Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á một số hệlụy

Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến sản lượng cá nước ngọt, cá nước mặn tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á. Một trong những nghiên cứu đầu tiên đã cho thấy về sự thay đổi lớn trong sự phân bố và phong phú của các loài cá là ở phía Bắc biển Bering. Những kết quả nghiên cứu này cũng được áp dụng cho các vùng biển khác của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, tăng trưởng và phân bố của các loài cá và có thể thay đổi các hiệu ứng mạng lưới thức ăn của cán cân động vật ăn thịt - con mồi, thay đổi mức độ các chất dinh dưỡng trong nước. Do băng trôi tạo ra một môi trường đại dương giàu dinh dưỡng thúc đẩy tảo băng tăng trưởng và do đó hình thành nên các liên kết chính trong trong chuối thức ăn đại dương. Sự thay đổi trong thời gian trôi của các dải băng sẽ ảnh hưởng đến sản lượng cá và tiếp đó là ngành công nghiệp đánh bắt cá của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trong khi vùng biển ngoài khơi phía Đông Nhật Bản, hiện có một số loài thủy sản được xem là nhiều nhất thế giới, song các nghiên cứu đã cho thấy các quốc gia trong khu vực có thể sẽ phải đối mặt với sự suy giảm đáng kể về một loại cá đánh bắt trong thế kỷ XXI.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongnt365 | Lượt xem: 580 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á một số hệlụy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở ĐÔNG BẮC Á: MỘT SỐ HỆ LỤY TRẦN QUANG MINH* Biến đổi khí hậu, một trong những hệ quả nghiêm trọng của quá trình công nghiệp hóa, đã và đang gây ra những tác động tiêu cực hết sức nghiêm trọng đe dọa sự tồn vong của sự sống trên trái đất. Sự gia tăng nhanh chóng nồng độ các loại khí nhà kính, đặc biệt là Co2, trong bầu khí quyển do sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong quá trình công nghiệp hóa của các nước trong mấy thập kỷ gần đây, được coi là nguyên nhân chủ yếu của biến đổi khí hậu hiện nay. Theo Báo cáo đánh giá số 4 (AR4) của Tổ chức liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), trong thế kỷ XXI con người sẽ phải đối mặt với những ảnh hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, như: giảm nguồn nước ngọt, sự tuyệt chủng của một số loài, bão lũ và ngập lụt do ảnh hưởng của mực nước biển dâng, khủng hoảng lương thực và sức khỏe. Bốn khu vực được xác định đặc biệt dễ bị tổn thương với biến đổi khí hậu là Bắc Cực; Châu Phi; các quốc gia đảo nhỏ; và các khu vực đồng bằng châu thổ lớn ở Châu Á, nơi có nguy cơ cao về nước biển dâng, bão và lũ sông. Tại Đông Bắc Á, biến đổi khí hậu được dự báo sẽ tiếp tục gây ra những hệ lụy nghiêm trọng trong nhiều thập kỷ tới, với một số biểu hiện chủ yếu dưới đây:* Thứ nhất, gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan. Theo dự báo của IPCC, nhiệt độ trung bình hàng năm đối với toàn bộ khu vực Đông Bắc Á sẽ tăng khoảng 3°C vào * Tiến sỹ, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á. năm 2050 và 5°C vào năm 2080. Tỷ lệ nóng lên được dự báo thay đổi theo mùa và thời gian trong ngày, với sự ấm lên trong mùa đông tăng nhanh hơn trong mùa hè và sự ấm lên vào buổi đêm tăng nhanh hơn vào ban ngày. Tần suất, thời gian, cường độ của các đợt nóng và số lượng những ngày nóng vào mùa hè, cũng như lượng mưa, tần suất và cường độ của các trận mưa cũng được dự báo sẽ tăng lên. Lượng mưa trung bình tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan được dự báo sẽ tăng hơn 10% trong thế kỷ XXI, đặc biệt là trong những mùa ấm áp. Sự khác biệt giữa các khu vực và các mùa về tần suất và cường độ mưa sẽ tiếp tục gia tăng. Lượng mưa trong mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 9) ở Đông Bắc Á được dự báo sẽ tăng 17 đến 19%, trong khi lượng mưa trong mùa đông được dự báo hoặc không thay đổi hoặc giảm nhẹ. Đi liền với các hiện tượng thời tiết cực đoan là nước biển dâng. Dọc theo bờ biển của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, mực nước biển đã tăng lên với tốc độ nhanh chóng 3,3 mm mỗi năm kể từ giữa những năm 1980 và với tốc độ 5,0 mm mỗi năm từ năm 1993. Tốc độ mực nước biển dâng tối đa đã được ghi nhận tại Kushiro, Hokkaido, tăng 9,3 mm mỗi năm từ 1970 đến năm 2003. Theo các dự báo về biến đổi khí hậu, mực nước biển toàn cầu sẽ tăng thêm từ 0,18 m đến 0,59 m vào năm 2100. Ở Đông Bắc Á, tốc độ mực nước biển dâng hàng năm được dự báo sẽ tăng lên 5 mm mỗi năm trong thế kỷ này. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 52 Sự gia tăng nhanh của mực nước biển như vậy đã và đang đe dọa nghiêm trọng khu vực bờ biển của các nước trong khu vực, nơi có một bộ phận lớn dân cư sinh sống và nhiều hoạt động kinh tế quan trọng, đặc biệt tại Nhật Bản. So với các nước khác, Nhật Bản có số lượng dân lớn thứ sáu (hơn 30 triệu người) sống trong phạm vi 10 km tính từ bờ biển. Các thành phố ven biển của Nhật Bản chiếm khoảng 32% tổng diện tích, 46% tổng dân số, sản xuất khoảng 47% sản lượng công nghiệp của cả nước. Nước biển dâng cũng làm trầm trọng thêm các cơn bão biển, sóng thần, xói mòn bờ biển... Đây chính là những mối đe dọa lớn đối với cộng đồng dân cư ven biển và các hoạt động kinh tế. Trận sóng thần kinh hoàng tàn phá gần như toàn bộ khu vực Đông Bắc của Nhật Bản ngày 11/3/2011 là một trong những ví dụ điển hình về tai họa thảm khốc do thiên nhiên gây ra. Tại Hàn Quốc, dấu hiệu rõ nhất của biến đổi khí hậu là rét đậm vào mùa đông, mưa kéo dài và số lượng những ngày nắng nóng gia tăng vào mùa hè. Tuyết dày gần 100 cm đã xảy ra ở tỉnh Gangwon trong tháng 2 năm 2010 (110 cm ở Samcheok và 100 cm ở Donghae). Tuyết dày nhất trong vòng 80 năm qua cũng đã xảy ra Ulsan làm tê liệt thành phố này và buộc hãng Motors Hyundai phải ngừng sản xuất xe hơi (ngày 4 tháng 2). Mật độ tuyết dày nhất 52 cm trong vòng 60 năm qua cũng đã xảy ra ở Pohang vào tháng 1 năm 2010. Tuyết dày 25,8 cm đã xảy ra ở Seoul. Đây là trận mưa tuyết dày nhất kể từ năm 1937. Tháng 2 năm 2010, tại Hàn Quốc đã xảy ra một đợt rét lạnh kỷ lục nhất (nhiệt độ thấp nhất xuống dưới âm 20 độ C) đã gây thiệt hại lớn chưa từng có đối với Thủ đô Seoul trong vòng 10 năm và thành phố Busan trong vòng 96 năm. Mưa lớn bất thường cũng đã xảy ra ở Hàn Quốc trong mùa mưa năm 2010. Tại Thủ đô Seoul, mưa đã kéo dài trong suốt 24 ngày trong tháng 8/2010, dài nhất kể từ khi hệ thống dự báo thời tiết hiện đại lần đầu tiên được giới thiệu ở đây vào năm 1908. Tại Trung Quốc, mùa đông khắc nghiệt năm 2010 (từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 2 năm 2011) đã gây tổn thất lớn chưa từng thấy cho các tỉnh phía Đông của vùng Sơn Đông trong vòng 60 năm qua (240.000 cư dân phải gánh chịu việc thiếu nước và 4 triệu hecta đất có nhu cầu cấp nước). Hạn hán cũng làm xáo trộn cuộc sống của người dân và gây thiệt hại cho nhiều ngành công nghiệp do tình trạng thiếu nước. Theo các chuyên gia thời tiết, thời tiết gần đây ở các nước và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã chịu ảnh hưởng của sự nóng lên toàn cầu. Mưa kéo dài hàng tuần, nhiệt độ mùa hè nóng bỏng và tuyết rơi kỷ lục trong mùa đông đều liên quan đến hiện tượng này và sự ấm lên hơn mức bình thường của Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây, các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã trải qua những trận mưa cực lớn. Dường như có những thời kỳ trong năm cả một khu vực rộng lớn đã bị chìm trong mưa lớn trong suốt cả tháng và những thiệt hại liên quan được báo cáo gia tăng hàng ngày. Thứ hai, đe doạ sức khỏe của con người. Sức khỏe con người là một trong những lĩnh vực bị tác động nhiều nhất của biến đổi khí hậu. Sự thay đổi của khí hậu sẽ kéo theo những dịch bệnh đối với con người: bệnh sốt rét, sốt xuất huyết tăng cao đột biến. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á 53 mỗi năm có khoảng 150.000 người tử vong do các bệnh như sốt rét, tiêu chảy..., đáng chú ý một nửa trong số này tập trung ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh ở người già, trẻ em. Nhiều dịch bệnh nguy hiểm mới đã xuất hiện như SARS, H5N1... Trước sự thay đổi của khí hậu, việc tìm hiểu về các loại bệnh mới là rất cần thiết để có những cách phòng chống. Chết vì nóng, vì bệnh dịch, vì ô nhiễm không khí - trong tương lai sẽ có thêm nhiều nạn nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu. Đó là kết luận của một nghiên cứu do Bộ Môi trường Mỹ thực hiện. Bản báo cáo này gồm 149 trang vừa được công bố tại Washington là một trong nhiều phân tích khoa học mới đây tìm giải đáp cho câu hỏi sự ấm nóng toàn cầu sẽ tác động đến sức khỏe của người dân như thế nào. Các nhà khoa học đã khẳng định rằng những nguy hại cho sức khỏe con người sẽ tăng lên cùng với quy mô và tiến độ của biến đổi khí hậu. Sẽ có thêm nhiều người bị dị ứng vì mùa đông ấm áp hơn sẽ càng làm cho phấn hoa bay sớm hơn và lâu hơn. Ô nhiễm không khí, nguyên nhân chính cho những bệnh phổi và đường hô hấp, sẽ tăng thêm. Biến đổi khí hậu còn tác động đến con người bằng nhiều cách khác, từ trực tiếp như nắng nóng, giá rét, lũ lụt và bão đến gián tiếp như thay đổi chất lượng không khí, chất lượng nước, mất cân bằng hệ sinh thái và phá vỡ hệ thống kinh tế xã hội. Sóng nhiệt và đêm đen nhiệt đới cũng là nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh cho con người, nhất là các bệnh truyền nhiễm. Tại Nhật Bản, theo các mô hình khí hậu khu vực được dự báo, cường độ các đợt nắng nóng đối với Nhật Bản sẽ gia tăng, và nhiệt độ tăng có thể làm cho tình trạng già hóa dân số diễn ra nhanh hơn do sự gia tăng căng thẳng do nóng bức. Nhiệt độ tăng cũng có thể khuyến khích sự lây lan của một số bệnh truyền qua vật chủ trung gian và qua đường nước. Theo một khảo sát của Viện nghiên cứu bệnh truyền nhiễm quốc gia Nhật Bản, môi trường sống của các loại muỗi ở Nhật Bản đang được mở rộng. Chúng có thể mang theo bệnh sốt xuất huyết đến tận Hokkaido. Nhiệt độ tăng cũng có thể mang đến những điều kiện sinh trưởng tốt hơn cho các loại sinh vật và ký sinh trùng gây bệnh. Theo một nghiên cứu y tế quốc gia tập trung vào tác động của biến đổi khí hậu, Nhật Bản đã trải qua mức độ cao của các trường hợp khẩn cấp liên quan đến sự nóng bức. Các bệnh dị ứng gia tăng cũng như các bệnh liện quan đến dị ứng phấn hoa cây Tuyết tùng của Nhật Bản ngày càng trở nên phổ biến. Theo một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), những thay đổi khí hậu đã không những làm tăng xác xuất của các trường hợp lũ lụt, đặc biệt là ngập lụt ở đô thị, mà còn làm tăng tính chất dễ bị tổn thương từ lũ lụt do mật độ dân số tăng và tập trung tài sản kinh tế ở Đông Bắc Á. Kết quả là, xác suất các trường hợp lũ lụt phát triển thành thảm họa đã tăng lên và các quốc gia trong khu vực này sẽ phải đối mặt với chi phí cuộc sống gia tăng và sự cần thiết phải gia tăng chi phí bảo hiểm từ các thảm họa "tự nhiên". Theo ước tính của ABI, thiệt hại liên quan đến gió được bảo hiểm từ những cơn bão khắc nghiệt ở Nhật Bản có thể tăng thua lỗ hàng ngày hiện tại từ 10-14 tỷ Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 54 USD lên 15-20 tỷ USD, tăng 67-70%, nhiều hơn gấp hai lần các chi phí của mùa bão năm 2004, chi phí đắt đỏ nhất trong vòng 100 năm qua. Bão là một trong những thảm họa thiên nhiên chủ yếu ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm ở Nhật Bản, thị trường lớn thứ ba trên thế giới. Tính trung bình, tổng thiệt hại trong ngành công nghiệp do những cơn bão được bảo hiểm gây ra ở Nhật Bản lên tới 4 tỷ USD. Tại Hàn Quốc, số ngày sóng nhiệt (hơn 330C) trong những năm gần đây là trên 10 ngày/năm, tăng hơn 2 ngày so với mức trung bình trước đó. Nhu cầu điện lớn nhất trong mùa hè năm 2010 đã tăng 11,8% lên 70,7 triệu kw so với mức trung bình năm. Giá rau, thực phẩm đã tăng mạnh do sóng nhiệt, nóng cháy và mưa lớn trong mùa thu xảy ra ở các khu vực canh tác nông nghiệp vùng cao ở Daegwallyeong trong năm 2010. Giá rau Baechu (hay bắp cải Trung Quốc) tăng tới hơn 15.000 won mỗi cái. Thứ ba, tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp. Theo Chủ tịch Viện Chính sách Trái Đất, ông Lester Brown, nước dành cho việc sản xuất lương thực ở Trung Quốc và Ấn Độ có nguy cơ cạn kiệt khi hiện tượng ấm lên toàn cầu khiến cho các sông băng tan chảy. Đây là mối đe dọa khủng khiếp nhất đối với nông nghiệp toàn cầu. Sông Hằng ở Ấn Độ, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử ở Trung Quốc được cung cấp nước bởi những cơn mưa trong mùa mưa, nhưng trong mùa khô nguồn cung cấp nước chủ yếu cho chúng là băng ở dãy Himalaya. Chỉ riêng sông băng Gangotri ở Himalaya đã cung cấp tới 70% lượng nước cho sông Hằng trong mùa khô. Mùa khô là giai đoạn mà nước trở nên cần thiết nhất đối với việc tưới tiêu các cánh đồng lúa gạo và lúa mì - hai loại ngũ cốc nuôi sống hàng tỷ người trên thế giới. Theo Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu, nhiều sông băng ở dãy Himalaya có thể biến mất vào năm 2035. Các nhà khoa học Trung Quốc cũng ước tính khoảng hai phần ba sông băng ở vùng cao nguyên Tây Tạng - Thanh Hải có thể biến mất vào năm 2060. Sự suy giảm của lượng nước chảy ra từ sông băng có thể khiến dòng chảy của sông Hằng, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử thay đổi theo mùa. Trung Quốc và Ấn Độ sản xuất hơn một nửa sản lượng lúa mì và gạo của thế giới. Trong khi đó, lưu vực của ba con sông lớn cung cấp phần lớn lượng lương thực này. Hàng năm, sông Dương Tử tưới nước cho khoảng một nửa diện tích trồng lúa tại Trung Quốc. Trong khi đó, những cánh đồng còn lại của Trung Quốc và Ấn Độ được tưới bởi nguồn nước lấy từ các tầng nước ngầm nước dưới lòng đất. Do tác động của hoạt động bơm hút, quá trình mất nước ở đây diễn ra nhanh hơn quá trình thay thế. Lượng nước dưới lòng đất ở hai khu vực trồng ngũ cốc chính - cao nguyên phía bắc của Trung Quốc và khu vực Punjab của Ấn Độ, đang giảm nhanh. Nếu mất cả hai nguồn cung cấp nước chủ yếu cho các kênh thủy lợi, hai quốc gia này có thể đối mặt với tình trạng thiếu lương thực, nhất là khi nhu cầu lương thực ngày càng tăng theo tốc độ phát triển của dân số. Tại Ấn Độ, nơi mà chỉ hơn 40% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, nạn đói sẽ gia tăng và tỷ lệ sống sót của trẻ em sẽ giảm. Hiểm họa lương thực từ hai nước sẽ nhanh chóng tác động tới thế giới. Lương thực được mua bán trên phạm vi toàn cầu Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á 55 và giá lương thực đang leo thang chóng mặt do nhu cầu đối với chúng tăng không ngừng. Cách duy nhất để tránh hiểm họa là loại bỏ những chính sách năng lượng kém hiệu quả và cắt giảm 80% lượng khí thải carbon vào năm 2020. Cần phải chấm dứt việc xây dựng những nhà máy nhiệt điện sử dụng than đá. Nhưng có một nghịch lý là Trung Quốc và Ấn Độ lại là hai nước đang xây dựng nhiều nhà máy nhiệt điện dùng than đá nhất thế giới. Ngoài Ấn Độ và Trung Quốc, Pakistan cũng là nước chịu ảnh hưởng của tình trạng băng tan. Theo ông Amir Mohammad, cựu bộ trưởng Nông nghiệp Pakistan, 60% lương thực của Pakistan phụ thuộc vào sông Indus. Các sông băng ở Himalaya cũng cung cấp nước cho dòng sông này. Tình trạng tan chảy của các sông băng đã bắt đầu tác động tới dòng chảy của nó. Tại Nhật Bản, Hàn Quốc, những thay đổi trong việc phân bố lượng mưa, lượng mưa và nhiệt độ gia tăng được dự báo sẽ có tác động đáng kể đến chất lượng nước và nguồn nước. Nhiệt độ ấm lên và sự giảm nguồn nước sẵn có cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến một số hồ nước ngọt, đặc biệt chất lượng nước có thể sẽ xấu đi và việc gia tăng nồng độ các chất hóa học trong nước tăng đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và thu hoạch cây trồng, ảnh hưởng đáng kể đến ngành nông nghiệp của các quốc gia này. Trong thực tế, nhiệt độ tăng cao đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số loại cây ăn quả và các sự cố trái cây bất thường đã xuất hiện như quả Nho không chuyển màu đỏ, cùi quả đào chuyển màu nâu... Theo dự báo của IPCC, năng suất lúa sẽ giảm đến 40% trong các khu vực đồng bằng được tưới tiêu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan dưới bầu khí quyển có nồng độ CO2 tăng gấp 2 lần mức bình thường. Thứ tư, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Bức ảnh chú gấu Bắc cực cố bám lấy tảng băng chìm đã trở nên lỗi thời với hiện tượng trái đất ấm lên. Hiện nay đã xuất hiện rất nhiều dấu hiệu khác cho thấy hệ sinh thái của trái đất đang bị suy thoái bởi sự can thiệp của con người. Theo một báo cáo được công bố tại Hội nghị quốc tế về đa dạng sinh học lần thứ 9 do Liên Hợp Quốc chủ trì tại Đức, sự tuyệt chủng của các loài động thực vật hàng năm đã làm mất đi 6% GDP của thế giới, tương đương với khoảng 2.000 tỉ Euro. Theo đó, nhà nghiên cứu Pavan Sukhdev, một quan chức cao cấp của ngân hàng Deutsche Bank, đã khẳng định sự mất mát của đa dạng sinh học đang chiếm đến 50% tài nguyên về kinh tế của các nước nghèo. Trong đó nạn phá rừng đã dẫn đến sự tuyệt diệt của nhiều loài động thực vật và là nguyên nhân làm gia tăng của 20% lượng khí CO2 thải vào bầu khí quyển. Các tổ chức quốc tế cũng khẳng định, tính đến ngày 12/9/2007 đã có 1/4 loài động vật có vú, 1/8 loài chim, 1/3 loài lưỡng cư và 70% loài thực vật đang bị đe dọa xóa sổ. Tại Nhật Bản, mỗi năm người ta lại nhận thấy sự ra hoa và nở hoa sớm hơn của cây Anh đào. Đây là một trong những ví dụ tiêu biểu cho một xu hướng lớn hơn đang tác động tiêu cực đối với con người và thiên nhiên ở Nhật Bản. Từ những loài quý hiếm cho đến cả hệ sinh thái và từ các hoạt động riêng lẻ cho đến tổng thể nền kinh tế của đất nước hoa Anh đào này đều đang chịu sự tác động của biến đổi khí hậu. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 56 Biến đổi khí hậu đã có tác động lớn nhất đến các hệ sinh thái biển và ven biển, các khu vực miền núi và rừng. Trong thực tế, hơn 20% động vật có vú, động vật lưỡng cư, các loài cá nước lợ và cá nước ngọt, các thực vật có mạch (nhựa) đang sinh sống ở các nước và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, cùng với khoảng 20% các loài bò sát và hơn 10% các loài chim. Biến đổi khí hậu sẽ ngày càng làm trầm trọng thêm vấn đề này. Các loài di cư như những con Thiên nga và Đại bàng biển cũng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu khi nhiệt độ ấm lên và các mô hình lượng mưa thay đổi. Một phần ba trong tổng số các loài chim này của thế giới di cư tới bờ biển phía Đông Bắc của Hokkaido. Hiện nay, Hokkaido là một trong những địa điểm trú đông cho các loài chim này. Loài ngỗng trắng gần như đang bị đe dọa xóa sổ tại đây. Các loài khác cũng có thể phải cạnh tranh cho các nhu cầu sống và đòi hỏi về thức ăn tương tự. Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và vòng đời của một số loài động thực vật. Nhiều loài sẽ bị buộc phải di chuyển về phía các cực hoặc những nơi có độ cao lớn hơn (khi có thể) trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Sự di cư của các loài này chắc chắn sẽ làm thay đổi thành phần của hệ sinh thái hiện tại và các khu vực hoang dã. Thiệt hại của các loài do biến đổi khí hậu gây ra và nguy cơ tuyệt chủng cũng đe dọa các loại cây trồng nông nghiệp (ví dụ như các loài thụ phấn), y dược và bản sắc văn hóa. Nhiệt độ tăng và lượng mưa biến động có ảnh hưởng đến sự phát triển của các loài thực vật riêng lẻ, chẳng hạn như nở hoa sớm hơn trong mùa xuân so với thập kỷ vừa qua. Số ngày đổ màu lá vàng mùa thu và số ngày lá rơi cũng đang thay đổi. Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến sản lượng cá nước ngọt, cá nước mặn tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á. Một trong những nghiên cứu đầu tiên đã cho thấy về sự thay đổi lớn trong sự phân bố và phong phú của các loài cá là ở phía Bắc biển Bering. Những kết quả nghiên cứu này cũng được áp dụng cho các vùng biển khác của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, tăng trưởng và phân bố của các loài cá và có thể thay đổi các hiệu ứng mạng lưới thức ăn của cán cân động vật ăn thịt - con mồi, thay đổi mức độ các chất dinh dưỡng trong nước. Do băng trôi tạo ra một môi trường đại dương giàu dinh dưỡng thúc đẩy tảo băng tăng trưởng và do đó hình thành nên các liên kết chính trong trong chuối thức ăn đại dương. Sự thay đổi trong thời gian trôi của các dải băng sẽ ảnh hưởng đến sản lượng cá và tiếp đó là ngành công nghiệp đánh bắt cá của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trong khi vùng biển ngoài khơi phía Đông Nhật Bản, hiện có một số loài thủy sản được xem là nhiều nhất thế giới, song các nghiên cứu đã cho thấy các quốc gia trong khu vực có thể sẽ phải đối mặt với sự suy giảm đáng kể về một loại cá đánh bắt trong thế kỷ XXI. Nghiên cứu phân tích về sự phân bố của các loài tảo trên các bãi triều ở vịnh Hampton cho thấy tỷ lệ loài tảo đỏ đang gia tăng. Sau khi nhiệt độ bề mặt nước biển tăng lên, hệ thực vật tảo ở vịnh Hampyong Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á 57 quay về dạng cận nhiệt đới. Do nhiệt độ tăng lên, cây sồi có xu hướng mở rộng tán và phát triển lá sớm hơn so với bình thường. Động vật lưỡng cư và bò sát cũng khá nhạy cảm với những thay đổi về lượng mưa và biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu cũng làm thay đổi địa hình của nhiều vùng đồng bằng ven biển của Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan với sự gia tăng hoặc giảm mực nước thủy triều, bùn lầy và nồng độ muối. Theo dự báo, bùn lầy ở khu vực ngập nước sẽ biến mất trong khi muối ở các vùng ngập nước ngày càng tăng lên nhanh chóng. Cửa sông Hàn: bùn lầy ở khu vực ngập nước được dự báo sẽ dần dần biến mất bắt đầu từ năm 2075 trong khi muối ở các vùng ngập nước sẽ phát triển dọc theo cửa sông Hàn. Vịnh Hampyung: bùn lầy ở khu vực ngập nước được dự báo sẽ tăng lên vào năm 2050 và sau đó bị nước nhấn chìm. Vịnh Suncheon: khu vực đất ngập nước được dự báo sẽ bị nhấn chìm bắt đầu từ năm 2050, vùng đất nội địa sẽ hẹp lại và muối ở các vùng ngập nước sẽ tăng lên. Cửa sông Nakdong: bùn lầy ở khu vực ngập nước sẽ gia tăng bắt đầu từ năm 2050, các vùng đất ngập nước được dự báo sẽ mở rộng làm nhấn chìm nhiều vùng đồng bằng. ___________________ Tài liệu tham khảo 1. ABI (Association of British Insurers) 2005. Financial Risks of Climate Change: Summary Report. Association of British Insurers, London. ncial_Risks_of_Climate_Change.pdf 2. China’s National Climate Change Programme ile/File188.pdf 3. Climate Change and Its Impacts in Japan 4. Climate change hits Korea 11/04/117_72958.html 5. Climate Change in China’s 12 th Five Year Plan rnational/global-action-facts-and- fiction/~/media/government/international/global- action-facts-and-fiction/GOV-China12YearPlan- 20110314-PDF.pdf 6. Climate Change in Korea. change-in-korea.html 7. Climate impacts threatening Japan today and tomorrow vironment/WWF_NipponChanges_lores.pdf 8. IIED (International Institute for Environment and Development) (2007, 28 March). Climate Change: Study Maps Those At Greatest Risk From Cyclones and Rising Seas. Science Daily. 328093605.htm 9. IPCC, Climate Change 2007: The Physical Science Basis. Contribution of Working Group I to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change [Solomon, S., D. Qin, M. Manning, Z. Chen, M. Marquis, K.B. Averyt, M.Tignor and H.L. Miller (eds.)]. Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom and New 10. JMA, 2007b. Long-term trends of phonological events in Japan: Summary of “Report on Climate Change 2005”. ventsJapan.pdf.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf24479_81962_1_pb_3683_2009851.pdf
Tài liệu liên quan