. Các enzyme
này được gọi là các protease mô cơ trung tính. Gần
đây, người ta rất chú ý đến loại enzyme được hoạt
hóa bởi canxi có tên là calpain này vì thấy rằng
chúng phân giải các protein ở đường Z của sợi cơ
và giải phóng ra các tơ cơ.
4. Một số enzyme khác
Một số nhóm enzyme khác ở động vật thủy sản
đã được nghiên cứu có thể kể tới là các enzyme
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 187
esterase và carbohydrase (bao gồm cả các enzyme
chinolytic là chitinase và lysozyme).
Esterase
Đây là loại enzyme phân giải các mối liên
kết este, loại phân giải cho ra acid hữu cơ gọi là
esterase hữu cơ, phân giải acid vô cơ gọi là
esterase vô cơ. Esterase (lipase) xúc tác thủy phân
chất béo tạo thành glycerin và acid béo tương ứng.
Những động vật thủy sản ăn thức ăn động vật thì
lipase của chúng có nhiều loại esterase hữu cơ, còn
ăn thực vật thì có nhiều loại vô cơ. Người ta đã tìm
thấy esterase hữu cơ trong tụy tạng của tôm càng
Squillaoratoria, trong gan và tụy tạng của mực
Sepia offi cinalis, bạch tuộc Eledne cierbosa, trong
gan cá chép và cá diếc (Nguyễn, 2006), trong tụy
tạng cá mập (Patton & Nevenzel, 1974), cá hồi đốm
(Tocher & Sargent, 1984). Từ những số liệu đã thu
được về các lipase, người ta thấy rằng, pH thích
hợp nhất của đa số lipase là gần trung tính (pH 7-9)
ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt. Các lipase có
thể hoạt động ở khoảng nhiệt độ rất rộng từ -20 đến
65oC, nhưng tốt nhất là ở 30 - 450C (Jensen, 1983).
Thời gian gần đây, người ta đặc biệt chú ý đến
dầu cá do khả năng giúp ngăn ngừa các bệnh tim
mạch của nó. Khả năng đặc biệt này có được là do
acid béo không bão hòa ω-3 là EPA, DPA và DHA
có mặt trong dầu cá. Các lipase có khả năng xúc
tác phản ứng ester hóa, phản ứng thủy phân hoặc
trao đổi acid béo giữa các ester (Wanasundara &
Shahidi, 1997). Việc nghiên cứu về các enzyme
lypolytic nguồn gốc thủy sản để xúc tác phản
ứng interesterifi cation của dầu cá để sản xuất
triacylglycerol giàu acid béo không bão hòa ω-3
đang đóng một vai trò quan trọng. Gần đây, người
ta thường dùng lipase từ nguồn vi sinh vật để sản
xuất axit béo không bão hòa giàu ω-3. Tuy nhiên,
các acid béo không bão hòa có mạch dài lại không
phải là cơ chất thích hợp đối với phần lớn lipase
thương mại đang có trên thị trường do tính đặc hiệu
đối với acid béo (Vilhelmsson, 1997). Các lipase từ
ruột cá tuyết Atlantic Gadus morhua cho kết quả đầy
hứa hẹn khi thủy phân các axit béo không bão hòa
thành acid béo mạch ngắn hơn hẳn và thể hiện tính
lựa chọn hoàn toàn khác đối với các acid béo (Lie
& Lambertsen, 1985). Nhiều nhà nghiên cứu khác
cũng đã thử nghiệm thủy phân mỡ hải cẩu và cá
mòi dầu với mục đích nâng cao hàm lượng acid béo
không bão hòa ω-3 ở dạng acylglycerol.
Trong số các esterase vô cơ ở động vật thủy
sản, phosphatase được nghiên cứu nhiều hơn cả.
Phosphatase của động vật thủy sản không xương
sống có hai loại là tính kiềm (hoạt động tốt ở pH
8,2-9,4) và tính acid (hoạt động tốt ở pH 3-6).
Glucosulphatase và phenylsulphatase cũng là
hai loại có mặt ở nhiều động vật thủy sản, chúng
thường kết hợp với nhau nhưng tỉ lệ giữa chúng
khác nhau phụ thuộc vào nguồn gốc.
Carbohydrase
Enzyme này xúc tác thủy phân các glucid và
glucozit. Loại men này có nhiều trong các động vật
thủy sản ăn thức ăn thực vật (rong, rêu, tảo).
Các loài nhuyễn thể và hải tảo có nhiều amylase
(glycogenase). α-amylase có nhiều trong tụy tạng,
trong dạ dày tương đối ít. Nhiệt độ và pH hoạt động
tối ưu của enzyme này không giống nhau ở các loài
cá khác nhau nhưng nhìn chung chúng thích hợp
với môi trường trung tính ở khoảng 35 - 450C. Nồng
độ NaCl cũng có ảnh hưởng đến hoạt động của
α-amylase, khi nồng độ NaCl tăng từ 0-10% thì nhiệt
độ thích hợp của men tăng từ 25 - 420C nhưng nếu
vượt qua ngưỡng 10% thì nhiệt độ lại giảm, nhiệt
độ thích hợp cũng giảm theo thời gian kéo dài phản
ứng phân giải. Ví dụ, thời gian phân giải là 3 giờ thì
nhiệt độ thích hợp là 400C, 30 giờ thì là 300C, 90 giờ
là 250C (Nguyễn Trọng Cẩn, 2006).
Gần đây, người ta đặc biệt chú ý đến các
enzyme chitinolytic. Các enzyme thuộc nhóm này
bao gồm chitinase “thật sự” và lysozyme. Chitinase
“thật sự” lại tiếp tục được phân chia thành chitinase
và chitobiase. Ở các loài nhuyễn thể và giáp xác,
hoạt tính chitinolytic liên quan chủ yếu đến quá trình
lột xác của chúng. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng
đã tìm thấy chitinase và chitobiase ở đường tiêu hóa
ruột, dạ dày của một số loài hải sản (Fang và cộng
sự, 1979; Danulat, 1986, Matsumiya,1996), trong
tôm và phế thải chế biến tôm (Koga và cộng sự,
1990; Suresh & Chandrasekaran, 1998), trong gan
mực (Matsumiya & Mochizuki, 1997) và ở bạch tuộc
(Grisley & Boyle, 1990). Cho đến bây giờ, người
ta vẫn còn tranh cãi nhiều về nguồn gốc của các
chitinase trong hệ tiêu hóa các loài hải sản. Một số
nhà khoa học cho rằng, các enzyme này là enzyme
nội tại do bản thân động vật sinh ra, nhiều người khác
lại giả thuyết chúng do các vi sinh vật trong thức ăn
hoặc do hệ vi sinh vật trong hệ tiêu hóa tạo thành.
Chitinase tìm được ở vi sinh vật, rong biển, cá
và động vật có vú thường có phân tử lượng từ 25
đến 120 kDa (Koga và cộng sự, 1999). Chúng có
điểm đẳng điện trong khoảng khá rộng: từ 3,0 - 10,0
ở tảo và thực vật bậc cao, 4,7 - 9,3 ở động vật thân
mềm, các loài giáp xác và cá, 3,5 - 8,5 ở vi sinh vật
(Flach và cộng sự, 1992; Koga và cộng sự, 1999).
Như vậy, trong các động vật kể trên có cả chitinase
acid và kiềm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
188 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Enzyme chitinolytic là công cụ tốt nhất giúp
chuyển chitin sang dạng đơn giản oligomeric mà
không cần cắt mạch trùng hợp (depolymerization)
bằng hóa học (thường là dùng HCl đậm đặc) dẫn
đến sản phẩm có tính chất lý hóa không ổn định.
Trong công nghệ thực phẩm và y học, người ta
quan tâm đặc biệt đến chitin và chitosan oligomer
bởi vì chúng có tính kháng khuẩn phổ rộng, kháng
ung thư, tác dụng cải thiện miễn dịch và bảo vệ
cơ thể khỏi nhiều vi sinh vật gây bệnh. Vì thế, các
enzyme chitinolytic từ cá và động vật thủy sản có rất
nhiều ứng dụng tiềm năng trong nhiều lĩnh vực công
nghệ khác nhau.
Trong động vật thủy sản còn nhiều loại
enzyme thủy phân như maltose, saccharose, trong
nội tạng bào ngư có cellulase, alginase, tuy nhiên các
enzyme này còn chưa được nghiên cứu nhiều.
Polyphenoloxydase (PPO)
Các enzyme này thuộc nhóm oxydase, chúng
oxy hóa các hợp chất có gốc phenol khi có mặt oxy.
Trong động vật thủy sản, đặc biệt là trong tôm cá,
enzyme này tồn tại khá phổ biến. Hệ enzyme PPO ở
trong tôm chủ yếu là tyrosinase, chúng tồn tại trong
lớp màng trong suốt dưới vỏ tôm. Khi tôm chết, do
protease trong tôm phân giải lớp màng này thúc đẩy
sự giải phóng của PPO, gặp điều kiện thuận lợi có
đủ oxy và nhiệt độ phù hợp sẽ xúc tác phản ứng oxy
hóa các hợp chất mang gốc phenol tạo ra phức chất
có màu nâu đen (melanin), đây gọi là hiện tượng
biến đen của tôm. Các chất có gốc phenol trong tôm
cá thường là tyrosin hoặc phenylalanin. Nhiệt độ
thích hợp của PPO trong tôm là 35 - 450C, và pH
thích hợp là 6 - 8.
III. KẾT LUẬN
Động vật thủy sản là nguồn gốc của nhiều
enzyme với những tính chất độc đáo và hữu dụng,
mở ra tiềm năng khai thác trong rất nhiều lĩnh vực
khác nhau của cuộc sống. Enzyme từ thủy sản
thường thể hiện hoạt tính cao ở nhiệt độ thấp hoặc
không cao lắm, vì vậy nhà sản xuất có thể thực hiện
phản ứng ở nhiệt độ thấp, giúp tiết kiệm năng lượng,
phản ứng này cũng dễ dàng ngừng lại khi nâng nhiệt
độ lên không quá cao và nhờ đó giảm được nguy
cơ hư hỏng do vi sinh vật. Những thành tựu công
nghệ sinh học ngày nay cho phép sản xuất ra nhiều
loại enzyme khác nhau với giá thành rẻ và dễ dàng
nhờ qui trình tách chiết và tinh sạch đã được cải tiến.
Enzyme từ động vật thủy sản đã, đang và sẽ được sử
dụng như phương tiện trợ giúp hiệu quả ở rất nhiều
lĩnh vực sản xuất thực phẩm và ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong công nghệ thực phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albuquerque-Cavalcanti C., Garcia-Carreno F.L., Navarrete M.A., 2002. Trypsin and trypsin inhibitors from Penaeus shrimp.
J.Food Biochem. 26, 233-251.
2. An, H., Peters, M.Y., & Seymour, T.A., 1996. Role of endogenous enzymes in surimi gelation. Trends in Food Science &
Technology, 7, 321-327.
3. Asgeirsson, B., & Bjarnason, J.B., 1991. Structural and kinetic properties of chymotrypsin from Atlantic cod (Gadus morhua),
Comparison with bovine chymotrypsin. Comparative Biochemistry and Physiology, 99B, 327-335.
4. Cohen, T., & Gertler, A., 1981. Pancreatic proteolytic enzymes from carp Cyprinus carpio I, Purifi cation and physical
properties of trypsin, chymotripsin, elatase and carboxypeptidase B. Comparative Biochemistry and Physiology, 69B, 647-653.
5. De-Vecchi, S.D., & Coppes, Z., 1996. Marine fi sh digestive proteases - relevance to food industry and south-west Atlantic
region - a review. Journal of Food Biochemistry, 20, 193-214.
6. Fong, W.P., Chan, E.Y,, & Lau, K.K., 1998. Isolation of two chymotrypsins from grass carp. Biochemistry and Molecular
Biology International, 45, 409-418.
7. Haard, N. F. 1998. Speciality enzymes from marine organisms. Food Technology, 53(7), 64-67.
8. Haard, N. F., & Simpson, B. K., 1994. Protease from aquatic organisms and their uses in the seafood industry, In A, M, Martin
(Ed,). Fisheries processing: biotechnological applications (132-154), London, UK: Chapman and Hall.
9. Hameed,K.S.,&Haard, N.F., 1985. Isolation and characterization of cathepsin C from Atlantic short fi nned squid Illex
illecebrosus. Comparative Biochemistry and Physiology, 82B,241-246.
10. Han,X.Q.,& Shahidi,F., 1995. Extraction of darp seal gastric proteases and their immobilization on chitin. Food
Chemistry,52,71-76.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 189
11. Jensen, R. G., 1983. Detection and determiantion of lipase (acylglycerol hydrolase) activity from various sources. Lipids,
18, 650-657.
12. Kawamura, Y,, Nishimura, K,, Matoba, T,, & Yonezawa, D., 1984. Effects of protease inhibitors on the autolysis and protease
activities of Antarctic krill. Agricultural Biology and Chemistry, 48, 923-930.
13. Kinoshita, M., Toyohara, H., & Shimizu, Y., 1990. Characterization of two distinct latent proteinases associated with
myofi brils of crucian carp (Carassius auratus cuvieri). Comparative Biochemistry and Physiology, 97B, 315-319.
14. Kolodziejska, I., & Sikorski, Z. E., 1996. Neutral and alkaline muscle proteases of marine fi sh and aquatic invertibrates,
A review. Journal of Food Biochemistry, 20, 349-363.
15. Kristjansson, M.M., & Nielsen, H.H., 1992. Purifi cation and characterization of two chymotrypsin-like proteases from the
pyloric caeca of rainbowtrout (Oncorhynchus mykiss). Comprative Biochemistry and Physiology, 101B, 247-253.
16. Makinodan, Y., Toyohara, H., & Ikeda, S., 1983. Combined action of carp muscle cathepsins A and D on proteins. Bulletin of
the Japanese Society of Scientifi c Fisheries, 49, 1153-1161.
17. Nguyễn Trọng Cẩn, Đỗ Minh Phụng, 2006. Công nghệ chế biến thực phẩm thủy sản, tập 1 Nguyên liệu chế biến thủy sản.
Nhà xuất bản Nông nghiệp.
18. Raa, J., & Walther, B. T., 1998. Purifi cation and characterization of chymotrypsin, trypsin and elastase like proteinase from
cod Gadus morhua L.. Comparative Biochemistry and Physiology, 93B, 317-324.
19. Shamsuzzaman, K., & Haard, N. F., 1984. Purifi cation and characterization of a chymosin-like protease from gastric mucosa
of harp seal (Paophilus groenlandicus). Canadian Journal of Biochemistry and Cell Biology, 62, 699-708.
20. Simpson, B.K., & Haard, N.F, 1984. Purifi cation and characterization of trypsin from the Greenland cod (Gadus ogac). Can.
J. Biochem. Cell. Biol., 62, 894-900.
21. Simpson, B.K., Simpson, M. V., & Haard, N. F., 1989. On the mechanism of enzyme action: digestive proteases from selected
marine organisms. Biotechnology and Applied Biochemistry, 11, 226-234.
22. Tsai I.H., Lu P.J and Chuang J.L., 1991. The midgut chymotrypsins of shrimps (Penaeus monodon, Penaeus japonicas and
Penaeus penicillatus). Biochimica et Biophysica Acta 1080: 59-67
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_loai_enzyme_tu_dong_vat_thuy_san.pdf