Dù chính quyền Pháp đưa ra quyết định như
thế nào, thì tình hình ở Đông Dương vẫn đúng
như đánh giá của P.Brocheux và D.Hémery:
“Thảm bại Cao Bằng, tiếp theo là việc rút
chạy khỏi Lạng Sơn tháng 10 năm 1950 đã
tạo nên sự sợ hãi và hỗn loạn trong quân đội
Pháp Sức mạnh và sức xung kích của quân
đội nhân dân Việt Nam đã làm cho Bộ chỉ
huy Pháp biết rằng đã qua một thời kỳ khác
của cuộc tranh chấp” [4, 454].
Chiến thắng Biên giới đánh dấu bước trưởng
thành vượt bậc của quân đội ta cả về lực
lượng lẫn nghệ thuật quân sự, đồng thời là
một chiến thắng vang dội bậc nhất trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. “Sau 29 ngày đêm
chiến đấu, ta đã tiêu diệt và bắt sống 8300 tên
địch, gồm 8 tiểu đoàn Âu – Phi và 2 tiểu đoàn
ngụy, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện
chiến tranh, xóa sạch Liên khu Biên giới
Đông Bắc của địch”.
“Có thể nói rằng trong suốt 30 năm chiến
tranh chống Pháp và chống Mỹ, hiếm có một
chiến dịch đánh tiêu diệt hay và gọn quân
địch trong vận động như trận Biên giới năm
1950” [1, 166].
Chiến thắng Biên giới 1950 đã mở ra một cục
diện mới cho cuộc kháng chiến. ta giành được
quyền chủ động chiến lược trên chiến trường
chính, khai thông biên giới, phá vỡ thế bị bao
vây, cô lập cả trong lẫn ngoài, củng cố và mở
rộng căn cứ địa Việt Bắc. Thắng lợi này đã
tạo điều kiện thuận lợi để ta phát triển lực
lượng về mọi mặt, đẩy mạnh kháng chiến tới
thắng lợi
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biên giới 1950 – bước ngoặt của cuộc chiến tranh Đông Dương (1945 - 1954) - Hoàng Văn Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
35
BIÊN GIỚI 1950 – BƢỚC NGOẶT CỦA CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƢƠNG
(1945 - 1954)
Hoàng Văn Tuấn*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái
Nguyên
TÓM TẮT
Sáng ngày 16.9.1950, bộ đội Việt Nam nổ súng tấn công cứ điểm Đông Khê (Cao Bằng), mở đầu
chiến dịch tấn công quân Pháp ở biên giới Đông Bắc. Sau gần một tháng chiến đấu quân ta đã đập
tan hoàn toàn hệ thống phòng ngự của Pháp ở biên giới Đông Bắc. Từ đây, căn cứ kháng chiến của
ta đã được mở rộng và nối liền với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến thắng của
quân ta trong chiến dịch tấn công địch ở biên giới thu đông 1950 đã mở ra một thời kì mới trong
cuộc chiến tranh. Đây được coi là một trong những thất bại lớn nhất của quân đội Pháp trong cuộc
chiến tranh của họ ở Đông Dương.
Từ khoá: Chiến dịch Biên giới, Chiến tranh, Chiến tranh Đông Dương, Kháng chiến chống thực
dân Pháp, Việt Bắc
Âm mƣu của Pháp và chủ trƣơng của ta*
Sau thất bại trong âm mưu tiến hành cuộc đảo
chính nhằm tiêu diệt Chính phủ Việt Nam dân
chủ Cộng hòa tại Hà Nội, thực dân Pháp tiếp tục
mở cuộc hành quân lớn đánh lên căn cứ địa của
ta ở Việt Bắc, thực hiện âm mưu đánh nhanh
thắng nhanh. Cuộc tấn công lên Việt Bắc thu
đông 1947 thất bại buộc quân Pháp phải chấp
nhận tiến hành chiến tranh lâu dài. Quân Pháp đã
tăng cường càn quét, bình định vùng đô thị và
đồng bằng Bắc bộ, đồng thời thực hiện chủ
trương “khóa cửa biên giới” nhằm bao vây, cô
lập cách mạng nước ta. Chúng đã sử dụng một
lực lượng lớn, lập ra hệ thống đồn bốt dày đặc
dọc theo biên giới Đông Bắc, từ Móng Cái tới
Cao Bằng, nhằm bao vây căn cứ địa Việt Bắc và
ngăn chặn sự liên hệ của ta với bên ngoài. Pháp
lập ra Bộ chỉ huy Liên khu biên giới do đại tá
Constan đứng đầu, đặt đại bản doanh ở thị xã
Lạng Sơn. Bộ chỉ huy này chịu trách nhiệm về
hoạt động của toàn bộ các cứ điểm dọc biên giới
trải dài theo tuyến đường số 4.
Việc Pháp lập Bộ chỉ huy phân khu biên thùy và
xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc trên toàn
tuyến đường số 4 đã gây cho ta không ít khó
khăn. Lực lượng của ta còn yếu, lại hoàn toàn bị
cô lập với bên ngoài. Điều này đặt ra cho chúng
ta một yêu cầu là phải phá được sự kìm kẹp của
địch, khai thông biên giới nhằm phá thế cô lập,
*
Tel: 0989780993; Email: hoangvantuan81@gmail.com
liên lạc với phong trào cách mạng thế giới. Yêu
cầu này càng trở nên bức thiết hơn sau khi cách
mạng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc giành được thắng lợi,
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời
(1.10.1949).
Các điểm đóng quân của Pháp ở biên giới Đông
Bắc (trên đƣờng số 4)
[Nguồn: Charles – Henry de Pirey (Đặng Văn
Việt dịch),(2004), Con đường tử địa RC4 – 1950,
Nxb Đà Nẵng, tr.95]
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
36
Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến lên một bước
mới, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ của cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc, Thường vụ
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
giao cho Bộ Tổng Tư lệnh mở chiến dịch tiến
công địch ở biên giới vào mùa khô Thu Đông
1950.
Thực hiện quyết định đó, “Ngày 25.7.1950, Ban
Thường vụ Trung ương ra nghị quyết thành lập
Đảng ủy mặt trận biên giới gồm các đồng chí Võ
Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái,
Lê Liêm, Bùi Quang Tạo do đồng chí Võ
Nguyên Giáp làm Bí thư” [3, 107-108]. Trong
cuộc họp ngày 30.7.1950, Bộ Tổng Tham mưu
“dự kiến kế hoạch tác chiến sẽ lấy Cao Bằng làm
mục tiêu số 1, thứ đến Đông Khê rồi Thất Khê”
[3, 108]. Tuy nhiên, sau khi tiến hành trinh sát
nắm tình hình, ta nhận thấy Cao Bằng là một cứ
điểm khá kiên cố, quân địch bố trí rất đông. Đây
là nơi đặt Sở chỉ huy của trung đoàn lê dương thứ
3 do Charton chỉ huy và sở chỉ huy của tiểu đoàn
bộ binh Angiêri và tiểu đoàn ngụy. Bao quanh
Cao Bằng là đồi trọc cỏ gianh lúp xúp, tạo điều
kiện cho pháo binh, không quân yểm trợ. Phía
ngoài có sông Hiến và sông Bằng quây bọc lấy
thị xã khiến nó như một bán đảo nhỏ. Muốn vào
thị xã phải qua hai chiếc cầu, địch đặt bốt gác
kiểm soát gắt gao. Điều này khiến quân ta tiếp
cận rất khó khăn. Vì vậy, “Sau khi xem xét và
cân nhắc kỹ, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định
chuyển hướng xuống đánh Đông Khê, là nơi so
với Cao Bằng địch yếu hơn, vừa đảm bảo chắc
thắng và cô lập được Cao Bằng, vừa vẫn tạo
được điều kiện để đánh viện binh địch kéo lên”
[1, 164]. Phương châm chiến dịch là “đánh điểm,
diệt viện”.
Cuộc chiến ở biên giới Đông Bắc
6 giờ sáng ngày 16.9.1950, trung đoàn 174, được
bổ sung thêm tiểu đoàn 246 (Liên khu Việt Bắc)
và tiểu đoàn 11 của Đại đoàn 308, nổ súng tiến
công cứ điểm Đông Khê. Sau 54 giờ chiến đấu
hết sức gay go, quyết liệt, “toàn bộ cụm cứ điểm
con nhím Đông Khê bị tiêu diệt vào lúc 10 giờ
ngày 18.9” [3, 120]. Trận chiến ở Đông Khê, ta
đã giành thắng lợi hoàn toàn. Hầu hết quân Pháp
đóng giữ ở đây bị tiêu diệt, chỉ có một số ít lính
lê dương sống sót chạy về Thất Khê, trong đó có
viên đại úy Jaugeon - chỉ huy phó đồn Đông Khê
- “người sĩ quan độc nhất, thoát nạn và kiệt sức,
chạy về đến đồn Bông Lau” sau đó 10 ngày [5,
108].
Bố trí phòng ngự của quân Pháp ở Đông Khê
[Nguồn: Colonel Marcel Le Page, Cao Bang la
tragique épopée de la colonne Le Page, Nouvelle
Edition Latines, Paris, 1981, tr.65]
Trước nguy cơ lớn đang đe dọa và từ trước đã có
ý định rút Cao Bằng (Từ năm 1949, trong chuyến
Thanh tra quân sự tại Đông Dương, tướng Reve
đã chủ trương rút quân Pháp khỏi Cao Bằng.
Song, kế hoạch này gặp phải nhiều sự phản đối
của một số tướng lĩnh Pháp ở Đông Dương, nhất
là tướng Alexandri. Mặc dù vậy, trong cuộc họp
ngày 2.9.1050, Cao ủy Pignon và Tổng chỉ huy
Carpentier (Được bổ nhiệm thay tướng Blaizot từ
tháng 9.1949) vẫn quyết định rút khỏi Cao Bằng.
Ngày 16.9.1950, Carpentier ký lệnh rút Cao
Bằng, đúng vào ngày quân ta bắt đầu tấn công
Đông Khê), nay mất Đông Khê, Bộ chỉ huy Pháp
quyết định rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4.
Ngày 18.9.1950, Tổng tư lệnh Carpentier gửi cho
đại tá Constan mệnh lệnh rút khỏi Cao Bằng. Chỉ
thị nêu rõ, việc rút khỏi Cao Bằng phải được tiến
hành hết sức khẩn trương (dù thời tiết xấu, mưa
nhiều, đường ngập lụt), vì nhất định đối phương
sẽ truy kích [2, 235].
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
37
Ngày 24.9.1950, tướng Alexandri đã bay lên Cao
Bằng và phổ biến cho Charton biết kế hoạch rút
khỏi Cao Bằng mang tên “Thérèse” (Tên Thánh,
rơi vào ngày 3.10.1950, ngày quân Pháp ở Cao
Bằng bắt đầu cuộc triệt thoái).
Ngày 29.9.1950, Constan gửi cho Le Page mật
lệnh No ZF/879/3S, yêu cầu Le Page chỉ huy
Binh đoàn Bayard sẽ xuất phát từ Thất Khê ngày
1.10 để bắt đầu cuộc hành binh mang tên Tiznit.
Sứ mệnh của cuộc hành binh Tiznit được nêu rõ
trong mệnh lệnh ngày 30.9 là chiếm lại Đông
Khê. Để thực hiện mục tiêu này, theo mệnh lệnh,
“binh đoàn cần: duy trì sự chiếm giữ một vài
điểm quan trọng trên đường số 4 giữa Thất Khê
và Đông Khê để tạo điều kiện dễ dàng cho sự rút
lui về sau; đảm bảo đủ an toàn xung quanh vị trí
để cho phép những sự rút lui và những liên hệ
với không quân kể cả việc thả dù; mặt khác, sẵn
sàng thực hiện không giới hạn những nhiệm vụ
sẽ được đưa ra bằng những mệnh lệnh riêng. Lực
lượng tham gia bao gồm: tiểu đoàn 1 Tabor (1er
Tabor), tiểu đoàn 11 Tabor (11e Tabor), Tiểu
đoàn 8 RTM và tiểu đoàn lính địa phương (quân
ngụy)” [8, 126-127].
13 giờ ngày 1.10.1950, binh đoàn Bayard xuất
phát từ Thất Khê tiến theo đường số 4 lên hướng
Đông Khê.
Trong ngày 1.10, một cuộc hành quân khác nằm
trong kế hoạch Thérèse - cuộc hành binh Phoque
(Hải Cẩu) cũng được quân Pháp tiến hành. 5 tiểu
đoàn bộ binh và dù, một cụm pháo binh, một số
đơn vị công binh chia làm 3 hướng (đường số 3,
dọc theo sông Cầu và bằng đường hàng không)
tiến lên chiếm thị xã Thái Nguyên. Bộ chỉ huy
Pháp hy vọng Phoque sẽ đỡ đòn được cho quân
Pháp đang lâm vào thế rất hiểm nghèo trên mặt
trận Đông Bắc. Sức ép của đối phương trên
đường 4 sẽ giảm, cánh quân Cao Bằng sẽ rút
chạy an toàn. Tuy nhiên, cuộc hành quân này đã
không thực hiện được mục tiêu đề ra. Sau 10
ngày bị “rơi vào chỗ trống” và mất 500 quân,
ngày 10.10 quân Pháp phải rút khỏi Thái
Nguyên để lo tăng cường các trận địa phòng
ngự, ngăn chặn đối phương tiến về đồng bằng.
Ở Cao Bằng, để đánh lừa đối phương và giúp cho
cuộc triệt thoái có thể thành công, Bộ chỉ huy
Pháp đã đưa tiểu đoàn 3 Tabor bằng đường hàng
không từ Lạng Sơn lên tăng cường cho Cao
Bằng.
0 giờ ngày 3.10, sau khi đã phá hủy những trang
thiết bị không thể mang theo, binh đoàn Cao
Bằng bắt đầu cuộc hành binh Orage (Giông tố)
rút chạy theo đường số 4 hướng về phía Đông
Khê. Theo kế hoạch, đội quân của Charton sẽ
hợp với binh đoàn của Le Page tại kilômet 22
(vùng núi Quý Chân) sau đó rút về Thất Khê.
Về phía ta, sau khi diệt đồn Đông Khê, thực hiện
phương châm “đánh điểm diệt viện”, ta kiên trì
chờ đánh viện binh của địch. 3 trung đoàn của
đại đoàn 308 ém quân mai phục từ núi Khâu
Luông đến núi Chóc Ngà kéo dài đến vùng đèo
Lũng Phầy sẵn sàng diệt địch. Tuy nhiên, việc án
binh mai phục trong một thời gian dài đã khiến
cho lương thực cung cấp cạn kiệt, thậm chí một
bộ phận bộ đội ta “phải đi lấy gạo ở tận kho
Thủy Khẩu sát biên giới Việt - Trung” [3, 136].
Vì vậy, Bộ chỉ huy đã tính đến việc chuẩn bị
đánh xuống Thất Khê để buộc địch phải viện
binh.
Ngày 2.10, binh đoàn Bayard của Le Page tiến
lên đến Đông Khê liền bị quân ta đánh chặn. Các
chiến sĩ của ta đã chiến đấu hết sức dũng cảm,
như lời của một lính Pháp may mắn sống sót:
“Họ xông lên theo tiếng kèn xung trận với một
khí thế, một quyết tâm chiến thắng tuyệt vời” [5,
142]. Thất bại trong việc chiếm lại Đông Khê, lại
bị đánh mạnh ở Nà Kéo và Nà Pá, ngày 3.10 “Le
Page quyết định rời bỏ con đường đi dọc đỉnh núi
765 hướng đi về vùng núi đá vôi Cốc Xá, để từ
đấy tìm ra con đường mòn đi về hướng Tây, đến
những quả núi mâm xôi Quý Chân, là nơi mà đại
tá Charton hẹn làm nơi hội tụ” [5, 152]. Ngày
4.10, đoàn quân của Le Page tiến vào vùng núi
đá Cốc Xá nhưng không thể bắt được liên lạc
vô tuyến với Charton. Trong khi đó, quân đội
Việt Nam đang khép chặt vòng vây.
Về phía binh đoàn Charton, sau khi rút tới Nậm
Nàng, chúng phải phá hủy xe cộ, súng nặng, rẽ
theo đường mòn. Đội quân này bị lực lượng của
trung đoàn 209 đánh chặn và dồn vào vùng Cốc
Xá, ở điểm cao 477.
Trước tình cảnh nguy khốn của 2 binh đoàn Le
Page và Charton, Constan quyết định điều một
tiểu đoàn Âu – Phi (gồm 4 đại đội) do viên đại úy
De la Baume chỉ huy tiến lên hướng Đông Khê
với hy vọng sẽ buộc đối phương phải phân tán
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
38
binh lực, tạo điều kiện cho 2 binh đoàn Le Page
và Charton có thể về được đến Thất Khê. Song
tiểu đoàn của De la Baume đã bị đánh tan tác ở
khu vực Lũng Phầy và chỉ có một vài tên chạy
thoát về được Thất Khê vào 8.10.
Tại vùng núi Cốc Xá, 13 giờ ngày 7.10, lần đầu
tiên, Le Page gặp Charton trong tình cảnh cả hai
binh đoàn đều đã bị đánh tơi tả (Binh đoàn của
La Page lúc này chỉ còn lại khoảng 550 tên, bằng
1/4 quân số lúc xuất phát). Cuộc gặp diễn ra
trong chớp nhoáng, sau đó hai người lại phải chia
tay để chỉ huy đội quân của mình rút chạy. Chỉ ít
lâu sau đó, vào 18 giờ ngày 7.10, Charton bị bắt.
Le Page tiếp tục chỉ huy đội quân đang hoảng
loạn tháo chạy nhưng không thể nào thoát khỏi
“cái bẫy chuột” Cốc Xá. Chiều 9.10, Le Page
cùng ban tham mưu binh đoàn cũng trở thành tù
binh.
Kế hoạch “Thérese” của Pháp bị đánh bại
[Nguồn: Colonel Marcel Le Page, Cao Bang la
tragique épopée de la colonne Le Page, Nouvelle
Edition Latines, Paris, 1981, tr.146]
Như vậy, “sau 8 ngày đêm chiến đấu ác liệt và
liên tục tại khu núi Cốc Xá và khu đồi 477 ở phía
tây Đông Khê, bộ đội ta bằng chiến thuật đánh
vận động đã tiêu diệt gọn cả hai binh đoàn Le
Page và Charton (gồm 7 tiểu đoàn), đồng thời
đập tan cả một cánh quân địch từ Thất Khê lên
ứng cứu” [1, 166].
Sự hoảng loạn của quân Pháp sau thất bại ở
biên giới
Việc 2 binh đoàn Le Page và Charton bị tiêu diệt
hoàn toàn đã gây lên một sự hoảng loạn trong
toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở biên giới.
Đúng như lời của viên trung tá Forget, tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 lê dương -
lực lượng nòng cốt của Cao Bằng, tuyên bố với
các sĩ quan thuộc quyền trước ngày rút khỏi Cao
Bằng: “. cả thế giới đang để mắt nhìn vào xứ
Viễn Đông này, trong ấy đặc biệt là vùng biên
giới lại có một vị trí quan trọng. Không cần lên
giọng hùng hồn, chúng ta thừa biết rằng kết cục
của trận đánh lần này sẽ thu hút sự chú ý không
chỉ của Lạng Sơn, Hà Nội mà còn của cả Paris,
Washington, Moscou” [5, 111].
Trước thất bại của cuộc rút chạy khỏi Cao Bằng,
các đồn bốt địch trên khắp đường số 4 trở nên rối
loạn. Địch đã phải nhanh chóng rút bỏ hàng loạt
các cứ điểm: Đồng Đăng, Na Sầm, Lạng Sơn.
Thậm chí, viên “đại tá da thỏ” Constan đã phải ra
lệnh bỏ lại toàn bộ số quân trang, quân dụng “đủ
cung cấp cho 8 trung đoàn” để đảm bảo cuộc rút
chạy khỏi Lạng Sơn an toàn. Theo Georges
Fleury, “số trang thiết bị mà Việt Minh thu được
ở Lạng Sơn: 13 khẩu pháo, 125 súng cối, 940
súng máy, 1.200 súng trường máy, 4.000 súng
máy ngắn, 8.000 súng trường, 600.000 lít xăng,
10.000 quả đạn 75 và khoảng từng đó quả đạn
105 và 155” [6, 396]
Thất bại của Pháp trong chiến dịch biên giới là
rất nghiêm trọng. Các nhà nghiên cứu Pháp khi
đề cập đến thất bại này đều có những nhận xét,
đánh giá tuy ngắn gọn nhưng đầy bi quan.
Ph.Devillers cho rằng quân đội Việt Nam “đã
đấm một quả đấm đầu tiên ra trò” và việc quân
Pháp rút khỏi Cao Bằng đã trở thành một tai họa
lớn, buộc người Pháp phải bỏ luôn Lạng Sơn và
toàn bộ biên giới.
P.Brocheux và D.Hémery cho rằng, việc Bộ chỉ
huy Pháp rút bỏ các cứ điểm, mà “chính những
điều kiện và phương pháp tiến hành (nỗi hoảng
sợ, sự vội vàng hấp tấp và sự phối hợp rất kém)
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
39
của những hành động này đã biến một cuộc rút
quân thành một sự tan vỡ” [4, 454]. Bởi “sự thảm
bại trước hết là do yếu tố tinh thần Sự vang
dội của một sự kiện như thế này còn vượt rất
nhiều so với những kết quả về mặt vật chất. Cao
Bằng đối với cuộc chiến tranh Đông Dương cũng
như là Baillen trong cuộc chiến tranh Tây Ban
Nha, Valmy trong cuộc cách mạng Pháp” [4,
456]. Với những phân tích ấy, các ông đi tới
kết luận rằng thất bại của Pháp ở Điện Biên
Phủ sau này, xét về mặt quân sự, không
nghiêm trọng bằng thất bại ở Cao Bằng năm
1950 [4, 456].
Theo Bernard Fall, thất bại ở Cao Bằng là “một
thất bại trên xứ thuộc địa nặng nề nhất kể từ khi
Montcalm chết tại Quebec” [7, 33]. Còn De Pirey
khẳng định: “Với thảm hoạ Cao Bằng, mặc dù
chúng ta (quân Pháp - HVT) đã bị những tổn thất
lớn: gần 5000 người bị chết, bị thương, bị bắt
làm tù binh trên toàn bộ Đường số 4. Chúng ta
còn bị những ảnh hưởng xấu về chính trị, quân sự
ngoài tầm cỡ bình thường. [...] Trong một
khoảnh khắc, từ sau khi nước Pháp được giải
phóng, nước Pháp mới cảm nhận được sự đau
khổ phải chịu đựng, những hy sinh phải chấp
nhận và những cố gắng vô ích...” [5, 255].
Nhưng “Cao Bằng chỉ là cú đánh thử, một ngày
sắp đến sẽ có cú đánh thực” [5, 254].
Thất bại ở Biên giới đã gây ra sự hoảng loạn cho
quân Pháp không chỉ ở Đông Dương, mà cả ở
Paris. Không khí hoảng hốt bao trùm lên cơ quan
Tham mưu của Pháp ở Bắc Đông Dương. Nhiều
người phán đoán rằng Hà Nội sắp bị tiến công.
Việc bố phòng được triển khai gấp rút để bảo vệ
thành phố.
Quân số Pháp đóng tại khu vực biên giới đông
bắc và thiệt hại của quân Pháp trong cuộc tấn
công của ta ở khu vực này thu đông 1950
GỐC
Tên và quân
số
Số thiệt hại
(Chết, bị
thƣơng, tù
binh)
I. Binh
đoàn
Charton
(Cao Bằng)
- Tiểu đoàn 3,
trung đoàn 3
Lê Dương (3er
REI)
- Tiểu đoàn 3
Maroc
- Đơn vị công
binh, pháo binh
- Tổng số:
1.600 người
- Của binh đoàn
Lepage –
Charton
- 75 sĩ quan
- 292 hạ sĩ quan
Tổng số: 2839
người
II. Binh
đoàn
Lepage
(Thất Khê
và Đông
Khê)
- Tiểu đoàn
Tabor 1
- Tiểu đoàn
Tabor 11
- Tiểu đoàn dù
Lê Dương:
1
er
BEP
- Tiểu đoàn bộ
binh 8
er
RTM
- Công binh,
Tổng số thiệt
hại: 3.200 người
pháo binh, cơ
giới: 3.200
người
Tổng số: 4.800
người
III. Thuộc
binh đoàn
Charton
(Cao Bằng)
- Tiểu đoàn
dõng: 1.100
người
Tổng số thiệt
hại: 1000 người
IV. Đơn vị
dù (Thất
Khê)
- Tiểu đoàn
3
e
BCCP và
1
e
BEP: 360
người
3
e
BCCP và
1
e
BEP: 330
người
V. Đơn vị
đồn trú ở
Đông Khê -
Thất Khê –
Na Sầm
(Vào
khoảng)
- 1 Tiểu đoàn
của 3eREI
- 2 tiểu đoàn
3
e
RET
- Dõng A.B.C
- Pháo binh, cơ
giới, công binh
Tổng số: 1.500
người
- Quân đồn trú
- Dõng
Tổng số: 500
người
TỔNG SỐ 7.760 người 5.030 người
[Nguồn: Charles – Henry de Pirey (Đặng Văn
Việt dịch), Con đường tử địa RC4 – 1950,
Nxb Đà Nẵng, 2004, tr.267-268]
Từng đoàn xe nhà binh ngày đêm vội vã
chuyển các hồ sơ và vật quý ra khỏi thành
phố. Trong các hội nghị ở đại bản doanh quân
đội Pháp ở Bắc Đông Dương, người ta còn
bàn tới chuyện “tổng rút chạy” khỏi Móng
Cái, Tiên Yên, Cẩm Phả, Hòn Gai. Thậm chí
có người còn tính đến cả việc rút khỏi Hà
Nội. Người ta hồi hộp lo lắng, chờ đợi các
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
40
đòn tiến công của Việt Minh. Tại Paris, trận
thất bại ở biên giới làm chấn động cả dư luận
nước Pháp. Quốc hội Pháp họp nhiều phiên
bất thường. Chính phủ bị lên án, đả kích
mạnh mẽ. Người ta bắt đầu đặt ra câu hỏi
rằng nước Pháp có nên tiếp tục theo đuổi
cuộc chiến tranh (xâm lược Đông Dương)
hay không?
Dù chính quyền Pháp đưa ra quyết định như
thế nào, thì tình hình ở Đông Dương vẫn đúng
như đánh giá của P.Brocheux và D.Hémery:
“Thảm bại Cao Bằng, tiếp theo là việc rút
chạy khỏi Lạng Sơn tháng 10 năm 1950 đã
tạo nên sự sợ hãi và hỗn loạn trong quân đội
Pháp Sức mạnh và sức xung kích của quân
đội nhân dân Việt Nam đã làm cho Bộ chỉ
huy Pháp biết rằng đã qua một thời kỳ khác
của cuộc tranh chấp” [4, 454].
Chiến thắng Biên giới đánh dấu bước trưởng
thành vượt bậc của quân đội ta cả về lực
lượng lẫn nghệ thuật quân sự, đồng thời là
một chiến thắng vang dội bậc nhất trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. “Sau 29 ngày đêm
chiến đấu, ta đã tiêu diệt và bắt sống 8300 tên
địch, gồm 8 tiểu đoàn Âu – Phi và 2 tiểu đoàn
ngụy, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện
chiến tranh, xóa sạch Liên khu Biên giới
Đông Bắc của địch”.
“Có thể nói rằng trong suốt 30 năm chiến
tranh chống Pháp và chống Mỹ, hiếm có một
chiến dịch đánh tiêu diệt hay và gọn quân
địch trong vận động như trận Biên giới năm
1950” [1, 166].
Chiến thắng Biên giới 1950 đã mở ra một cục
diện mới cho cuộc kháng chiến. ta giành được
quyền chủ động chiến lược trên chiến trường
chính, khai thông biên giới, phá vỡ thế bị bao
vây, cô lập cả trong lẫn ngoài, củng cố và mở
rộng căn cứ địa Việt Bắc. Thắng lợi này đã
tạo điều kiện thuận lợi để ta phát triển lực
lượng về mọi mặt, đẩy mạnh kháng chiến tới
thắng lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ
Chính trị, (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, Nxb
Chính trị Quốc gia, HN.
[2]. Trần Trọng Trung,(1979), Lịch sử một cuộc
chiến tranh bẩn thỉu, T1, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
[3]. Đặng Văn Việt,(1990), Đường số 4 con đường
lửa, Nxb Giáo dục, HN.
[4]. Pierre Brocheux - Daniel Hémery, Đông
Dương nền thực dân nước đôi (1858-1954), Tư
liệu khoa Sử - ĐHKHXH và NV
[5]. Charles – Henry de Pirey (Đặng Văn Việt
dịch), (2004), Con đường tử địa RC4 – 1950, Nxb
Đà Nẵng.
[6]. Georges Fleury,(1994), La Guerre en
Indochine 1945 – 1954, Nxb Plon, Paris.
[7]. George C. Herring, (Phạm Ngọc Thạch
dịch),(2005), Cuộc chiến dài ngày nhất của nước
Mỹ và Việt Nam (1950 - 1975), Nxb CAND, HN.
[8]. Colonel Marcel Le Page,(1981), Cao Bang la
tragique épopée de la colonne Le Page, Nouvelle
Editio
n Latines, Paris.
SUMMARY
BORDER CAMPAIGN IN 1950 – A WATERSHED MOMENT INDOCHINA WAR
(1945 - 1954)
Hoang Van Tuan*
College of Sciences - TNU
On 16 September 1950, the Vietnamese army opened fire to make an attack on Dong Khe base (Cao Bang),
opening campaign that attack on the French army in the northeastern border. After less than a month, our
army was completely smash the French defense system in northeastern border. From here, our resistance
bases has been extended and connecting with China and other socialist countries. The victory of our army in
the campaign to attack the enemy on the border of autumn-winter 1950 opened a new era in the war. This is
regarded as one of the worst defeat French military during their war in Indochina.
Key words: Border Campaign, War, Indochina War, the resistance against French colonialism, the North
Vietnam
*
Tel: 0989780993; Email: hoangvantuan81@gmail.com
Hoàng Văn Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 35 - 40
41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32401_35856_382012145742biengioi_8885_2052849.pdf