Bài tập kỹ năng - Chủ đề: Phân tích biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay
Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc – là nhân vật lịch sử vô cùng vĩ đại. Người không chỉ là sản phẩm của dân tộc Việt Nam, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ. Người đã để lại cho chúng ta một tài sản tinh thần vô giá và trường tồn, đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh với hạt nhân là chủ nghĩa Mac - Lênin. Tư tuởng Hồ Chí Minh có ảnh hưởng lớn và sâu sắc tới Cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới. Qua thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con người.
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Nhưng dù xem xét ở bất kì vấn đề nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh ta đều thấy Bác thể hiện quan điểm của mình trong mối quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề dân tộc và giai cấp. Mối quan hệ biện chứng này là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, là một trong những đóng góp quan trọng của Người vào kho tàng lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập kỹ năng - Chủ đề: Phân tích biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP KỸ NĂNG
Chủ đề:
Phân tích biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay.
Trả lời:
Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc – là nhân vật lịch sử vô cùng vĩ đại. Người không chỉ là sản phẩm của dân tộc Việt Nam, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ. Người đã để lại cho chúng ta một tài sản tinh thần vô giá và trường tồn, đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh với hạt nhân là chủ nghĩa Mac - Lênin. Tư tuởng Hồ Chí Minh có ảnh hưởng lớn và sâu sắc tới Cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới. Qua thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con người.
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Nhưng dù xem xét ở bất kì vấn đề nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh ta đều thấy Bác thể hiện quan điểm của mình trong mối quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề dân tộc và giai cấp. Mối quan hệ biện chứng này là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, là một trong những đóng góp quan trọng của Người vào kho tàng lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ sở hữu của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động, xã hội. Đi cùng với vấn đề giai cấp là vấn đề dân tộc. Dân tộc là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ dựa trên một cơ sở chung về kinh tế, văn hoá, ngôn ngữ. Hiểu theo nghĩa rộng thì dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia - dân tộc. V.I.Lênin đã nghiên cứu, phân tích và chỉ ra rằng: dân tộc có hai xu hướng phát triển khách quan: một là, các dân tộc có xu hướng tách ra để lập nên một quốc gia dân tộc độc lập; hai là, các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Khi dân tộc xuất hiện trong xã hội có giai cấp thì vấn đề dân tộc cũng mang nội dung giai cấp, trong đó vấn đề giai cấp giữ vai trò quyết định đối với vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc cũng có tính độc lập tương đối của nó. Chủ nghĩa Mac – Lênin khẳng định: chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng áp bức giai cấp bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc mới bị xoá bỏ. Trên cơ sở tư tưởng của C.Mac và Ph.Ănghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Trong đó, nội dung thứ ba là nội dung, tư tưỏng cơ bản. Tư tưởng liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và đặc biệt phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đến đây ta có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa vấn để dân tộc và vấn đề giai cấp, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về dân tộc và giai cấp đã được Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc.
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiên ở các điểm sau: Một là, Người khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; Hai là, chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; Ba là, sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; Bốn là, thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; Năm là, gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đi lên từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh một mặt đi theo lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, một mặt vẫn luôn nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc. Người cho rằng: giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết và trước hết, nhưng giải phóng để giành lại độc lập dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân tộc dẫn tới độc lập dân tộc là phạm trù thuộc về vấn đề dân tộc. Nhưng chủ nghĩa xã hội là phạm trù thuộc về vấn đề giai cấp. Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất”. Trong xã hội chủ nghĩa không còn mâu thuẫn giai cấp nữa, vấn đề giai cấp được giải quyết triệt để. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, xoá bỏ đến tận gốc rễ của quan hệ bóc lột giai cấp; thiết lập một nhà nước mới thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả đều mang tính dân tộc trên cơ sở nền tảng tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, thì mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Như vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn phải gắn với mục đích để sao cho vấn đề giai cấp cũng đồng thời được giải quyết.
Trong “Chính cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là lần đấu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ của dân tộc.
Từ quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, và Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất. Theo Hồ Chí Minh, "Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam". Phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là "Đảng của giai cấp vô sản", đồng thời là "Đảng của dân tộc Việt Nam". "Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất,trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân"(Hồ Chí Minh toàn tập). Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của cách mạng Việt Nam. Điều này cũng thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưỏng của Bác. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ( tháng 2/1951 ), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1953, Bác viết: “Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộcĐảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là đảng của toàn dân”. Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Năm 1961, Bác tiếp tục khẳng định: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị”. Năm 1965, Người cho rằng: “Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Qua hàng loạt các cách thể hiện khác nhau như vậy, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định được bản chất giai cấp của Đảng ta là Đảng ta mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng Người quan niệm: Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của toàn dân tộc. Quan điểm này có ý nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc. Nghị quyết Đại hội lần VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng , chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập. Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc”. Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai yếu tố dân tộc và giai cấp luôn đan xen, gắn bó trong tư duy của Người và thể hiện ra ở hầu hết nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn và linh hoạt giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong văn kiện tại Đại hội lần IX của Đảng ta đã nêu rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chịu dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại thế kỉ XX, một thế kỉ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình thế giới, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng và sự đúng đắn cao độ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Để tận dụng thời cơ và đẩy lùi thách thức, Việt Nam đã giải quyết được mối quan hệ này bằng việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa giai cấp với đoàn kết dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc và tranh thủ sức mạnh của thời đại. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Người cho rằng, phải dựa vào sức mạnh dân tộc là chủ yếu nhưng cũng phải biết tận dụng sức mạnh thời đại thì mới dễ bề thắng lợi.Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt và trong hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức mới về nguy cơ bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, hiếu chiến, chúng dựa vào sức mạnh và sự hiện đại tối tân của quân sự để gây ra các cuộc chiến đẫm máu, xâm lược các nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp, tư tưởng quan trọng này của Hồ Chí Minh càng chứng tỏ được sự trưòng tồn vĩnh cửu của nó.
Dù đang sống trong thời bình, mỗi công dân Việt Nam cần có ý thức trau dồi và rèn luyện để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ và sâu mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những cán bộ, Đảng viên và những nhà lãnh đạo đất nước, làm cơ sở để hoạch định chiến lược, chính sách xây dựng và phát triển đất nước, đưa dân tộc vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững bước trong tiến trình: xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt là ở thế kỉ XXI này,khi thế giới đấy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỉ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh trong đó có quan hệ dân tộc – giai cấp vẫn luôn phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó chứng tỏ cho cả dân tộc Việt Nam và bạn bè thế giới rằng: Tư tưởng cao đẹp của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lí sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của dân tộc và cả nhân loại./.
___Hết___
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_bien_chung_giua_van_de_dan_toc_va_van_de_giai_cap_trong_0219_1815469.doc