Cho dù các nguồn lực v n hóa được thao tác hóa khái niệm một cách khách quan
với thu t ngữ “v n hóa” hay l thể hiện qua con người các nguồn lực v n hóa có thể được
cho l ở trong con người – các chủ thể của v n hóa. Theo tôi điều n y ngụ ý rằng một cách
nhìn về phát triển bền vững dựa trên các nguồn lực v n hóa nên t p trung trước hết v o các
chủ thể của v n hóa theo nghĩa l các chủ thể n y gi ng với các chủ thể phát triển. Ý
tưởng n y bắt nguồn từ sự ph n biệt (trong tiếng Anh) giữa động từ “phát triển” ở thể
ngoại động từ v nội động từ. Trong thực h nh ngôn ngữ trước đ y “phát triển” l nội
động từ - không có bổ ngữ - với sự xuất hiện khái niệm mới của phát triển từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai như chúng ta biết ng y nay “phát triển” trở th nh ngoại động từ có
nghĩa l nó có bổ ngữ. Nói một cách khác “phát triển” b y giờ có thể l phát triển cái gì đó
hay ai đó (s ít hay s nhiều) dẫn đến sự tách biệt ho n to n giữa các chủ thể của phát
triển (thường l các nh t i trợ phát triển các nước phương Bắc các tổ chức phát triển nh
nước) v các khách thể phát triển (thường thường nhưng không phải to n diện l các
“nhóm mục tiêu” như người nghèo d n tộc thiểu s phụ nữ v trẻ em nông d n v cả các
nước phương Nam) dẫn đến việc công cụ hóa các khách thể n y trong quá trình phát triển.
Từ điểm xuất phát n y tôi đưa ra một cái nhìn khái quát về thực h nh v diễn ngôn về phát
triển trong quá khứ v hiện tại với ít nhiều liên quan đến Việt Nam đồng thời đưa ra một
s gợi ý về việc các khách thể phát triển có thể biến th nh các chủ thể phát triển như thế
n o bằng cách coi họ như l hiện th n các nguồn lực v n hoá - như v y với tư cách tác
nh n v n hóa - v xem như l chủ thể của sự phát triển của chính họ.
19 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các chủ thể phát triển, khách thể phát triển và những hình thức phát triển theo nghĩa “ngoại động từ” và “nội động từ”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y "ai đó phát triển"
biểu thị một quá trình “mở ra” mang ít nhiều
tính độc l p không h m chứa ý tưởng cứu
cánh cho quá trình phát triển đó. Với sự xuất
hiện của lĩnh vực phát triển - thay đổi có chủ
đích v /hoặc thay đổi theo kế hoạch-[ngoại
động từ] "phát triển" nhắm tới một khách
thể cụ thể ví dụ "chúng ta phát triển cái gì
đó" (như trong "phát triển lĩnh vực nông
nghiệp của Việt Nam "); hoặc "chúng ta phát
triển ai đó" (như trong "phát triển d n tộc
thiểu s ở Việt Nam”). Ở cương vị ngoại
động từ "phát triển" h m chứa một chủ thể
(tức l kẻ đang phát triển một cái gì đó/một
ai đó) v một khách thể (đ i tượng được
phát triển); nó mặc nhiên công nh n các m i
liên hệ tác nh n nh n quả v ph n cấp giữa
chủ thể v khách thể của phát triển. Để minh
hoạ m i quan hệ nh n quả v ph n cấp n y
nếu nói rằng Ng n h ng Thế giới [chủ thể]
đã “phát triển” cơ sở hạ tầng ở Nigeria
[khách thể] như thế l có lý; nhưng ngược
lại khi phát ngôn rằng Nigeria [chủ thể]
đang “phát triển” Ng n h ng Thế giới
[khách thể] nó sẽ trở nên vô nghĩa hoặc phi
lý.
Trong Tiếng Anh khái niệm chủ thể v
khách thể có thể mang nhiều nghĩa khác
nhau tùy theo lĩnh vực diễn ngôn v ngữ
cảnh. Trong tiếng Việt về mặt ngôn ngữ học
“subject” được dịch l chủ ngữ v “object”
được dịch l bổ ngữ. Trong triết học
“subject” thường được dịch l chủ thể v
“object”được dịch l khách thể (tôi sẽ không
đề c p đến sự ph n biệt giữa chủ thể con
người v khách thể vô tri vô giác trong b i
viết n y). Như v y l có sự khác biệt về mặt
từ vựng giữa ngôn ngữ học v triết học về
khái niệm “subject” v “object” v điều n y
tạo ra những hiệu ứng thực tế khi diễn ngôn
phát triển được đưa v o thực h nh chính
sách. Vì lĩnh vực diễn ngôn v thực h nh
phát triển như chúng ta biết hiện nay trên
to n thế giới bắt nguồn từ tiếng Anh những
thu t ngữ n y đã được to n cầu hóa v phổ
thông hóa bằng nhiều thứ tiếng địa phương
ví dụ như trong tiếng Việt phát triển mang
một ý nghĩa mới v khác sau khi Việt Nam
gi nh được độc l p v hội nh p v o các
mạng lưới to n cầu. Nói cách khác sự xuất
hiện của phát triển theo hình thức ngoại
động từ sau Thế chiến thứ hai v sau thời kỳ
giải thể thuộc địa đã ph n biệt rõ rệt về mặt
ngôn ngữ giữa chủ thể v khách thể của phát
triển v như v y đã tạo ra các khách thể của
phát triển ngo i các chủ thể của phát triển;
nhưng những khách thể của phát triển n y
thường chính l con người.
Nói cách khác phát triển không phải l
một thu t ngữ trung l p ở trong lĩnh vực
diễn ngôn v thực h nh của viện trợ phát
triển hợp tác phát triển v phát triển qu c
tế. Phát triển - như l một ngoại động từ-giả
định một chủ thể phát triển v một khách thể
phát triển chồng chéo nhau kết n i với nhau
theo thứ b c trong một v n h nh được định
hướng v có chủ đích ở đó cứu cánh l l m
cho khách thể phát triển trở th nh hoặc ít ra
gi ng như chủ thể phát triển. Nhưng có gì
trong cái từ ấy v nó liên quan đến như thế
n o đến việc nghiên cứu phát triển ở Việt
Nam v với tiếng Việt? Như ta biết việc
hiểu v thực h nh phát triển bắt nguồn từ
tiếng Anh v được to n cầu hóa v phổ
thông hóa trên to n thế giới - bao gồm Việt
Nam - tôi cho rằng đó l điều thích đáng.
Trong b i cảnh n y việc truy tầm nguồn
g c của từ phát triển trong tiếng Việt l cần
thiết nhưng điều n y vượt ngo i khuôn khổ
của b i viết n y v ngo i khả n ng ngôn ngữ
của tôi. Vì v y trong phần tiếp theo tôi sẽ c
lý giải s u hơn phát triển như nó được tưởng
tượng ở phương Bắc v thực h nh phát triển
đến từ đ y; đó l hoạt đông mang tính cách
tôn giáo thể hiện qua các sự kiện cụ thể ví
dụ như sự tham gia của các nh n v t nổi
tiếng trong các thực h nh phát triển.
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 666
3. Một công việc mang hơi hướng tôn
giáo1
Trong một b i viết gần đ y tôi đã ph n
tích phát triển ở phương Bắc sau Thế chiến
thứ hai - cụ thể l khách thể phát triển trong
m i quan hệ ngoại động từ - như l một nỗ
lực có tính cách tôn giáo (Salemink 2015a).
Dưới đ y tôi sẽ tóm tắt ngắn gọn những
điểm chính trong b i viết đó v không ph n
tích thêm. Một s học giả (Koselleck 2002,
2004; Gray 1998, 2007) l p lu n một cách
thuyết phục rằng sự thế tục hóa về thời gian
trong Sơ kỳ c n đại (early modern period) ở
ch u Âu song h nh với việc thế tục hóa kỳ
vọng cứu rỗi theo đó thiên đường không ở
kiếp sau m ở ngay thế giới n y (v o những
giai đoạn thường l sau một v i biến đổi
phá vỡ chẳng hạn như một cuộc cách mạng).
Thời gian được quan niệm theo nghĩa đơn
tuyến-một đường n i liền quá khứ hiện tại
v tương lai hơn l dựa trên trải nghiệm chu
kỳ của các mùa vụ - v được mô tả bằng
những khái niệm tiền th n v quen thuộc về
phát triển như tiến bộ tiến hóa v v n minh
(được hiểu như quá trình). Cùng với việc thế
tục hóa niềm tin cứu rỗi những mong đợi
mang tính tôn giáo về thế giới bên kia được
thay thế hoặc kèm theo v /hoặc kết hợp với
những hệ tư tưởng chính trị như chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa cộng sản chủ nghĩa vô
chính phủ v cả chủ nghĩa tự do v một v i
khía cạnh của chủ nghĩa tư bản - như John
Gray (1998, 2007) chỉ rõ - nhất l khi chúng
khoác v o những đặc trưng của chủ nghĩa
t n tự do. Niềm tin về cứu rỗi mang tính tôn
giáo v thế tục (chính trị) thường gặp nhau ở
tín ngưỡng thiên niên kỷ (millenial beliefs)
về sự phá vỡ v sự cứu rỗi sau một quá trình
thanh lọc; một lần nữa ta hãy suy ngẫm về
1
Phần n y phần lớn dựa trên Rist (2002) and Salemink
(2015a). Để tìm hiểu thêm những l p lu n trong phần n y
xem thêm Salemink 2015a cũng như b i viết chưa xuất
bản của tôi (Salemink 2013).
những điểm tương đồng chính thức giữa các
thuyết mạt thế mang tính tôn giáo v thuyết
mạt thế mang tính cách mạng thế tục.
Như Gilbert Rist (2002) đã chỉ ra tư
tưởng phát triển có điểm chung với tôn giáo
ở niềm tin thơ ng y về khả n ng thực hiện
những giấc mơ không tưởng - một niềm tin
được thể chế hóa v to n cầu hóa nhưng
chưa bao giờ được thực hiện. Như Paul Basu
v Ferdinand de Jong đã viết trong một b i
gần đ y: “trong khi chúng không hẳn l
những gì ngược lại với các ho n cảnh tệ hại
ng y nay những biểu đạt không tưởng n y ít
ra l chỉ báo (indexical) cho những ho n
cảnh để qua đó đưa ra “hình ảnh giải đáp”
về giải thoát” (Paul Basu and De Jong 2016:
8). Nói cách khác ho i niệm về quá khứ v
tưởng tượng đến tương lai đều xảy ra trong
hiện tại. Tương tự những lý tưởng cao vời
như nh n quyền hay Mục tiêu thiên niên kỷ
về bản chất đều l những điều không tưởng
bắt nguồn từ những tình hu ng thực tế
không trùng hợp với những lý tưởng n y
như Mười điều r n trong Kinh Thánh l
những điều cần biết bởi vì con người hoặc
không l m hoặc không nh n ra chúng trong
đời họ. Chính cái đặc tính không thuộc đời
s ng thường ng y hay như Émile Durkheim
(1912) từng nói những điều phi thế tục đã
thần thánh hóa các mục tiêu như thế; v
trong chừng mực chúng được đề ra ở dạng
n o đó m không ai có thể bác được chúng
có khuynh hướng trở th nh không thể nghi
ngờ v t i thiêng liêng. Về Nh n quyền
Kirsten Hastrup mô tả đặc tính như thể tôn
giáo như sau:
"Ngay cả khi các chính phủ tán đồng các
quyền n y với bề ngo i đạo đức v với
nhiều dè dặt ít ai công khai chất vấn giả
định cơ bản l những quyền n y giúp thêm
cho việc thực thi công lý giữa người d n.
Theo nghĩa đó tuyên ngôn qu c tế nh n
quyền đã trở th nh đại diện cho "lợi ích
chung" một cái gì đó m chúng ta phải tích
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 667
cực phấn đấu để đạt được trên quy mô to n
cầu. Tuyên ngôn n y bắt nguồn từ sự tưởng
tượng t p thể về tr t tự to n cầu" (Hastrup
2001: 9).
Không chỉ Nh n quyền tạo nên sự thần
thánh hóa (về các quyền chính trị xem
Ignatieff 2001) m Các mục tiêu Thiên niên
kỷ cũng được diễn giải dưới dạng “thu n
theo Trời [Thiên đường]” theo nghĩa l việc
thực hiện những mục tiêu n y sẽ tạo nên
thiên đường ở địa giới n y v như v y đã
thần thánh hóa một nỗ lực không tưởng
(Gabay 2011, 2012).
Một hình thức khác của việc thần thánh
hóa sự phát triển l đưa v o hình ảnh các
nh n v t được xem như thần thánh. Trong
khi ở phương Nam những nh n nh n v t n y
thường l những lãnh tụ chính trị như Hồ
Chí Minh người trong di chúc (1969) của
mình đã kêu gọi người Việt Nam cần phải
x y dựng lại đất nước đẹp hơn mười lần sau
khi chiến thắng qu n x m l ng Mỹ:
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười
ngày nay2!
Xin lưu ý việc sử dụng từ “x y dựng
(lại)” chứ không phải từ “phát triển” phản
ánh sự chú trọng của kế hoạch Marshall về
tái thiết. Ở phương Bắc các nh thực h nh
phát triển mang hơi hướng tôn giáo như Mẹ
Teresa v Albert Schweitzer đã thần thánh
hóa nỗ lực phát triển như l một hy sinh cá
nh n cho người nghèo trong những th p kỷ
ban đầu của phát triển. Gần đ y hơn các
nh n v t thánh thiện được sùng bái l các
học giả như Paul Farmer Elinor Ostrom v
Jeffrey Sachs; v hiện nay dạng người n y l
những nh n v t nổi danh trong v n hóa đại
chúng như Bob Geldof Bono v tất cả
2
Cách dịch khác xem trong The Antioch Review. Lưu ý
l việc sử dụng từ “x y dựng (lại)/tái thiết” chứ không
phải từ “phát triển” lặp lại sự nhấn mạnh của kế hoạch
Marshall về x y dựng lại.
những diễn viên v ca sĩ từng đóng vai đại
sứ cho một tổ chức phát triển hoặc hoạt
động từ thiện n o đó - từ Angelina Jolie cho
đến nh n v t nổi tiếng địa phương của bạn.
Sự sùng kính những người nổi tiếng ng y
nay v việc để tang to n cầu khi họ qua đời
như Elvis Presley Công nương Diana, hay
Michael Jackson - được ph n tích dưới hình
thức thế tục hóa việc sùng bái các vị thánh
thần v đôi khi những người nổi danh (còn
s ng hay đã chết) được gán cho những
quyền lực to lớn hơn đời thường. Kể từ khi
ngôi sao giải trí Danny Kaye được bổ nhiệm
l m “Đại sứ thiện chí” cho UNICEF v o
n m 1954 các tổ chức phát triển ng y c ng
quan t m tới việc tuyển dụng những người
nổi tiếng để quảng bá cho sự nghiệp của tổ
chức của mình bằng cách dựa v o sự cu n
hút cá nh n những người nổi tiếng đó. Như
Max Weber (1922) đã chỉ ra uy tín hay sức
hút của cá nh n (chẳng hạn lãnh tụ hay
người nổi tiếng) phải được hiểu như l sự
thế tục hóa của hạnh phúc siêu ph m trong
khi đó c ng có nhiều nh ph n tích đương
thời ghi nh n rằng các nh n v t nổi tiếng có
xu hướng đảm nh n v hiện th n một vị thế
gần như tôn giáo v như v y ở một chừng
mực n o đó họ đã đi theo vết ch n của các
b c thánh thần (Berenson and Giloi 2010;
Turner 2004). Nhiều học giả v các nh bình
lu n đã ph n tích sự tham gia của người nổi
tiếng trong các quan hệ công chúng v các
cuộc v n động cho các nỗ lực phát triển ở
nhiều góc độ khác nhau - phổ c p nhất l từ
góc độ thương mại hóa h ng hóa v v n hóa
đại chúng (Biccum 2011; Kapoor 2013;
Richey and Ponte 2008) - nhưng cho tới nay
có ít người ph n tích về m i quan hệ giữa sự
“danh nh n hóa” (celebritization) v thần
thánh hóa (Salemink 2013).
Không chỉ các mục tiêu phát triển v các
chiến dịch quan hệ công chúng đi kèm
những thực h nh phát triển còn có xu hướng
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 668
khoác lên mình những đặc trưng nhu m
m u sắc sắc tôn giáo đặc biệt l qua những
quá trình nghi thức hóa tr n ng p trong phát
triển. Đặc trưng của những can thiệp phát
triển l nhấn mạnh đến các thủ tục gắn với
những thu t ngữ có tác dụng n ng cao tinh
thần (“feel good”) như “từ dưới lên” “tham
gia” “chia sẻ” “bình đẳng giới” “bền
vững” “hiệu quả” vv...- những thu t ngữ
n y rất hấp dẫn bởi vì chúng xuất phát từ
những thực tế ho n to n trái ngược. Sự viện
dẫn (invocation) lặp đi lặp lại những thu t
ngữ n y - bất kể sự áp dụng khả n ng ứng
dụng hay tính thích nghi của chúng với thực
tế hiện nay (Mosse 2005) - về bản chất phần
lớn l một nghi thức v chính đặc trưng
được nghi thức hóa n y mang lại tính hiệu
quả cho các dự án hay can thiệp phát triển
mặc dù không nhiều trong liên hệ với những
cộng đồng/d n chúng địa phương ở phương
Nam (khách thể của phát triển) m chủ yếu
l với giới t i trợ ở phương Bắc (chủ thể của
phát triển). Hơn nữa những sự viện dẫn n y
được dùng như l biểu hiện nghi thức của
niềm tin v o những kết quả mong mu n của
can thiệp phát triển qua việc lặp đi lặp lại.
Ng nh công nghiệp phát triển tìm cách xác
định “tiến triển” qua một loạt những kỹ
thu t giám sát v đánh giá để đo lường kết
quả sau chu kỳ dự án ba hoặc b n n m dựa
trên một “đường chuẩn” phi - lịch sử. Khi
những dự án hay những can thiệp được đánh
giá l không đạt được mục tiêu hay bị
“những nhóm mục tiêu” (khách thể phát
triển) hay người ngo i chỉ trích sự viện dẫn
những khái niệm “n ng cao tinh thần” (“feel
good”) l minh chứng cho những ý định t t
đẹp của chủ thể phát triển v vì v y được
dùng nhằm hợp thức hóa nỗ lực của họ bất
kể kết quả hay h u quả như thế n o.
Cu i cùng như tôi đã l p lu n
(Salemink 2015a) việc thần thánh hóa các
mục tiêu (Nh n quyền Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ - MDG hay Mục tiêu phát triển
bền vững - SDG) sự tôn sùng các vị thánh
thời nay v sự nghi thức hóa thể thức phát
triển tạo ra tác động cộng hưởng của sự
thanh lọc (Latour 1993) thực h nh phát triển
từ sự hỗn độn của th ng trầm kinh tế chính
trị to n cầu v địa phương từ chiến tranh
xung đột v thảm họa v từ thực tế địa chính
trị. Diễn ngôn phát triển không tính đến tình
hình địa chính trị hay lịch sử to n cầu lịch
sử khu vực v lịch sử địa phương khi thực
hiện hay không thực hiện các h nh động cụ
thể. Ví dụ các phương sách phát triển gi ng
nhau có thể đề nghị cho cả Việt Nam v
Chad bất chấp vị thế địa chính trị v địa
kinh tế t i thu n lợi của Việt Nam đ i với
Trung Qu c Nh t Bản v Biển Đông trong
khi đó Chad l một nước chỉ có đất liền v
sa mạc. Sự thanh lọc các hiện thực lịch sử từ
diễn ngôn v thực h nh phát triển l m cho
các nh t i trợ phương Bắc có thể vờ cho
rằng phát triển ở phương Nam l kết quả của
các can thiệp phát triển v sự kém phát triển
không liên quan gì đến các h nh động chính
trị v kinh tế của chính họ ở trong quá khứ
v hiện tại. Tư duy n y được duy trì mặc dù
có nhiều bằng chứng ngược lại - chỉ nghĩ
đến những nguyên nh n v tác động không
đồng đều của sự nóng lên to n cầu cũng cho
thấy điều n y. Cu i cùng các mục tiêu cao
cả của Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ v
Mục tiêu phát triển bền vững xác định
những ý định t t đẹp v do đó tránh tội cho
các qu c gia v các tác nh n ở phương Bắc.
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 669
4. Có gì đang ẩn khuất?3
Ở phần trước tôi đã l p lu n rằng từ
phương Bắc phát triển có xu hướng được
thần thánh hóa theo nhiều cách khác nhau
v như thế l tách nó ra khỏi những thực
h nh diễn ngôn v trải nghiệm thế tục
thường ng y v ch i bỏ trách nhiệm của các
chủ thể phát triển phương Bắc cho mọi tình
trạng khó kh n của những người thấy mình
l khách thể phát triển ở phương Nam. Nói
cách khác phát triển như l một ngoại động
từ như nêu ở trên - bao gồm v n i liền chủ
thể v khách thể theo một quan hệ thứ b c -
được tưởng tượng thu t lại nỗ lực v thi
h nh bên cạnh các thực thể phát triển thiên
về “nội động từ” có ảnh hưởng lớn trong
phương trình phát triển nhưng lại hoạt động
theo những nguyên tắc ho n to n khác. Phát
triển theo phương thức nội động từ như thế
l sản phẩm của lịch sử hơn l của sự can
thiệp có chủ ý nhằm mang lại những kết quả
cụ thể dưới tiêu đề phát triển. Phát triển theo
phương thức nội động từ có liên quan đến
kinh tế chính trị địa chính trị lợi nhu n
lòng tham v ham mu n (của người tiêu
dùng) về những sản phẩm thương mại
những dịch vụ v trải nghiệm vì động cơ
thương mại. Phát triển theo phương thức nội
động từ không theo kế hoạch đã l m nẩy
sinh-chẳng hạn như sự nóng lên to n cầu
m chính nó đã trở th nh một chuyên ng nh
mới - một khách thể của phát triển theo
phương thức ngoại động từ.
Nhưng sự ham mu n của người tiêu dùng
cũng l động cơ thúc đẩy của nhiều khách
thể phát triển - người nghèo ở những nước
nghèo những người thường được xem l
“nhóm mục tiêu” của phát triển - những
người m nay trở th nh chủ thể của phát
triển theo phương thức nội động từ nghĩa l
phát triển nhắm ngay đến chính họ thay vì
3
Phần n y dựa một phần v o b i viết của Salemink
(2015b).
người những người khác. Một s nghiên cứu
điền dã nh n học gần đ y (High 2014; Li
2014; Salemink 2015b) đã mô tả những
người nghèo các nhóm bản địa ở những
“vùng s u vùng xa” mong mu n được l m
th nh viên của một thế giới hiện đại v phát
triển; sở hữu những thứ do thị trường tư bản
đem lại; tiếp thu kiến thức v khả n ng để tự
xoay xở trong thế giới n y. Quan trọng hơn
những nghiên cứu nói trên mô tả những con
người n y đã h nh động theo mong mu n
của họ như thế n o v như v y đã trở th nh
chủ thể phát triển của chính họ nhưng rất ít
khi đạt được ý nguyện của mình. Khi m
khách thể phát triển rất gi ng chủ thể phát
triển những nỗ lực phát triển có thể được
gọi l phát triển theo phương thức nội động
từ - hay phát triển hướng v o bản th n. Điều
n y trái ngược với phát triển theo phương
thức ngoại động từ l h nh động theo mong
mu n qu c tế nhằm ch ng lại đói nghèo v
tạo ra t ng trưởng kinh tế nhắm v o các
nhóm người cụ thể hơn l các chủ thể của
phát triển. Như Tania Murray Li (2007) l p
lu n trong b i viết có tiêu đề The Will to
improve (Ý chí cải tiến) phát triển theo
phương thức ngoại động từ l chính trị đã
trở th nh kỹ thu t trên thực tế nó hoạt động
như “bộ máy ch ng chính trị” - The Anti-
Politics Machine (Ferguson 1994). Th m chí
ngay cả những sáng kiến nhắm trực tiếp v o
lớp người nghèo Putting the Last First (Ưu
tiên cho những người sau cùng) (Chambers
1983) được thi h nh với điểm lợi thế nhìn từ
ngo i nơi m các chủ thể phát triển
(Chambers v các cộng sự cha đẻ của
RRA-Phương pháp đánh giá nhanh nông
thôn v PRA - v đánh giá nông thôn có
nông d n tham gia) d nh ưu tiên cho những
kẻ sau cùng - những khách thể phát triển
nghèo.
Nhưng l m thế n o một sự lưỡng ph n
đơn giản - có thể nói l quá đơn giản - giữa
phát triển theo phương thức nội động từ v
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 670
ngoại động từ v sự tách biệt giữa khách thể
v chủ thể phát triển có thể giải thích cho
những tình hu ng phức tạp? Trong trường
hợp Việt Nam một cu n sách gần đ y về
th nh ph Hồ Chi Minh đã l m nổi b t c u
hỏi hóc búa n y. Trong Luxury and Rubble:
Civility and Dispossession in the New
aigon (Xa hoa và đổ nát: ự văn minh và
tước đoạt ở khu ài Gòn Mới, Erik Harms
(2017) so sánh những trải nghiệm giữa các
loại cư d n khác nhau: ở Phú Mỹ Hưng (“xa
hoa”) v Thủ Thiêm (“đổ nát”). Những cư
d n ở Phú Mỹ Hưng có một cuộc s ng mong
mu n của “giới thượng-trung lưu” (upper
middle class) m theo tất cả các nghĩa của
từ n y có thể mô tả l “phát triển” - hay
v n minh hiện đại - ít ra l ở thời điểm n y
bởi các chuẩn mực phát triển có xu hướng
dịch chuyển phát triển ng y hôm nay có thể
l lạc h u ng y mai như Philip Taylor đã
chỉ ra trong cu n Fragments of the Present:
Searching for Modernity in Vietnam’s South
- Những mảnh vụn của hiện tại: Đi tìm hiện
đại ở miền nam Việt Nam (2001). Nhưng
Harms đã phác họa một bức tranh phức tạp
hơn những gì cụm từ nhị ph n “phát triển -
kém phát triển” hay “chủ thể - khách thể”
gợi đến bởi vì cư d n (tương lai) ở Thủ
Thiêm cùng chia sẻ với cư d n Phú Mỹ
Hưng những lý tưởng về hiện đại v n
minh thẩm mỹ đô thị - lấy từ ý tưởng phát
triển. Tuy v y, họ bị loại trừ không được dự
phần trong cái hiện đại ấy: t i sản bị tước
đoạt đất bị lấy đi đền bù không thỏa đáng -
tóm lại l bị loại khỏi những phúc lợi của
phát triển m chính họ tìm tới/nhìn ra v
hằng ao ước. Theo thu t ngữ của tôi thì họ l
những khách thể của phát triển, những người
đồng thu n với mục tiêu của phát triển áp
đặt lên họ v mong mu n trở th nh chủ thể
của phát triển. Họ khát khao s ng một l i
s ng m cư d n Phú Mỹ Hưng v cư d n
(tương lai) Thủ Thiêm đang/sẽ s ng, một
cuộc s ng xa hoa. Thay v o đó họ thấy môi
trường của mình đã biến th nh đ ng gạch
vụn. Điều n y cho thấy rằng trong trường
hợp n y cái cặp đôi „chủ thể - khách thể‟
không tách biệt hay loại trừ nhau, bởi vì
khách thể của phát triển - những cư d n Thủ
Thiêm - đã đồng cảm với những mục tiêu
trừu tượng của phát triển khiến họ nhường
chỗ v đôi khi còn h ng hái tham gia v o
quá trình đó4. Cùng mội lý do người ta có
thể biện lu n rằng người d n thuộc giới
“thượng trung lưu” (upper middle class)
hiện s ng Phú Mỹ Hưng hoặc đang dọn v o
Thủ Thiêm bản th n họ l khách thể của
phát triển theo nghĩa của Faucauld ở mức độ
h nh vi của họ đã được quy định v mong
mu n của họ đã được r p khuôn. Nói cách
khác sự ph n định giữa chủ thể v khách
thể của phát triển không r nh rọt nhưng đấy
l trong một b i cảnh địa phương ở th nh
ph Hồ Chí Minh hơn l trong lĩnh vực phát
triển xuyên qu c gia.
B y giờ tôi sẽ chuyển sang một vấn đề
khác thích hợp hơn mặc dù tôi không có
kiến thức nh n học chuyên s u về nó. Cá
được coi l một th nh phần quan trọng trong
ẩm thực Việt Nam v l nguồn chất đạm
quan trọng cho phần lớn d n chúng. Nhưng
khi người Việt nam nói rằng họ lựa chọn cá
họ ngầm chỉ một cái gì đó ho n to n khác.
C u tôi chọn cá mang một ý nghĩa khác v o
tháng tư, tháng n m n m 2016 trong b i
cảnh cá chết h ng loạt dạt v o bờ biển H
Tĩnh v các tỉnh miền Trung nhìn ra Biển
Đông do ô nhiễm công nghiệp. Cụ thể hơn
người phát ngôn của công ty thép Formosa
H Tĩnh đã đưa ra sự lựa chọn giữa cá v
thép khi phản ứng lại những cáo buộc đầu
4
Trong một bình lu n Erik Harms viết rằng trong khi
những cư d n Thủ Thiêm có thể l khách thể của phát
triển theo cách l họ phải theo ý mu n của những người
phát triển họ cũng có thể rất nhiệt tình về dự án phát triển
cho cả th nh ph v như v y l chủ thể của sự phát triển.
Th m chí có trường hợp họ cũng đầu tư khá nhiều v o
phát triển khi họ trở th nh những kẻ đầu cơ (đất) qui mô
nhỏ ở những khu vực khác trong th nh ph (Erik Harms
trao đổi cá nh n 13 April 2017).
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 671
tiên l công ty phải chịu trách nhiệm đã xả
thải bùn đặc độc hại l m cho cá chết h ng
loạt5. Ở đ y chúng ta lại thấy tính nhị ph n
tương ứng với tính nhị ph n giữa người phát
triển - chủ thể của phát triển - v khách thể
của phát triển - những người phản đ i lại
việc bị/được phát triển. Khi sự lựa chọn đó
được đưa ra với điều kiện trắng trợn như
v y, nhiều người Việt Nam công khai chọn
cá do đó cho thấy đ y không phải l thứ
phát triển họ mu n. Nhưng có thể nói thêm
về điều n y bởi khi phát ngôn viên nói rằng
người Việt Nam phải chọn giữa cá v thép
ông ta nói theo nghĩa bóng ngụ ý rằng họ
phải chọn giữa sinh kế truyền th ng (cá) v
phát triển hiện đại (thép)6. Người d n s ng
ven biển ở những tỉnh bị ảnh hưởng v kiếm
s ng nhờ biển rất lo u l chuyện dễ hiểu,
bởi vì sinh kế của họ bị tác động trực tiếp -
với d n đánh bắt cá - hay gián tiếp - với giới
buôn bán v tiêu thụ. Nhưng những vụ phản
đ i gồm cả cư d n các th nh ph lớn đang
hưởng cuộc s ng xa hoa hay khá xa hoa do
phát triển hiện đại mang lại m người phát
ngôn đã tóm gọn l sự lựa chọn “thép”. Về
mặt sinh kế v l i s ng, những cư d n đô thị
n y có thể có nhiều điểm tương đồng với
những người điều h nh nh máy thép hơn l
với những d n đánh cá - những người m
sinh kế của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
5
See
firm-apologizes-for-officials-callous-remarks-on-mass-
fish-deaths-61597.html and
https://en.wikipedia.org/wiki/2016_Vietnam_Marine_Life
_Disaster (accessed 20 November 2016).
6
Thực ra đ y l một sự ph n tách sai bởi vì đánh bắt cá
v một lĩnh vực kinh tế bị ảnh hưởng khác l du lịch khó
có thể được gọi l “truyền th ng”. Trong một tạp chí trực
tuyến Quartz nh báo Steve Mollman viết rằng “Đánh bắt
cá v du lịch trong khu vực bị tác động nặng nề bởi thảm
họa sinh thái điều n y cũng góp phần l m giảm sự t ng
trưởng kinh tế của Việt Nam trong nửa đầu n m nay”.
Đánh bắt cá đóng góp 4% đến 5% cho GDP của Việt Nam
v có hơn 4 triệu lao động. Xuất khẩu hải sản của qu c
gia trị giá 7 tỉ đô la h ng n m .
taiwanese-steel-plant-caused-vietnams-mass-fish-deaths-
the-government-says/ (xem ng y 20 November 2016).
Một lần nữa như trong ví dụ của Erik
Harms‟ về “S i Gòn Mới” tính nhị ph n
giữa chủ thể v khách thể phát triển có thể l
hấp dẫn với những người tư duy theo kiểu
lựa chọn rạch ròi - thép hay cá - nhưng nó
có xu hướng trở nên m p mờ trong những
tình hu ng thực tế. Theo sự hiểu biết ít ỏi
của tôi về nghề cá thông qua công trình
nghiên cứu của vợ tôi Edyta Roszko ngư
d n Việt Nam không nhất thiết l những
người chuộng truyền th ng, phản cảm với
những tiện nghi của phát triển. Bởi vì cá
chưa bao giờ l nhu yếu phẩm (như gạo hay
sắn) bán buôn l cần thiết để mưu sinh vì
thế d n đánh bắt cá chuyên nghiệp phải nhờ
v o buôn bán v thị trường. Phụ nữ thường
đi đến các th nh ph xa để bán cá v hải sản
do đ n ông th n thích đem về. Ng y nay
ngư d n áp dụng những công nghệ mới như
GPS lưới gi ng vét kỹ thu t đông lạnh để
đánh bắt xa bờ hơn t ng khả n ng đánh bắt
v cạnh tranh với các ngư d n khác trên thị
trường hải sản của các nước trong khu vực
hơn l ở trong nước. Trong các hộ gia đình
người ta khao khát một nếp s ng được
quảng bá l hiện đại v nhiều hộ khuyến
khích con cái từ bỏ nghề cá theo đuổi việc
học để kiếm việc trên bờ (Roszko 2016).
Trong khi tính nhị ph n chủ thể - khách
thể có thể không l m sáng tỏ gì nhiều trong
cái phương trình n y sự ph n biệt giữa phát
triển qua theo phương thức nội động từ v
ngoại động từ có vẻ như thích hợp hơn trong
cả hai trường hợp. Ở khu S i Gòn Mới,
những người bị tước đoạt [nh đất] v thông
qua động thái bị tước đoạt n y đã bị loại ra
khỏi tính hiện đại đô thị, buộc phải dọn đi.
Trong khi họ có cùng ý tưởng thẩm mỹ hiện
đại với những nh qui hoạch đô thị nhưng
họ không được tham khảo ý kiến không
được đền bù thỏa đáng hay được dự phần
v o phát triển một cách có ý nghĩa. Họ bị áp
đặt một viễn kiến nhất định về phát triển bởi
các tác nh n bên ngo i - những người m tôi
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 672
gọi l chủ thể phát triển - v vô hình trung
biến họ th nh khách thể của phát triển theo
phương thức ngoại động từ m thực ra có
thể l họ mong mu n được trở th nh chủ thể
của sự phát triển của chính họ hay ít ra
được dự phần v o sự phát triển đã áp đặt lên
họ. Cũng v y ngư d n ở H Tĩnh v rộng ra
các tỉnh khác ở bờ biển miền Trung không
được tham vấn về phát triển ngay trên mảnh
đất nơi họ sinh s ng dưới hình thức nh
máy thép với đầu tư nước ngo i với mục
đích mang lại hiện đại cho vùng nghèo n y
ở Việt Nam; th m chí có người có thể mơ
rằng điều n y sẽ mang lại việc l m trên bờ
cho con cái họ. Họ có biết đ u phát triển
theo phương thức ngoại động từ n y thực ra
l tước đoạt sinh kế của họ - qua sự lựa chọn
trắng đen giữa cá v thép. Có thể họ đã
mong mu n trở th nh chủ thể của phát triển,
nhưng họ lại trở th nh khách thể v thực tế
l chướng ngại cho sự phát triển n y.
Điều tôi mu n gợi ý với hai mẩu chuyện
n y l phát triển theo phương thức ngoại
động từ dựa trên sự tách biệt triệt để - hay
th m chí l sự ph n chia thực tế dưới hình
thức tước đoạt - giữa chủ thể v khách thể
của phát triển thường không th nh công cho
dù ý định rất t t đẹp không chỉ ở Việt Nam
m trên khắp thế giới. Các dự án phát triển
theo phương thức ngoại động từ như thế
thường thất bại bởi lý do đơn giản l chúng
xem người d n hay khu vực được phát triển
như những khách thể hơn l chủ thể không
đếm xỉa đến mong ước, sợ hãi lo u v
quyền lợi của họ - tóm lại l bỏ qua tính chủ
thể của họ. Người ta có thể l p lu n rằng
phát triển theo phương thức nội động từ ở đó
con người l chủ thể ho n to n của sự phát
triển của chính mình l một lý tưởng hoang
tưởng v nguy hiểm, dễ dẫn đến to n trị,
hợp nhất chủ thể v khách thể như trường
hợp ở Campuchia (Khmer Đỏ) trong cách
mạng v n hóa ở Trung Qu c, hay th m chí ở
Đức qu c xã - những dự án m người d n bị
ép buộc bằng bạo lực phải tham gia v buộc
lòng đồng thu n với phát triển được ban
h nh nh n danh chính họ. Mặt khác người ta
có thể l p lu n rằng việc không ph n biệt
chủ thể v khách thể của phát triển, giữa
phát triển theo phương thức nội động từ v
ngoại động từ l m cho việc l p quy hoạch
chuyên nghiệp trở nên bất khả thi, kể cả quy
hoạch đô thị ở th nh ph Hồ Chí Minh hay
quy hoạch các dự án công nghiệp ở H Tĩnh.
Cả hai đều l l p lu n có cơ sở có nghĩa l
xóa đi sự khác biệt giữa chủ thể v khách
thể của phát triển v sự khác biệt giữa phát
triển theo phương thức nội động từ v ngoại
động từ l việc không thể v nói cho cùng
đó l điều không thể chấp nh n về mặt chính
trị. Tuy nhiên sự tách biệt ho n to n giữa
các phạm trù n y - chủ thể v khách thể,
trong phương trình phát triển theo phương
thức ngoại động từ - trong thực h nh sẽ đưa
đến sự ph n cấp thứ b c trong d n chúng
sớm muộn gì chắc sẽ g y ra những vấn đề
không thể vượt qua về tính cách hợp pháp
chính trị, bởi vì nó c n cứ trên sự tước
quyền một s quần chúng đáng kể.
Các xu hướng chính trị gần đ y trên thế
giới, từ việc Anh rút khỏi Liên hiệp ch u Âu
(Brexit) đến Hoa Kỳ dưới thời Trump,
thường được giải thích trên nhiều phương
tiện truyền thông phương Bắc như l một sự
“phản tự do hóa” (illiberalization) - kết quả
của sự trỗi d y của nền chính trị d n túy.
Tuy nhiên chủ nghĩa d n túy bắt nguồn từ
việc phê phán sự chủ đạo kỹ trị v dựa trên
th nh tích của giới tinh hoa đã áp dụng các
chính sách m không đếm xỉa đến h u quả
đ i với một s tầng lớp d n chúng m theo
các quy tắc của hệ th ng cai trị theo t i n ng
của chủ nghĩa t n tự do l họ phải tự gánh
lấy trách nhiệm trong những tình thế khó
kh n hoặc “trách nhiệm hóa"
(“responsibilized”). Tại nhiều qu c gia ở
phương Bắc các chính sách t n tự do không
chỉ được các chính phủ cánh hữu tiếp nh n
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 673
v thi h nh m ngay cả các chính phủ bao
gồm các đảng lao động hoặc các nh lãnh
đạo cánh tả khác như Bill Clinton Barack
Obama, Tony Blair, Gerhard Schroeder,
François Hollande - những người được coi
l đã phản bội tầng lớp lao động nay trở
th nh một tầng lớp bấp bênh không có công
n việc l m v nh cửa ổn định
(“precariat”). Chính sự phẫn nộ của những
người có sinh kế bị hi sinh v cuộc s ng bị
giới tinh hoa chính trị bỏ rơi đã khơi ngòi
cho những cuộc phản kháng d n túy đặc
biệt l v o thời điểm trì trệ hoặc suy thoái
kinh tế cùng với sự ph n hóa kinh tế xã hội
ng y c ng gia t ng (Piketty 2014). Các
chính trị gia d n túy lúc n o cũng hứa hẹn
"lấy lại quyền lực" hoặc "lấy lại chủ quyền"
từ tay giới tinh hoa chính trị v kinh tế v n
được cho l bất khả x m phạm - những
người được coi l chủ thể của phát triển to n
cầu v địa phương. Nói cách khác chính trị
d n túy hứa hẹn biến các khách thể phát
triển th nh các chủ thể phát triển; hoặc phục
hồi họ v o vị trí chủ thể của phát triển, dựa
trên một viễn cảnh ho i cổ, lạc quan v
thường sai lầm về quá khứ, khi m con
người l chủ của đất đai sinh kế v định
mệnh của họ.
Nhiều nước ở phương Nam hoặc rộng ra
l ở ngo i "phương T y" đang kinh qua
những xu hướng tương tự nghiêng về một
nền chính trị d n túy phi tự do (illiberal),
Người ta có thể nghĩ đến Nga, Trung Qu c
v Ấn Độ cũng như nhiều qu c gia ở T y Á
v Bắc Phi - còn được gọi l Trung Đông.
Trong khi sự thất vọng về nền chính trị tự do
vì những h u quả kinh tế xã hội của nó có
thể áp dụng trong một s trường hợp ví dụ
như ở Nga; trong những trường hợp khác
lời kêu gọi "lấy lại quyền lực" không nhắm
tới tầng lớp tinh hoa kinh tế m để ch ng lại
"phương T y". Trong các diễn ngôn d n túy
phương T y được coi l áp đặt các giá trị
riêng của họ - chẳng hạn như Nh n quyền,
các hình thức của nền d n chủ bầu cử v các
chính sách kinh tế của họ qua các hiệp định
thương mại điều chỉnh cơ cấu v viện trợ
phát triển trên to n cầu; các giá trị v chính
sách như v y được coi l l m suy yếu sức
mạnh v chủ quyền của qu c gia. Ở nhiều
nước đề c p ở trên - Nga, Trung Qu c, Ấn
Độ v Trung Đông - nền chính trị d n túy
như thế được cổ vũ bởi cái gọi l "sự sỉ nhục
qu c gia" dưới sự th ng trị của chế độ thực
d n đế qu c v t n thực d n trong quá khứ;
điều n y phải được khắc phục trong hiện tại
bằng cách "lấy lại quyền lực", "lấy lại chủ
quyền" v đặc biệt l trong trường hợp của
Nga v Trung Qu c "phục hồi cho đất nước
vị thế chính đáng của nó trên thế giới" (Việt
Nam hiện nay l nước bị ảnh hưởng bởi sự
khẳng định của Trung qu c về cái gọi l
“các quyền lịch sử” ở Biển Nam Trung Hoa/
Đông). Tuy nhiên gi ng như ở phương Bắc,
chính trị d n túy ở phương Nam cũng dùng
lu n điệu cường độ, hứa hẹn phục hồi khách
thể phát triển t p thể v o vị thế chính đáng
của nó l chủ thể phát triển nhưng đường
rạn nứt (fault line) ở đ y l qu c gia hơn l
một giai cấp (bị) ph n biệt theo chủng tộc
(racialized).
5. Đoạn kết: Các nguồn lực văn hóa cho
sự phát triển bền vững?
Hội thảo ”Các nguồn lực v n hóa cho
phát triển bền vững ở Việt Nam: Lý lu n
thực tiễn v chính sách”7 kêu gọi những b i
viết tìm hiểu các nguồn lực v n hóa hiện có
cho sự phát triển bền vững nhưng không nói
rõ nguồn lực v n hóa được hiểu như thế n o.
Theo từ điển Oxford nguồn lực l “v n hay
nguồn cung cấp tiền v t liệu nh n công v
các t i sản khác m một người hay một tổ
7
Hội thảo được tổ chức v o ng y 13-14 tháng 12 n m
2016 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội v Nh n v n
Đại học Qu c gia H Nội
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 674
chức có thể rút ra để sử dụng một cách hiệu
quả” với những từ đồng nghĩa được liệt kê
như sau: của cải quỹ thịnh vượng tiền
gi u có v n túi s u (deep pocket). Định
nghĩa về nguồn lực n y đặt nó ngay v o một
lô gích thị trường tư bản khiến cho m i liên
hệ của nó với tính từ “v n hóa” trở nên rất
thú vị bởi vì v n hóa dưới cái nhìn nh n học
liên quan tới nhiều tổ hợp người8. Nếu
chúng ta định nghĩa v n hoá không phải l
một t p hợp các nh n t khép lại v c kết
với nhau như Thomas Hylland Eriksen từng
mô tả tuyệt vời với thu t ngữ "các c đảo
v n hoá" (1993); cũng không phải l một t p
hợp các thói quen hoặc truyền th ng truyền
từ thế hệ n y sang thế hệ khác; m thay v o
đó l một quá trình m p mờ trong một lĩnh
vực có nhiều tranh cãi - điển hình l chính
trị bản sắc mang tính thù nghịch chủ nghĩa
d n túy v chủ nghĩa cực đoan cũng như sự
thay đổi thế hệ - v y thì các nguồn lực v n
hoá không thể đơn giản l những nét đặc
thù truyền th ng t i sản - tóm lại: "những
thứ" có thể truyền từ thế hệ n y sang thế hệ
khác. Trong phạm vi m v n hoá l một quá
trình hiện th n có nghĩa l nó kế thừa những
t p hợp chủ thể con người thì thu t ngữ
nguồn lực v n hóa có thể h m ý việc công
cụ hóa chủ thể con người như l "v t liệu
nh n công v các t i sản khác có thể lấy ra
từ một người hoặc một tổ chức để hoạt động
có hiệu quả" v do đó biến chủ thể con
người th nh khách thể. Ngược lại tôi cho
rằng cách duy nhất có ý nghĩa v tôn trọng
khi đề c p đến nguồn lực v n hoá l nghĩ
đến nguồn lực ấy như chủ thể v n hoá hiện
th n tức l chủ thể con người.
Như đã trình b y ở trên về sự ph n biệt
rõ rệt giữa phát triển theo phương thức nội
động từ v ngoại động từ v giữa chủ thể v
khách thể của phát triển tôi cho rằng kêu
8
Thảo lu n đầy đủ hơn về v n hóa nguồn lực v n hóa v
phát triển v n hóa xem Yúdice (2003) and Yúdice
(2009).
gọi việc đưa nguồn lực v n hoá v o kế
hoạch phát triển bền vững l chưa đủ vì nó
có thể vô hình trung biến chủ thể v n hoá
th nh khách thể v n hoá - tức l trở th nh t i
sản hoặc v t liệu có thể sử dụng để đạt mục
tiêu hoặc mục đích nhất định. Thay vì được
công cụ hóa như l khách thể của phát triển
nguồn lực v n hoá cần được tiếp c n nghiêm
túc như l chủ thể v n hoá v do đó l chủ
thể của phát triển (bền vững). Tôi tin rằng
đ y cũng l một quan điểm nh n học thích
đáng về v n hoá con người v phát triển
bền vững ví dụ khi so sánh với một ng nh
khác đã lý thuyết hóa phát triển từ một góc
độ khác như ng nh kinh tế học phát triển đã
c phổ quát hóa một s ý tưởng về hiệu quả
của thị trường nhìn dưới góc độ lịch sử v
v n hoá. Những ý tưởng v thực h nh n y
được áp đặt bởi các chủ thể phát triển v
được các khách thể phát triển tiếp nh n với
mong mu n trở th nh các chủ thể hiện đại
trong một phương trình phát triển ph n chia
thứ b c được thần thánh hóa như một nghĩa
vụ cứu cánh có hơi hướng tôn giáo bởi một
loạt nh n v t (nổi tiếng) trong lĩnh vực phát
triển. Đi ngược với tính phổ c p hóa theo
thứ b c của kinh tế phát triển nh n học có
xu hướng địa phương hóa - ngay cả khi các
chủ thể nghiên cứu của nó đang di chuyển
hay ở khắp nơi - v t p trung v o trải
nghiệm của con người trong hệ th ng kinh
tế chính trị chủ đạo: người thắng kẻ thua
người s ng sót kẻ nạn nh n. Nhưng theo
Joel Robbins trong cu n "Beyond the
suffering subject/Bên kia chủ thể đau khổ"
(2013) một nền nh n học t t cũng phác thảo
các lựa chọn khác ngo i chính sách phát
triển chủ đạo - dưới cả hai dạng nội động từ
v ngoại động từ; những phương án thay thế
n y có thể được trải nghiệm ghi nhớ hoặc
tưởng tượng. Nói cách khác kinh tế học chủ
đạo giải thích sự phát triển như l một sự
tiếp tục có hiệu quả hơn của chủ nghĩa tư
bản (ví dụ qua "tiếp c n thị trường") trong
khi nh n học - đặc biệt l nh n học phê
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 675
phán - có xu hướng khảo sát các phong tr o
đi ngược lại phát triển tư bản chủ đạo bằng
cách t p trung v o những nạn nh n của sự
phát triển ấy - nạn nh n m nay đang nổi
d y trong nhiều nền d n chủ bầu cử ở
phương Bắc v phương Nam.
Với cái nhìn tổng thể lĩnh vực phát triển
như tôi vừa l m các chủ thể phát triển có
thể được hiểu theo nhiều cách. Các chủ thể
phát triển có thể được hiểu như l những
lĩnh vực quan trọng nơi đó diễn ra các thực
h nh phát triển; hoặc l các chủ đề (topics)
cần được nghiên cứu để tìm hiểu phát triển
như một quá trình ngoại động từ. Nhưng chủ
thể phát triển cũng có thể được hiểu l
những người v tổ chức đang “l m công
việc phát triển” người khác v những
“người khác” n y trở th nh khách thể của
phát triển (ví dụ: nhóm mục tiêu người
nghèo nhóm lạc h u vùng s u vùng xa).
Tình thế khó kh n của các khách thể phát
triển n y l lý do c n bản cho phát triển
nhưng chúng cùng lúc được công cụ hóa
th nh các khách thể phát triển9. L m thế n o
để các nhóm/ hạng người hiện nay l khách
thể phát triển trở th nh chủ thể phát triển
bền vững của chính họ? Từ điểm nhìn thu n
lợi của các nghiên cứu phát triển (to n cầu
hoặc qu c tế) ở phương Bắc sự phát triển
diễn ra ở phương Nam như v y bản chất
của phát triển l theo phương thức ngoại
động từ với chủ thể phát triển ở phương
Bắc v khách thể phát triển ở phương Nam.
Trong hệ th ng to n cầu hiện nay "các
nhóm mục tiêu" phát triển có thể trở th nh
chủ thể của phát triển nếu họ ho nh p
những mong mu n của mình v o nền kinh tế
chính trị qu c gia v to n cầu v tu n thủ
các yêu cầu của nó. Điều n y theo cái quá
trình m động cơ thúc đẩy l ước mong phát
triển ước mong được tham gia ước mong
9
Thảo lu n đầy đủ về sự khớp n i các chủ thể trong một
lĩnh vực can thiệp khác đó l chủ nghĩa thực d n xem
Các chủ thể thực dân của Pels and Salemink (1999).
sở hữu ước mong trải nghiệm như Tania Li
(2014) Holly High (2014) v cá nh n tôi
(2015b) từng mô tả. Nhưng kết quả thường
không tương xứng với mong đợi vì việc g i
v o thị trường địa phương v to n cầu
thường l m tước quyền hơn l trao quyền
v g y ra h u quả khó lường. Do đó việc
tìm kiếm vẫn còn để ngỏ cho những chọn
lựa phát triển khác ngo i nền kinh tế chính
trị chủ đạo trong đó khách thể phát triển có
thể trở th nh chủ thể phát triển của chính họ.
Điều đó chắc l l m cho các tác nh n phát
triển v giới học giả (kể cả các nh nh n
học) chủ thể phát triển người khác hơn l
chính họ khiêm t n.
* Tác giả tr n trọng cảm ơn TS. Lê Thị
Đan Dung đã dịch b i viết từ tiếng Anh sang
tiếng Việt v nh nghiên cứu Cao Xu n Tứ
đã hiệu đính bản dịch của b i viết.
Tài liệu trích dẫn
Basu, Paul, and Ferdinand de Jong. 2016. Utopian
archves, decolonial affordances. Introduction to
special issue. Social
Anthropology/Anthropologie Sociale 24(1): 5-
19.
Berenson, Edward and Eva Giloi, eds. (2010),
Constructing Charisma: Celebrity, Fame, and
Power in Nineteenth-Century Europe. Oxford:
Berghahn
Biccum, April. 2011. Marketing Development:
Celebrity politics and the „new‟ development
advocacy, Third World Quarterly 32(7): 1331-
1346.
Chambers, Robert. 1983. Rural Development:
Putting the last first. Harlow: Longman.
Durkheim Émile. Or. 1912. Les Formes
Élémentaires De La Vie Religieuse: Le système
totémique en Australie.
emile/formes_vie_religieuse/formes_elementai
res_1.pdf
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 676
Eriksen, Thomas Hylland. 1993. In which sense
do cultural islands exist? Social Anthropology
1 (1b): 133–47.
Ferguson, James. 1994. The Anti-Politics
Machine: “Development", Depoliticization,
and Bureaucratic Power in Lesotho.
Minneapolis: University of Minnesota Press.
Gabay Clive. 2011. Consenting to „Heaven‟? The
Millennium Development Goals, neo-liberal
governance and global civil society in Malawi,
Globalizations 8(4): 487-501.
Gabay, Clive. 2012. The Millennium
Development Goals and Ambitious
Developmental Engineering. Third World
Quarterly 33 (7): 1249–1265.
Gray, John. 1998. False Dawn: The delusions of
global capitalism. London: Granta Books.
Gray, John. 2007. Black Mass: Apocalyptic
religion and the death of utopia. London:
Penguin Books.
Harms, Erik. 2017. Luxury and Rubble: Civility
and Dispossession in the New Saigon.
Berkeley: University of California Press.
uminos.20/.
Hastrup, Kirsten, ed. 2001. Legal Cultures and
Human Rights: The challenge of diversity. The
Hague etc.: Kluwer Law International.
High, Holly. 2014. Fields of desire: Poverty and
policy in Laos. Honolulu: University of
Hawai„i Press.
Hồ Chí Minh. 1969. Toàn văn Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, 10 May 1969 [Complete
Testament of Ha Chi Minh].
eID=8&ItemID=478.
Ho Chi Minh (1969). The Last Testament of Ho
Chi Minh. The Antioch Review 29(4): 497-499.
Ignatieff, Michael. 2001. Human Rights as
Politics and Idolatry. Princeton, N.J.: Princeton
University Press.
Kapoor, Ilan (2013), Celebrity Humanitarianism:
The ideology of global charity. London:
Routledge.
Koselleck, Reinhart. 2002. The Practice of
Conceptual History: Timing history, spacing
concepts. Stanford: Stanford University Press.
Koselleck, Reinhart. 2004. Futures Past : On the
Semantics of Historical Time. New York, NY,
USA: Columbia University Press.
Latour, Bruno. 1993. We Have Never Been
Modern. Cambridge MA: Harvard University
Press.
Li, Tania Murray. 2007. The Will to Improve:
Governmentality, Development, and the
Practice of Politics. Durham NC: Duke
University Press.
Li, Tania Murray. 2014. Land’s End: Capitalist
relations on an indigenous frontier. Durham
NC: Duke University Press.
Mosse, David. 2005. Cultivating Development: An
Ethnography of Aid Policy and Practice.
London: Pluto Press.
Pels, Peter and Oscar Salemink. 1999.
Introduction: Locating the Colonial Subjects of
Anthropology. In: Peter Pels & Oscar Salemink
(eds.), Colonial Subjects: Essays on the
Practical History of Anthropology. Ann
Arbor: University of Michigan Press, pp. 1-52.
Piketty, Thomas. 2014. Capital in the 21st
Century. Cambridge MA: Belknap Press.
Richey, Lisa Ann & Stefano Ponte (2008), Better
(Red)™ than Dead? Celebrities consumption
and international aid, Third World Quarterly
29(4): 711-729.
Rist, Gibert. 2002. The History of Development:
From Western Origins to Global Faith,
London, Zed Books.
Robbins, Joel. 2013. Beyond the suffering subject:
toward an anthropology of the good. Journal of
the Royal Anthropological Institute (N.S.) 19:
447-462.
Roszko, Edyta. 2016. Geographies of connection
and disconnection: Narratives of seafaring in
Ly Son. In: Philip Taylor (ed.), Connected and
Disconnected in Vietnam: Remaking Social
Relationships in a Post-socialist Nation.
Canberra: Australian National University
Press, pp. 347-377 (open access
series/connected-and-disconnectedviet-
nam/download).
Salemink, Oscar. 2004. Development cooperation
as quasi-religious conversion. In: Oscar
Salemink, Anton van Harskamp, Ananta
Kumar Giri (eds.), The Development of
Oscar Salemink / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 3, 6 (2017) 663-677 677
Religion, the Religion of Development. Delft:
Eburon, pp. 121-130.
Salemink, Oscar. 2013 “The Political Economy of
Good Intentions: The celebritization of
development, charismatic gifts, and the
sacralization of the MDGs.” Paper for the
conference “Religion and the Politics of
Development: Priests, Potentates and
“Progress” ” Asia Research Institute, National
University of Singapore 28 – 29 August 2013.
Salemink, Oscar. 2015a. The purification,
sacralisation and instrumentalisation of
development. In: Robin Bush, Philip Fountain,
Michael Feener (eds.), Religion and the
Politics of Development. Basingstoke: Palgrave
MacMillan, pp. 35-60.
Salemink, Oscar. 2015b. Revolutionary and
Christian Ecumenes and Desire for Modernity
in the Vietnamese Highlands. The Asia Pacific
Journal of Anthropology 16(4): 388-409.
Salemink, Oscar. 2017. Development Subjects and
Intransitive and Transitive Forms of
Development. In: Chayan Vaddhanaphuti (ed.),
Rethinking Development Studies in Southeast
Asia: State of Knowledge and Challenges.
Chiang Mai: Regional Center for Social
Science and Sustainable Development (RCSD),
pp. 16-27. Online
load.php?session=c414u2x214b2649413a4y24
4x224r29424o3a4p4m5r5v5t5i4j4d48293d4v4
54p5x5w5l454l4k4h2m5s5l4h20684j534l4l5c4
(accessed September 7, 2017).
Salemink, Oscar. Forthcoming. Remembrance,
commemoration, and revolutionary
apparitions: Ritualizing connections with the
past and the future in Vietnam. In: Jonathan
London (ed.). The Routledge Handbook on
Vietnam. London and New York: Routledge.
Taylor, Philip. 2001. Fragments of the Present:
earching for Modernity in Vietnam’s outh.
Honolulu: University of Hawaii Press.
Turner, Graeme. 2004. Understanding Celebrity.
London: Sage.
Weber, Max. 1922. Wirtschaft and Gesellschaft:
Grundriss der verstehende Soziologie (2 vols.).
Tübingen: Mohr. Online
(accessed August 5, 2013).
Yúdice George. 2003. The Expediency of
Culture: Uses of Culture in the Global Era.
Durham: Duke University Press.
Yúdice George. 2009. Cultural Diversity and
Cultural Rights. Hispanic Issues On Line 5(1):
110-137. https://cla.umn.edu/hispanic-
issues/online.
Tạp chí Khoa học Xã hội v Nh n v n T p 3 S 6 (2017) 663-677
663
Development Subjects, Development Objects, and Transitive
and Intransitive Forms of Development
Oscar Salemink
Abstract: Regardless of whether cultural resources are conceptualized as objectified in
terms of “culture” or as embodied in human beings cultural resources are arguably located in
people as subjects of culture. In my view, this implies that a vision of sustainable development
that is predicated on cultural resources should place the subjects of culture first, to the point
that these subjects of culture are identical with the subjects of development. This idea is rooted
in a distinction (in the English language) between the verb “to develop” as transitive and as
intransitive. Whereas in past linguistic practice, “to develop” was intransitive-i.e. had no
grammatical object-with the post-World War II emergence of the modern notion of
development as we know it now “to develop” became transitive meaning that it acquired an
object. In other words, it became possible to develop something or somebody (singular or
plural), resulting in a radical separation between the subjects of development (usually
development donors, Global North, development organizations, states) and the objects of
development (usually but not exhaustively all sorts of “target groups” like the poor ethnic
and other minorities, women and children, farmers, but also entire states in the Global South),
resulting in the instrumentalization of the latter in the development process. From this point of
departure, I offer a brief overview of past and present development practice and discourse with
partial reference to Vietnam, and offer some suggestions how development objects could turn
into development subjects by viewing them as embodied cultural resources-hence as cultural
agents in their own right-and as subjects of their own development.
Keywords: Sustainable development; transitive development; intransitive development;
development subjects; development objects; cultural resources.
View publication stats
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_chu_the_phat_trien_khach_the_phat_trien_va_nhung_hinh_thuc_phat_trien_theo_nghia_ngoai_dong_tu_v.pdf