Bài giảng Triết học - Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

2. Qúa trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội - Tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau: + Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. + Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế xã hội suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. + Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, tức là quá tình thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. - Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác – lê nin cũng đồng thời khảng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng.

pdf21 trang | Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Triết học - Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng, hay giữa các mặt các yếu tố trong một sự vật hiện tượng. - Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật hiện tượng, do vậy mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan và đa dạng, phép biện chứng chỉ nghiên cứu mối liên hệ phổ biến nhất. b) Tính chất của các mối liên hệ - Tính khách quan thể hiện ở chỗ, các mối liên hệ là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình; chúng tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ, không có bất cứ sự vật, hiện tượng, quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Tính đa dạng, phong phú thể hiện ở chỗ, các sự vật, quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, chúng giữ vị trí, vai trò và biểu hiện khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của các sự vật, quá trình đó. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều và trang bị quan điểm toàn diện; tức là, khi phân tích sự vật, phải đặt nó trong mối quan hệ với sự 7 vật và hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt các yếu tố, kể cả các khâu trung gian gián tiếp của chúng. - Quan điểm toàn diện cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể, theo đó trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống, nhằm đưa ra những cách thức giải quyết khác nhau. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể để đưa ra những giải pháp đúng đắn, hiệu quả. 2) Nguyên lý về sự phát triển a) Khái niệm phát triển - Khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình tự vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. - Nguồn gốc của sự phát triển là do giải quyết mâu thuẫn của các mặt đối lập; cách thức của sự phát triển là từ thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; xu hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định (đường xoáy ốc). b) Tính chất của sư phát triển - Tính khách quan: Sự phát triển bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng, là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức con người. - Tính phổ biến: Sự phát triển xảy ra khắp nơi (trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy); ở mọi sự vật, hiện tượng; trong mọi giai đoạn của tồn tại của chúng. - Tính chất đa dạng và phong phú: Dù là khuynh hướng vận động chung của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng mỗi sự vật, mỗi hiện tượng khác nhau có quá trình phát triển không giống nhau. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ, định kiến và trang bị quan điểm phát triển; tức là: Muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, chúng ta phải có phải xem xét sự vật trong quá trình tự vận động phát triển không ngừng của chính nó, nắm được những giai đoạn tồn tại, những khuynh hướng thay đổi của nó. - Quan điểm phát triển cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể. III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến sau: 1. Cái riêng và cái chung a) Phạm trù cái riêng, cái chung - Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. - Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính chung không những có ở những sự vật hiện tượng hay một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong những sự vật, hiên tượng hay kết cấu vật chất khác. b) Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ: - Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình. - Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao hàm cái chung. 8 - Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng là cái toàn bộ, nó không gia nhập hết vào cái chung. - Cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật thông qua sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong hoạt động thực tiễn: + Không nên nhấn mạnh, tuyệt đối hóa cái chung, phủ nhận cái riêng (vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình). + Không được nhấn mạnh tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung (vì cái riêng chỉ tồn tài trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao hàm cái chung). - Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại. 2. Nguyên nhân và kết quả a) Phạm trù nguyên nhân, kết quả - Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó ở các sự vật. - Kết quả là phạm trù triết học chỉ các biến đổi do nguyên nhân tương ứng gây ra. b) Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả - Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biên và tính tất yếu. + Tính khách quan thể hiện ở chỗ, mối liên hệ đó tồn tại trong bản thân các sự vật, nó diễn ra ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc người ta có nhận thức được hay không + Tính phổ biến thể hiện ở chỗ, tất cả mọi sự vật hiện tượng xuất hiện đều có nguyên nhân, (dù con người đã biết hoặc chưa biết). + Tính tất yếu thể hiện ở chỗ, với một nguyên nhân nhất định, trong một điều kiện nhất định sẽ cho ra đời một kết quả nhất định, và ngược lại. - Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả, và một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. - Kết quả không tồn tại thụ động mà nó tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó - Trong sự vận động của thế giới vật chất không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. - Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa thay đổi vị trí cho nhau khi thay đổi mối quan hệ. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trang bị cho chúng ta quan điểm quyết định luận đúng đắn, khắc phục quan điểm định mệnh của chủ nghĩa duy tâm. - Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết khai thác vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển. 3. Tất nhiên và ngẫu nhiên a) Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên Tất nhiên (tất yếu) là phạm trù triết học chỉ cái do bản chất, do nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện cụ thể nó nhất định phải xảy ra như thế này chứ không phải xảy ra như thế khác. Ngẫu nhiên là phạm trù triết học chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất quyết định mà do những nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của hoàn cảnh bên ngoài chi phối; do 9 đó, nó chỉ có thể xuất hiện như thế này, hoặc xuất hiện như thế khác. b) Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên - Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, bên ngoài độc lập với ý thức con người. - Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại thuần túy, biệt lập nhau. - Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau khi thay đổi mối quan hệ, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính chất tương đối. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải căn cứ vào cái ngẫu nhiên, tuy nhiên. Mặt khác, chúng ta không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, coi nhẹ cái ngẫu nhiên. - Muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích, so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. - Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau, vì vậy không nên cứng nhắc khi xem xét sự vật hiện tượng. để xác định cái gì là tất nhiên hay ngẫu nhiên chúng ta phải đặt nó trong một quan hệ xác định. 4. Nội dung và hình thức a) Phạm trù nội dung và hình thức - Nội dung là phạm trù triết học chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. - Hình thức là một phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức và kết cấu nội dung b) Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức - Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức: Không có hình thức nào không chứa đựng nội dung, không có nội dung nào không tồn tại trong một hình thức nhất định. - Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức: Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, nội dung là mặt luôn biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định, vì vậy, khi nội dung thay đổi buộc hình thức phải thay đổi cho phù hợp. - Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung: Hình thức phù hợp với nội dung thì thúc đẩy nội dung phát triển; còn nếu không phù hợp với nội dung thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung. - Nội dung và hình thức có thể chuyển hóa cho nhau. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Không được tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung hay hình thức - Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tận dụng mọi loại hình thức có thể có kể cả một số hình thức cũ để phục vụ cho nội dung mới, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. - Để nhận thức và cải tạo sự vật, trước hết chúng ta phải căn cứ vào nội dung, mặt khác phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung với hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển. 5. Bản chất và hiện tượng a) Phạm trù bản chất và hiện tượng - Bản chất là phạm trù triết học chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật quy định sự vận động và phát triển của sự vật. - Hiện tượng là phạm trù triết học chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất trong những điều kiện xác định. 10 b) Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng - Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định nào đó. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi; khi bản chất biến mất thì hiện tượng của nó sẽ không còn - Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng; bản chất là cái bên trong, còn hiện tượng là cái bên ngoài; bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Muốn nhận thức được bản chất của sự vật thì phải xuất phát từ hiện tượng; nhưng nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến tới nhận thức bản chất và đào sâu bản chấtcủa sự vật. - Trong hoạt động thực tiễn, không được dựa vào hiện tượng mà phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật. 6. Khả năng và hiện thực a) Phạm trù khả năng và hiện thực - Khả năng là phạm trù triết học chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại thực sự trên thực tế nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự trên thực tế khi có các điều kiện tương ứng. - Hiện thực là phạm trù triết học chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại thực sự. b) Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực - Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. - Trong cùng một sự vật, cùng một điều kiện nhất định không phải chỉ tồn tại một mà là tồn tại nhiều khả năng khác nhau. - Khả năng chỉ biến thành hiện thực khi hội đủ những điều kiện cần thiết cho sự chuyển hóa đó. Trong đời sống xã hội, để khả năng chuyển hóa thành hiện thực phải hội đủ cả điều kiện khách quan lẫn điều kiện (nhân tố) chủ quan. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong hoạt động thực tiễn: Nếu chúng ta tách rời khả năng và hiện thực sẽ không thấy được tiềm năng vận động, phát triển của sự vật, sẽ không biết khai thác các điều kiện thích hợp cho những khả năng gần trở thành hiện thực. Phải tính đến khả năng để đề ra chủ trương, kế hoạch hoạt động thích hợp. - Trong xã hội, muốn khả năng biến đổi thành hiện thực cần phải thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người. Phải biết phát huy nguồn lực con người, phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Trong thế giới tồn tại nhiều loại quy luật, chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi bao quát về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. 1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại Quy luật này làm sáng tỏ phương thức chung của mọi quá trình vận động, phát triển diễn ra trong thế giới. Đó là: sự thay đổi về chất của sự vật có cơ sở tất yếu từ những thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên các phương diện khác nhau. 11 a) Khái niệm chất, lượng - Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, yếu tố cấu thành nó, làm cho sự vật nó là nó chứ không phải là cái khác. - Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. b) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng - Khái niệm độ dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn và trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng. - Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Giới hạn đó chính là điểm nút. - Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Khái niệm bước nhảy dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển, đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới; là sự gián đoạn trong quá trình vận động phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. - Chất mới tác động tới lượng làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhip điệu của sự vận động và phát triển của sự vật. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong nhận thức và thực tiễn cần phải: + Coi trọng cả hai phương diện chất và lượng của sự vật; khắc phục cả quan điểm tả khuynh lẫn hữu khuynh trong công việc. + Biết tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật. + Nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất. 2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập Nội dung quy luật này làm sáng tổ mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật là nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển xảy ra trong thế giới. . a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất của mâu thuẫn - Khái niệm mâu thuẫn + Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. + Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập; Phạm trù mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau trong một sự vật, trong một quan hệ. - Các tính chất của mâu thuẫn - Tính khách quan, phổ biến thể hiện ở chỗ mọi sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực hiện thực trong thế giới đều chứa đựng trong mình mâu thuẫn - sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập. - Tính đa dạng thể hiện ở chỗ, mỗi sự vật hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. b) Quá trình vận động của mâu thuẫn 12 - Mâu thuẫn là sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập + Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau giữa các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm điều kiện tiền đề cho sự tồn tại của chính mình. + Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. + Trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, còn trong sự đấu tranh bao hàm tính thống nhất của chúng. - Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa của chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể c) Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật - Trong nhận thức và thực tiễn cần phải phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển - Khi giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. 3. Quy luật phủ định của phủ định Quy luật này làm sáng tỏ khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong thế giới. Đó là: thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức vận động, phát triển mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”. a) Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng - Khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác. - Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ những sự phủ định tạo ra điều kiện tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Nó mang tính khách quan và tính kế thừa. + Tính khách quan thể hiện ở chỗ nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng. + Tính kế thừa thể hiện ở chỗ, những yếu tố hợp quy luật được kế thừa, còn những yếu tố trái quy luật bị loại bỏ. b) Phủ định của phủ định - Khái niệm phủ định của phủ định dùng để chỉ chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật trong đó mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. - Tính chất chu kỳ của quá trình phát triển thường biểu hiện dưới hình thức xoáy ốc. Đây cũng là tính chất “phủ định của phủ định”. Theo đó, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường phải trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ dường như lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những yếu tố tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực qua hai lần phủ định. - Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên theo đường xoắn ốc. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Phải thấy được quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có cả những giai đoạn thụt lùi; nhưng cuối cùng sự vật cũng sẽ phát triển tiến lên. Do vậy phải có niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ. 13 - Cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. - Không phủ định sạch trơn nhưng không kế thừa toàn bộ mà phải biết loại bỏ có chọn lọc, kế thừa có phê phán. V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức a) Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn - Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đó là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động tác động vào những đối tượng vật chất nhất định, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. - Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng, song có ba hình thức cơ bản là: + Thực tiễn sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn, trong đó con người sử dụng các công cụ lao động tác động vào tự nhiên, các điều kiện cần thiết để tạo ra của cải vật chất, duy trí sự tồn tại và phát triển của mình. + Thực tiễn chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. + Thực tiễn thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn b) Nhận thức và các trình độ nhận thức - Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn nhằm mang lại những tri thức về thế giới khách quan. Bởi vì: một là, thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người; hai là, con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan, coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quanvào trong bộ óc con người; ba là, sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng tích cực, tự giác và sáng tạo. - Nhận thức có thể chia theo trình độ thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học; v.v.. c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức - Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn cảu chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. + Không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. + Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. + Việc hiểu đúng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn nắm vững quan điểm thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh sai lầm chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. + Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận: Lý luận mà không có thức tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông; ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng. 2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý a) Quan điểm của V. I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự 14 nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. - Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính + Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): Đó là giai đoạn đầu của nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật khách quan, mang tính chất cụ thể cảm tính với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. + Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Đó là giai đoạn cao của nhận thức cho phép con người phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, đặc điểm, quy luật, bản chất của sự vật. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận). - Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn + Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức, song chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. + Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng. Muốn biết những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì nhận thức phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng, đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. b) Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn - Chân lý và các tính chất của chân lý + Khái niệm chân lý được dung để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan, sự phù hợp đó được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối, tính cụ thể. + Tính khách quan nói lên sự không phụ thuộc về mặt nội dung của chân lý đối với ý muốn chủ quan của con người. + Tính tuyệt đối chỉ ra tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh và hiện thực khách quan. + Tính tương đối nói lên sự phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ của nội dung phản ánh của chân lý với hiện thực khách quan. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách biệt nhau, mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. + Tính cụ thể nói lên sự phù hợp giữa nội dung phản ánh của chân lý với đối tượng là sự phù hợp trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. - Vai trò của chân lý đối với thực tiễn: Hoạt động thực tiễn của con người chỉ thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những chân lý - tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính thực tiễn của mình. Chương ba CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó 15 a) Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất - Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, nhằm tạo ra những sản phẩm thõa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. + Sản xuất vật chất là một trong những loại hoạt động đặc trưng của con người; + Sản xuất vật chất mang tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo. - Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành quá trình sản xuất ra của cải vật chất. + Những phương thức sản xuất khác nhau tồn tại trong những nền sản xuất vật chất khác nhau. + Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản: Phương diện kỹ thuật dùng để là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản xuất; Phương diện kinh tế dùng để chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. b) Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội - Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. - Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có bước bỏ qua một hay một vài phương thức sản xuất và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. 2. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất a) Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất gồm “người lao động” (giữ vai trò quyết định của LLSX) và tư liệu sản xuất (trong TLSX, công cụ lao động là yếu tố phản ánh rõ nét nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới tự nhiên) - Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (giữ vai trò quyết định trong QHSX), quan hệ trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. b) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất (nội dung vật chất kỹ thuật) và quan hệ sản xuất (hình thức kinh tế) là mối quan hệ thống nhất chứa đựng mâu thuẫn của quá trình sản xuất xã hội, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. + Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý và phân phối. + Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của lực lượng sản xuất hiện thực trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. + Tuy nhiên quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, luôn luôn có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. + Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả 16 năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn. + Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với hình thức kinh tế hiện thực đưa đến sự mâu thuẫn. + Mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó, là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng a) Khái niệm cơ sở hạ tầng - Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành kết cấu kinh tế của xã hội đó. - Cơ sở hạ tầng của một xã hội được tạo nên bởi: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới. b) Khái niệm kiến trúc thượng tầng - Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. - Kiến trúc thương tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo), các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (nhà nước, chính đảng, giáo hội; trong đó, chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội). 2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội, đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng - Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó; - Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống kiến trúc thượng tầng. - Những biến đổi (hay mất đi) của cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi (hay xuất hiện) của kiến trúc thượng tầng tương ứng; b) Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng - Với tư cách là hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội; trong đó, nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. - Sự tác động của kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại, sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định. 17 III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI 1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội a. Khái niệm tồn tại xã hội ý thức xã hội - Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại xã hội bao gồm: phương thức sản xuất vật chất (yếu tố cơ bản nhất), các yếu tố thuộc về tự nhiên – hoàn cảnh địa lý và các yếu tố thuộc về dân cư. - Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. + Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. + Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận là hai trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. + Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thể hiện hai phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội. b) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuậttất yếu sẽ biến đổi theo. 2. Tính độc lập tương đối và sự tác động của ý thức xã hội đến tồn tại xã hội a) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu hiện như sau - Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. - Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. - Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó. - Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển giữa chúng. b) Sự tác động của ý thức xã hội đến tồn tại xã hội - Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức xã hội tác động trở lại đến tồn tại xã hội. Mức độ ảnh hưởng của ý thức xã hội (tư tưởng, tình cảm,) đến tồn tại xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, đặc biệt vào mức độ mở rộng của tư tưởng, tâm lý vào trong quần chúng, xâm nhập đời sống hiện thực, v.v... - Thông thường, khi ý thức xã hội mang tính khoa học, tiến bộ, hay phản ánh đúng các quan hệ kinh tế vật chất thì nó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Còn khi ý thức xã hội không mang tính khoa học, lạc hậu, hay phản ánh sai các quan hệ kinh tế vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. IV. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội - Xã hội là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản tạo thành, đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, quan hệ sản xuất vừa tồn tại với tư cách là hình thức kinh tế của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa tồn tại với tư cách là cái hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội mà trên đó dựng lên một hệ thống kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp luật, tôn giáo,... - Hình thái hinh tế - xã hội là một phạm trù dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. 18 2. Qúa trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội - Tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau: + Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. + Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế xã hội suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. + Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, tức là quá tình thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. - Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác – lê nin cũng đồng thời khảng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng. 3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội - Lý luận hình thái kinh tế xã hội đã mang lại một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu lĩnh vực xã hội, khắc phục sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm trong việc lý giải lịch sử. + Thứ nhất, để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội không nên xuất phát từ ý thức (tư tưởng, ý chí chủ quan) của con người, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, từ phương thức sản xuất của xã hội, từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực mà lý giải. + Thứ hai, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học – đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học,) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. + Thứ ba, muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội. V. VAI TRÒ CỦA CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP 1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp a) Khái niệm giai cấp - Khái niệm giai cấp dùng để chỉ "những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng". + Thực chất của sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, do đó tất yếu dẫn tới việc “tập đoàn này có thể chiếm đoạt được lao động của tập đoàn khác”. + Giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành 19 giai cấp thống trị xã hội. + Khái niệm tầng lớp xã hội thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong hay ngoài giai cấp đó như: tầng lớp công chức, tri thức, tiểu nông, v.v .. b) Nguồn gốc giai cấp - Nguồn gốc trực tiếp: Sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. - Nguồn gốc sâu xa: Tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Có hai hình thức cơ bản của quá trình hình thành giai cấp đó là: chủ yếu do sự tác động của nhân tố bạo lực hay do sự tác động của quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. c) Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp - Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẩn lợi ích kinh tế về chính trị - xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau. + Tùy theo những điêu kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trịtrong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và nhiều hình thức đa dạng khác. + Vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. - Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp. + Đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử mà là còn là phương thức cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. + Kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh giai cấp đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội. 2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp a) Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó - Khái niệm cách mạng xã hội dùng để chỉ bước chuyển biến lớn của lịch sử phát triển xã hội loài người, từ hình thái kinh tế xã hội ở trình độ thấp lên một hình thái kinh tế xã hội ở trình độ cao hơn, được tiến hành trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóacủa xã hội. Do đó, khái niệm cách mạng khác về chất với khái niệm cải cách và đảo chính. - Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản xuát vật chất của xã hội (mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời). + Nguyên nhân khách quan: mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt chính trị - xã hội thành cuộc đấu tranh giai cấp và chính sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách mạng (của các cuộc cách mạng xã hội). + Nguyên nhân chủ quan: Sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. b) Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp - Cách mạng xã hội giữ vai trò là phương thức, động lực của sự phát triển xã hội. 20 - Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN 1. Con người và bản chất của con người a) Khái niệm con người - Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội + Con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên; là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “thân thể vô cơ của con người”. + Lao động đã làm xuất hiện con người và xã hội loài người; các nhân tố, các quy luật xã hội luôn chi phối đến sự tồn tại và phát triển của con người. b) Bản chất của con người - “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. + Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tư nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó. + Từ quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau đây: Một là, muốn hiểu đúng về con người không nên dừng lại ở phương diện bản tính tự nhiên mà là phải dựa trên phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế xã hội của nó để lý giải; Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người; Ba là, muốn phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người phải giải phóng con người mà trước hết là giải phóng con người ra khỏi các quan hệ kinh tế xã hội phi nhân tính. 2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân a) Khái niệm quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là một công đồng bao gồm: Một là, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần (hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân); Hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân; Ba là, những giai cấp tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử - Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Bởi vì: + Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội + Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội + Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và độnglực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. - Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. + Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. 21 + Khái niệm lãnh tụ dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, cá nhân phải là người: một là, có tri thức khoa học uyên bác biết nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử; hai là, có năng luực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ của lịch sử thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử; và ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân. - Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều kiện khách quan và chủ quan. Đó là, trình độ phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội, trình độ tổ chức xã hội, bản chất của chế độ xã hội, ...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_giang_chuong_1_vat_lieu_dan_dien_1692_1513.pdf
Tài liệu liên quan