Bài giảng Quy trình vận hành một trang trại nuôi cá biển quy mô công nghiệp

Quan sát tại chỗ: Cá phải khoẻ mạnh, đồng đều về kích cỡ, không bị xây xát, không bị dị hình, 2 mắt sáng, hoạt động nhanh, sống tụ đàn. - Kiểm tra hồ sơ (rất cần nếu có thể): cá bố mẹ, nhật trí quá trình ƣơng nuôi, bệnh và biện pháp đã xử lý, kháng sinh đã sử dụng. - Kiểm tra mầm bệnh: (ngƣời mua lấy mẫu đi kiểm tra hoặc xem xét hồ sơ kiểm nghiệm của Trại giống) cá không mang các mầm bệnh, không lở loét.

pdf58 trang | Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Quy trình vận hành một trang trại nuôi cá biển quy mô công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. 7: Cá chẽm – cá vược (Sea Bass) Lates calcarifer (Bloch, 790) - Cá Hồng (Lutjanus spp) Cá hồng (Lutjanus spp) là đối tƣợng có giá trị kinh tế cao, tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối nhanh, thịt thơm ngon và đƣợc thị trƣờng thế giới ƣa chuộng, đặc biệt là thị trƣờng Châu Á nhƣ Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Cá hồng hiện đang đƣợc nuôi ở nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ: Hồng Kông, Malaysia, Philippine, Indonesia, Thái Lan, Australia và một số nƣớc Nam Mỹ khác và chủ yếu là 2 loài: cá Hồng bạc (Lutjanus argentimaculatus) và cá Hồng đỏ (Lutjanus erythropterus). Đây cũng là đối tƣợng có thể phát triển nuôi công nghiệp. Mùa vụ sinh sản của cá hồng từ cuối tháng đến tháng , tuy nhiên cá đẻ rộ từ tháng 4 đến tháng 8. Cá đẻ vào ban đêm, từ 8 giờ – 4 giờ sáng, thƣờng đẻ vào lúc thủy triều lên. Bãi đẻ là nơi có độ sâu 8 – 37m, chất đáy cát hoặc cát san hô, nơi có độ mặn cao và ổn định 30 – 35ppt.[1,2] 28 Cá Hồng bạc Lutjanus argentimaculatus Forsskal, 1775) Cá Hồng đỏ (L. erythropterus Bloch, 1790) Hình 1. 8: Cá Hồng bạc và cá Hồng đỏ. - Một số loài cá mú (cá song) Epinephelus sp Các loài cá mú đƣợc nuôi nhiều trên thế giới gồm: Epinephelus akaara, E. fuscoguttatus, E. malabaricus, E. coioides, E. lanceolatus, Plectropomus spp, Cromileptes altivelis, Hầu hết các loài cá mú có giá trị kinh tế cao; đƣợc nuôi nhiều ở các nƣớc châu Á: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore, Brunei, Thái Lan,Việt Nam bằng các hình thức nuôi lồng trên biển và nuôi trong ao đất. Thị trƣờng tiêu thụ chính là Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan Sản lƣợng cá mú đánh bắt tự nhiên và nuôi đạt 30.000 tấn, trong đó cá nuôi chiếm 5.90 tấn, riêng Đài Loan chiếm 3.73 tấn (FAO, 2004). Sản lƣợng tiêu thụ tại các thị trƣờng chính khoảng 1.600 – 1.700 tấn/năm (Mike Rimmer, 2000). Giá cá mú trên thị trƣờng thế giới dao động từ 8 – 68 USD/kg tùy theo loài, theo thời điểm và thị trƣờng các nƣớc. Ở Việt Nam cá mú đƣợc nuôi ở các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang (Lê Xân và ctv, 2001). Nguồn giống chủ yếu thu từ tự nhiên và giống từ các trại giống, hình thức nuôi lồng và nuôi trong ao đất, cho ăn chủ yếu là cá tạp. Thị trƣờng nội địa là chủ yếu và xuất khẩu đi Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc giá bán dao động từ 200.000 – 1.000.000 đồng/kg tùy theo loài. 29 Bảng 1. 2: Một số loài cá mú là đối tượng nuôi. Tên khoa học Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt E. coioides (Forsskcal, 1775) Greasy grouper Green grouper Cá mú mỡ, mú chấm nâu Cá song gầu, mú đen Epinephelus akaara (Temminck & Schelgel, 1842) Hongkong grouper Red – spotted grouper Cá song (mú) chấm đỏ E. fuscoguttatus (Forsskcal, 1775) Brow – marbel grouper Tiger grouper Cá mú hoa nâu, cá mú cọp E. lanceolatus Giant grouper Cá mú nghệ (song vang) E. bleekeri (Vaillant, 1878) Duskytail grouper Bleeker’s grouper Cá mú Bơlêkơri, cá mú đuôi đen E. malabaricus Malabar grouper Estuarine grouper Cá mú Malaba, chấm đen Cromileptes altivelis Humpback grouper Cá mú chuột Ở Việt Nam, cá mú đen (song gầu) E. coioides đƣợc nuôi phổ biến và có sản lƣợng lớn nhất, tiếp đến là các loài mú cọp, mú chấm đỏNhững năm gần đây, một số ít nƣớc Úc, Philippin và Việt Nam đã bƣớc đầu sản xuất giống mú lai (lai tạo giữa cá mú nghệ E. lanceolatus với mú cọp E. fuscoguttatus) đã cho ra cá giống E. hybrid có tốc độ sinh trƣởng nhanh, thịt trắng thơm ngon và nhiều ƣu việt khác nếu phát triển nuôi công nghiệp cùng với cá mú chuột, mú nghệ. Mùa vụ sinh sản: Mùa vụ sinh sản của cá mú khác nhau tùy theo loài và vùng địa lý. Có nhiều loài đẻ vào tháng 3 - tháng 10, cũng có những loài đẻ vào tháng 10 - tháng 2. Ở Đài Loan, cá E. tauvina, E. coioides, E. malabaricus đẻ tự nhiên trong ao đất từ tháng 3 đến tháng 10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10. Ở Philippines cá E. coioides hầu nhƣ đẻ quanh năm. Ở Việt Nam cá mú cũng đẻ rải rác quanh năm, nhƣng thời điểm chính là từ tháng 4 đến tháng 10.(Lê Xân và ctv, 2007) 30 Hình 1. 9: E. Coioides Forsskcal, 1775 Hình 1. 10: E. bleekeri Vaillant, 1878 Hình 1. 11: E. fuscoguttatus (Forsskcal, 1775) Hình 1. 12: Cromileptes altivelis 2.3 Công nghệ nuôi đƣợc sử dụng Hiện nay, ở Việt Nam có 2 hình thức nuôi đƣợc sử dụng: nuôi cá biển bằng lồng trên biển và nuôi trong ao đất. - Nuôi cá biển bằng lồng: Năm 2001 tổng số lồng nuôi trên biển là 3.990 lồng, sản lƣợng đạt 2.50 tấn, năm 2002 tổng số lồng nuôi 4077 chiếc sản lƣợng cá nuôi đạt 2626 tấn, trong đó miền Bắc đạt 599 tấn; Nam Trung Bộ đạt 99 tấn; miền Nam đạt 108 tấn [4], [2]. Theo Báo cáo của Bộ Thủy sản[1], [2], năm 2005 hình thức nuôi cá lồng trên biển đã phát triển ở các tỉnh ven biển Vịnh Bắc Bộ nhƣ Hải Phòng, Quảng Ninh, ven biển miền Trung: Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, ven biển phía Nam Bà Rịa – Vũng Tàu, Kiên Giang. Tổng số lồng bè nuôi cá trên biển là 5.200 chiếc, sản lƣợng đạt 8000 tấn. Báo cáo của Tổng cục Thủy sản, sản lƣợng cá biển nuôi năm 2001 đạt khoảng 22.000 tấn trong đó nuôi trong ao đất chiếm khoảng 6.000 tấn. 31 Bảng 1. 3: Sản lượng, số lượng lồng cá biển nuôi ở Việt Nam [2] Năm 200 2002 2003 2004 2005 200 Số lƣợng lồng (chiếc) 3990 4077 680 6856 75 5.200 Sản lƣợng (tấn) 250 2626 2327 2769 3556 8000 Từ năm 2006 , một số doanh nghiệp nƣớc ngoài nuôi cá biển qui mô công nghiệp ở Phú Yên, Khánh Hòa nhƣ Công ty Marine-Farm, Công ty An Hải nuôi cá giò, cá song bằng lồng nổi đặt xa bờ Chỉ tính riêng sản lƣợng của 2 công ty này ƣớc tính khoảng 700 tấn năm 2006 và 1000 tấn năm 2007 (số liệu điều tra riêng). Nuôi cá bằng lồng qui mô công nghiệp phải đầu tƣ lớn, cho sản lƣợng lớn, chi phí để xử lý môi trƣờng vùng nuôi thấp, nhƣng có thể rủi ro do thiên tai Tuy nhiên, đây là hình thức cần ƣu tiên phát triển trong thời gian tới. Nuôi cá biển trong ao đất : nuôi cá biển trong ao đất mới phát triển ở một số tỉnh: Quảng Ninh, Nam Định,Thanh Hóa, Phú Yên, Bạc Liêu, Cà Mâu, Kiên Giang, Khánh Hòa, Bình Định, Chƣa có số liệu thống kê chính thức nhƣng theo ƣớc tính của Viện nghiên cứu NTTS I và Báo cáo của Tổng cục Thủy sản, sản lƣợng năm 2001 khoảng khoảng 600 tấn và chủ yếu là cá vƣợc, cá song và cá hồng Mỹ. [2] Nuôi ao đất ít rủi ro do thiên tai, gió bão gây ra, chi phí lao động, nhân công thấp hơn, nhƣng tiềm ẩn rủi ro về ô nhiễm môi trƣờng ao nuôi, dịch bệnh. Nguồn gốc cá giống: Hiện nay, nguồn giống cho nuôi cá biển ở nƣớc ta chủ yếu vấn là khai thác tự nhiên, một số đƣợc sản xuất từ các trại giống và nhập khẩu. Hiện trạng nguồn giống của các hình thức nuôi ở Việt nam hiện nay đƣợc thể hiện ở bảng 1.4 Bảng 1. 4: Hiện trạng nguồn giống, phương thức nuôi các loài cá biển ở VN[3] TT Tên địa phƣơng Tên tiếng Anh Tên khoa học Hình thức nuôi Nguồn giống 32 Cá Song/Mú Grouper Epinephelus spp Lồng, ao đất nhân tạo, tự nhiên, nhập khẩu 2 Cá Giò/Bớp Cobia Rachycentron canadum Lồng Nhân tạo, nhập khẩu 3 Cá Vƣợc/chẽm Seabass Lates calcarifer Lồng, ao đất Nhân tạo, tự nhiên 4 Cá Hồng Snapper Lutjanus spp Lồng Tự nhiên, nhân tạo 5 Cá Tráp Redseabream Pagrosomus spp Lồng Tự nhiên 6 Cá Dìa Golden Rabit fish Siganus guttatus Lồng, ao đất Tự nhiên 7 Cá Cam Yellowtail Seriola dumerili S.nigrofasciata Lồng Tự nhiên 8 Cá Ngựa Sea horse Hippocampus spp Bể (thử nghiệm) Tự nhiên, nhân tạo 9 Cá Hồng Mỹ Red drum Sciaenops ocellatus Lồng Nhân tạo 0 Cá Vƣợc mõm nhọn Glass eyed perch Psammoperca waigiensis Lồng Nhân tạo Cá chim vây vàng Pompano Trachinotus blochii Lồng Nhân tạo, nhập khẩu Tuy nhiên, với các trại nuôi công nghiệp, nguồn giống nhất thiết phải đƣợc chủ động từ các trại sản xuất giống. - Cá giống có nguồn gốc rõ ràng. Đàn cá bố mẹ đƣợc chăm sóc và quản lý tốt, bảo đảm đủ dinh dƣỡng để phát dục, trứng và ấu trùng có chất lƣợng cao. Ấu trùng mới nở khỏe, không bị dị hình, nhiễm bệnh 33 - Cá giống đƣợc ƣơng, chăm sóc trong điều kiện dinh dƣỡng tốt, kích thƣớc đồng đều, cách ly an toàn sinh học cao, không mang mầm bệnh, tỷ lệ dị hình thấp. - Cá giống có hồ sơ lý lịch ghi chép, theo dõi có hệ thống về nguồn gốc từ cá bố mẹ, tình trạng sức khỏe trong suốt quá trình ƣơng nuôi. 2.4 Giới hạn độ mặn và nhiệt độ của các loài cá nuôi Hầu hết các loài cá biển nuôi đƣợc giới thiệu sống ở vùng nhiệt đới, có đặc điểm rộng muối và sinh trƣởng bình thƣờng trong điều kiện nƣớc ấm. Cá giò có ngƣỡng nhiệt độ chịu đựng của chúng từ 6,8oC- 32oC (David T.L.O, 1988). Cá giống có thể bị chết ở nhiệt độ nƣớc 7,7oC và ngừng bắt mồi khi nhiệt độ nƣớc còn 8,3OC, chúng chỉ bắt mồi trở lại khi nhiệt độ nƣớc tăng lên đến 9oC [9]. Ngƣỡng chịu đựng độ mặn từ 22,5 ppt - 44,5 ppt (Đào Mạnh Sơn và CTV, 1995). Tuy nhiên, những thí nghiệm của Hassler & Rainville, 1975 cho thấy cá vẫn có thể sống đƣợc ở độ mặn 9 ppt. Độ pH thích hợp của cá giò là 7,5- 8,3; Cá chim vây vàng trƣởng thành sinh trƣởng tốt nhất ở điều kiện nhiệt độ từ 22- 28 0 C, là loài rộng muối có thể sinh sống, phát triển từ 3 - 33‰. Dƣới 20‰ cá sinh trƣởng nhanh, trong điều kiện độ mặn cao tốc độ sinh trƣởng chậm lại.(Lê Xân và CTV, 2007) Cá hồng Mỹ là loài rộng muối, có thể sống đƣợc ở độ mặn từ 0 – 35 ppt, nhiệt độ từ 10 – 30oC, nhu cầu oxy hòa tan > 2,5mg/l. Cá chẽm là loài rộng muối nên nó có thể sống và sinh trƣởng bình thƣờng trong nƣớc ngọt, lợ, mặn, có độ muối dao động từ 0 – 32 ppt, thậm chí là 35 ppt.(Lê Trọng Phân và CTV, 1999) Nhiệt độ nƣớc thích hợp cho cá chẽm sinh trƣởng và phát triển khoảng 26 – 32 o C, khoảng thích hợp nhất là 28 – 30oC. Nếu nhiệt độ giảm dƣới 20oC, cá bắt mồi kém, chậm phát triển, tỷ lệ sống thấp, nhiệt độ tiếp tục giảm đến 5oC cá bắt đầu chết. Độ pH thích hợp cho cá chẽm sinh trƣởng và phát triển là 7 – 9, tốt nhất là từ 7,5 – 8,5; pH từ 5 – 7 và từ 9 – kéo dài, cá sinh trƣởng chậm hoặc không có khả năng sinh sản; pH nhỏ hơn 4 hoặc lớn hơn 11 cá sẽ chết. 34 Cá hồng bạc và hồng đỏ. Giai đoạn cá giống sống chủ yếu ở vùng nƣớc lợ cửa sông và rừng ngập mặn. Chúng xuất hiện ở độ sâu 0,3 - 0,4m; độ mặn lớn hơn 5ppt. Khi cá sắp trƣởng thành và trƣởng thành chúng di cƣ dần ra vùng biển xa bờ, nƣớc sâu, sống ở gần đáy và sống đáy. Nơi có đáy rạn đá san hô, đá sỏi hoặc có nền đáy cứng, có nhiều rong biển, độ mặn cao 30 - 35ppt, độ pH trên 7,5 [3]. Thỉnh thoảng ta có thể tìm thấy cá trƣởng thành ở vùng biển có độ sâu lớn hơn 100m nƣớc. Cá hồng có thể sống và sinh trƣởng bình thƣờng ở nhiệt độ 5-32oC. Các loài cá mú: Epinephelus coioides, Epinephelus malabaricus, Epinephelus lanceolatus, thƣờng sống ở vùng nƣớc lợ và nƣớc mặn, có độ mặn 10 – 32ppt, chất đáy rất đa dạng từ đáy cứng đến đáy cát bùn. Cá con thƣờng tìm thấy ở vùng triều ven bờ, cửa sông và rừng ngập mặn. Các loài: mú chuột (C.altivelis) mú đỏ (E. akaara) có ngƣỡng độ mặn thích hợp 25-35ppt.[4] Nhiệt đôi thích ứng của các loài cá mú 22 – 32oC khoảng thích hợp cho tăng trƣởng và phát triển là 26 – 30oC. Mùa hè chúng thƣờng tập trung ở vùng nƣớc gần bờ, mùa Đông di chuyển ra vùng nƣớc sâu có các rạn đá và san hô, chỉ di cƣ với cự ly ngắn. Có thể sống bình thƣờng trong điều kiện độ pH từ 7,0 – 9,0, tuy nhiên thích hợp là 7,5 – 8,5.Hàm lƣợng Oxy hòa tan >4,0 mg/l. 2.5 Nhu cầu Oxy. Các loài cá biển thƣờng có nhu cầu Oxy hòa tan cao đặc biệt là các loài cá có tập tính hoạt động mạnh: cá giò, cá chim vây vàng, cá hồng Mỹ, cá chẽm, các loài cá hồng nhu cầu oxy hòa tan phải luôn đáp ứng >4,5mg/l. Các loài cá mú vận động chậm hơn có nhu cầu Oxy hòa tan thấp nhất >3,5mg/l. Tuy nhiên, các lồng nuôi công nghiệp thƣờng ở xa bờ, luôn có sóng gió, dòng chảy và mật độ hợp lý. Vấn đề Oxy hòa tan không phải quá quan tâm. 2.6 Tập tính ăn, loại thức ăn. Cá giò là loài cá dữ, bắt mồi chủ động, ăn thịt và rất phàm ăn. Chúng có thể ăn nhiều lần trong ngày. Vùng hoạt động rộng từ tầng mặt đến tầng đáy. Trong các lồng 35 nuôi cá giò thƣờng bơi thành đàn trên mặt nƣớc và bắt thức ăn rất nhanh. Do tập tính này nên thức ăn công nghiệp cho cá giò phải là thức ăn viên nổi. + Giai đoạn cá mới nở đến 3 ngày tuổi, dinh dƣỡng bằng noãn hoàng. + Giai đoạn sau 3 ngày tuổi, ăn động vật phù du và các loại ấu trùng côn trùng, ấu trùng giáp xác, động vật thân mềm và các loại tôm cá nhỏ. Khi đạt kích thƣớc 10-12 cm thì chúng sử dụng thức ăn nhƣ cá trƣởng thành, ăn các loại cá, giáp xác, động vật thân mềm phù hợp với cỡ miệng. Cá giò thƣờng tập trung thành đàn 30 – 1000 con, bắt mồi khi di cƣ dọc vùng nƣớc nông ven bờ. Ngƣời ta còn phát hiện thấy chúng thƣờng bơi theo các loài cá khác nhƣ cá đuối, cá mập, rùa và ăn bất cứ thứ gì mà các loài này không ăn hết + Trong điều kiện sản xuất giống, sau 3 ngày tuổi cho cá ăn luân trùng, Copepoda, Artemia, sau khoảng 20 ngày tuổi chúng có thể ăn thịt tôm cá băm nhỏ và thức ăn tổng hợp + Nuôi thƣơng phẩm sử dụng thức ăn là cá tạp, thức ăn chế biến và có thể sử dụng 100% thức ăn tổng hợp viên nổi. Cá chim vây vàng là loài cá ăn tạp thiên về động vật, cá trƣởng thành có thể bắt những động vật vỏ cứng nhƣ: ngao, cua, ốc. Giai đoạn cá giống thức ăn là động vật phù du và động vật đáy, chủ yếu là luân trùng (Rotifer), Nauplius Copepoda, Artemia. Cá con ăn tôm cá nhỏ, hai mảnh vỏ nhỏ. Thức ăn chính của cá trƣởng thành là: các loại tôm, cá nhỏ, những động vật thân mềm sống ở cát và các loài động vật không xƣơng sống khác. Trong điều kiện ƣơng nuôi, cá dài 2cm thức ăn là cá tạp xay nhỏ, tôm tép băm nhỏ, thức ăn viên. Cá trƣởng thành có thể sử dụng 100% thức ăn công nghiệp. Cá hồng Mỹ là loài cá dữ, ăn thịt, thức ăn ƣa thích của cá trƣởng thành ngoài tự nhiên là cá nhỏ, mực và giáp xác. Giai đoạn nhỏ thức ăn chủ yếu là động vật phù du nhƣ luân trùng, Copepoda. Cá lớn hơn ăn các loài tôm, cá nhỏ. Trong điều kiện nuôi, thức ăn cho cá con ngoài sinh vật phù du (luân trùng, Copepoda và ấu trùng Artemia), có thể sử dụng các loại thức ăn tổng hợp khi cá đạt cỡ 5mm trở lên. Giai đoạn nuôi thƣơng phẩm có thể nuôi bằng thức ăn công nghiệp viên nổi hay bán nổi. 36 Cá chẽm là loài cá dữ ăn thịt, thức ăn thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của cá: Giai đoạn mới nở từ 0 – 3 ngày tuổi, dinh dƣỡng bằng noãn hoàng. Giai đoạn 3 – 5 ngày tuổi, kích thƣớc dƣới 1cm, thức ăn chủ yếu là Rotifer, động vật phù du khác, ấu trùng giáp xác, ấu trùng động vật thân mềmGiai đoạn cá có chiều dài 1 – 5 cm, ở ngoài tự nhiên thức ăn chủ yếu của cá chẽm là ấu trùng nhuyễn thể, ấu trùng giáp xác, tôm, cá nhỏ Giai đoạn sắp trƣởng thành và trƣởng thành cá ăn mồi động vật hoàn toàn: tôm, cua cá. Trong điều kiện sản xuất giống nhân tạo, cho ăn chủ yếu là Rotifer (Brachionus plicatilis) ở giai đoạn từ 2 đến 3 ngày tuổi. Sau 10 ngày tuổi đến cỡ 2,5cm, thức ăn chủ yếu là Nauplius Artemia, Copepoda Từ 2 – 5cm, thức ăn chủ yếu cho cá là Artemia trƣởng thành, các loại giáp xác nhỏ và tập cho cá ăn thức ăn tổng hợp, cá tạp băm nhuyễn.Từ 5 cm, thức ăn chủ yếu là cá nhỏ, tôm, cá tạp băm nhỏ và thức ăn tổng hợp. Trong điều kiện nuôi thƣơng phẩm cho ăn cá tạp, thức ăn chế biến và thức ăn tổng hợp hoặc 100% là thức ăn tổng hợp viên nổi. Cá hồng và cá hồng bạc là cá dữ ăn thịt, hàm trên có những đôi răng nanh khỏe. Cƣờng độ bắt mồi mạnh nhất vào lúc gần tối, thức ăn chủ yếu là các loài cá nhỏ, giáp xác và các loài động vật không xƣơng sống khác. Giai đoạn cá mới nở (3 ngày tuổi) dinh dƣỡng bằng noãn hoàng. Sau 3 ngày tuổi, ăn động vật phù du, ấu trùng giáp xác, ấu trùng nhuyễn thể, giai đoạn ấu niên ăn tôm, cá nhỏ. Trong sinh sản nhân tạo, khi cá hết noãn hoàng cho ăn trứng hầu kích thƣớc 60 – 90µm, Rotifer dòng nhỏ (Brachianus rotindunformis) kích thƣớc < 100µm. Sau 8 ngày tuổi cho ăn Rotifer kích thƣớc lớn hơn (B. plicatilis). Khi cá đạt chiều dài 1cm cho ăn Nauplii Artemia, Copepoda, cá cỡ 4 – 5 cm trở lên cho ăn Artemia trƣởng thành, cá tạp băm nhỏ, thức ăn tổng hợp. Trong nuôi thƣơng phẩm cho ăn cá tạp, thức ăn chế biến và có thể cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn tổng hợp viên nổi hay bán nổi. Các loài cá mú. Cá mú có tập tính hung dữ, ăn thịt, săn mồi bằng cách ẩn nấp trong các hang đá, hang hốc của rạn san hô để rình mồi. Giai đoạn ấu trùng ăn động vật phù du: Rotifer, 37 Copepoda, giai đoạn cá giống ăn các loại tôm, cá nhỏ. Khi trƣởng thành cá ăn các loài cá nhỏ, giáp xác, mực. Trong sản xuất giống nhân tạo, khi ấu trùng mới mở miệng thức ăn là trứng hầu, dòng Rotifer kích thƣớc nhỏ (Brachianus rotindunformis). Sau 10 ngày tuổi cho ăn Rotifer kích thƣớc lớn hơn (B. plicatilis), Nauplius Copepoda, N- Artemia, Artemia trƣởng thành. Khi cá đạt cỡ trên 4cm, tập cho cá ăn cá tạp băm nhỏ, khi nuôi thƣơng phẩm cho ăn cá tạp, thức ăn chế biến và cũng có thể ăn thức ăn tổng hợp bán nổi. 2.7 Đặc điểm tăng trƣởng và tình trạng sức khỏe. Cá giò là loài có tốc độ tăng trƣởng rất nhanh. Kích thƣớc cá đánh bắt đƣợc ngoài tự nhiên thƣờng có chiều dài từ 50 – 20cm, Kích cỡ trung bình của cá là 23 kg, có con chiều dài tới 200cm, nặng 68kg. Một nghiên cứu ở Mexico đã chỉ ra rằng cá giò tăng trƣởng nhanh ở tuổi thứ hai sau đó giảm dần. Tuổi thọ lớn nhất của cá khoảng 5 năm đối với cá sống ở vùng lạnh và khoảng 10 năm tuổi đối với cá sống ở vùng ấm hơn. Cá cái có kích thƣớc lớn hơn và tăng trƣởng nhanh hơn cá đực (Đỗ văn Khƣơng và ctv, 2001). Trong sinh sản nhân tạo: Cá mới nở có chiều dài khoảng 2 – 3 mm. Sau thời gian 30 – 40 ngày, có chiều dài 4 – 6cm, sau 2 tháng đạt chiều dài 8 – 10cm. Khi nuôi thƣơng phẩm, sau thời gian nuôi 10 – 12 tháng cá có thể đạt khối lƣợng: 4 – 6kg/con. Cá giò là loài cá có tình trạng sức khỏe tốt, dễ thích nghi với điều kiện môi trƣờng, ít bị bệnh. Trong khi nuôi, cá khỏe mạnh thƣờng bơi lội, bắt mồi nhanh. Cá yếu, bị bệnh hoạt động chậm, lờ đờ, nổi trên mặt nƣớc hay ven lồng. Cá chim vây vàng. Hiện ở Việt Nam có 2 loài: cá chim vây vàng vây ngắn (T.blochii) sinh trƣởng chậm thành thục sớm, cá chim vây vàng vây dài(T. Falcatus)có kích thƣớc tƣơng đối lớn, kích thƣớc có thể đạt 45 - 60cm. Cá sinh trƣởng nhanh, trong điều kiện nuôi bình thƣờng 1 năm đạt 0,5-1,0 kg/con. Từ năm thứ 2 trở đi mỗi năm khối lƣợng tăng tuyệt đối là 1,0 kg.(Lê Xân và CTV, 2007) Cá hồng Mỹ sinh trƣởng nhanh, kích thƣớc cơ thể lớn nhất bắt gặp ngoài tự nhiên là 55cm, nặng 45kg. Cá sinh trƣởng chậm ở giai đoạn đầu và tăng nhanh sau khi đạt cỡ 50g trở lên. Ấu trùng 1 ngày tuổi có chiều dài 2mm, sau 35 ngày ƣơng đạt cỡ 30 - 40mm. Cỡ cá 6 – 8g nuôi bằng thức ăn công nghiệp có hàm lƣợng protein 40% và 38 lipid 10% sau 1 năm nuôi thâm canh trong ao đạt khối lƣợng từ 1,0 –1 ,5 kg, năng suất 9 – 24 tấn/ha, tỷ lệ sống 88,7 – 94,9%, hệ số FCR 2,5 – 2,60. Trong nuôi thƣơng phẩm bằng lồng trên biển, cá sinh trƣởng chậm hơn, sau 1 năm đạt 0,9 -1,2 kg ( FAO, 2004). Cá chẽm tăng trƣởng chậm ở giai đoạn đầu, khi đạt 20 – 30g tốc độ tăng trƣởng nhanh hơn và chậm lại khi đạt khối lƣợng khoảng 4 kg/con. Ở ngoài tự nhiên cá tuổi 1 + đạt chiều dài 30cm, tuổi 3+: 58cm, tuổi 4+: 69 cm, tuổi 6 – 9+ đạt chiều dài từ 85 – 100cm. Có con sống trên 30 năm có chiều dài hơn 50cm, nặng khoảng 55 kg. Trong điều kiện nuôi, cá mới nở có chiều dài trung bình 0,49 cm, sau 20 ngày uơng cá đạt cỡ 1-2cm, sau 30 ngày cỡ 2-3cm, sau 40 – 50 ngày đạt cỡ cá giống 4-6cm. Từ cỡ này trở lên có thể đƣa ra ao hoặc lồng nuôi thƣơng phẩm. Sau 8 tháng nuôi cá có thể đạt 600g –1kg/con, 1 năm đạt 800g –1,5 kg/con, 2 – 3 năm có thể đạt 3 – 5 kg/con. Các loài cá hồng có tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối nhanh, kích thƣớc thƣờng từ 40-80cm, tối đa có thể đạt 50cm chiều dài, khối lƣợng cơ thể lớn nhất đã công bố là 8,7 kg và độ tuổi lớn nhất là 3 tuổi [2; 3], Trong điều kiện nhân tạo, cá mới nở có chiều dài 0,56 - 0,87mm, sau 30 - 40 ngày đạt chiều dài 2,5 - 3,0cm và sau 3 tháng đạt 7,5mm, khối luợng 7,5 g/con. Cá giống cỡ 3cm, khối lƣợng 20g/con, sau 10 tháng nuôi cá đạt đƣợc 890 g/con, tỷ lệ sống 83%. Cá 30 g/con, sau thời gian 9 - 10 tháng nuôi cá đạt cỡ 500 - 960 g/con, kích thƣớc 28cm, tỷ lệ sống đạt 95% [2,3]. Các loài cá mú. Tăng trƣởng của cá mú khác nhau tùy loài loài, một số loài cá mú nuôi sau 1 năm đạt khối lƣợng: 0,3 – 0,4 kg/con cá mú đỏ (Cephalopholis miniata), cá mú chấm đỏ (E. akaara) , 0,6 - 0,8 kg cá mú chấm đen (E. malabaricus) và cá mú chấm cam (E. coioides), 1,0 -1,2 kg cá mú mỡ (E. tauvina) , 3 – 4 kg cá mú nghệ (E. lanceoratus), cá mú nghệ là loài lớn nhất trong họ Serranidae, cỡ khai thác lớn nhất là 50 kg. Trong điều kiện nuôi, sau 2 đến 5 tháng, hầu hết các loài cá mú đều đạt kích cỡ thƣơng phẩm (> 500g đến 1, 5kg/con). (Lê Xân và CTV 2007) 39 BÀI II. LỰA CHỌN NHÀ CUNG CẤP CÁ GIỐNG. 1. Giới thiệu tình hình sản xuất giống và hiện trạng các trại sản xuất giống cá biển ở Việt Nam 1.1 Tình hình sản xuất giống cá biển ở Việt Nam Đến năm 2009, Việt Nam đã nghiên cứu thành công hoặc nhập công nghệ sản xuất giống loài cá biển. (Bảng 2.1) Bảng 2. 1: Kết quả nghiên cứu và sản xuất giống cá biển đến năm 2009. TT Loài cá Tên đơn vị có công nghệ Số lƣợng cá sản xuất năm 2009. Các đơn vị tham gia sản xuất 1 Cá Song Chấm Nâu mú đen (Epinephelus coioides) Viện nghiên cứu NTTS I 800.000 con Viện NC NTTS I Viện NC NTTS II 2 Cá Song Chuột (Cromileptes altivelis) Viện nghiên cứu NTTS I 200.000 Viện nghiên cứu NTTS I 3 Cá Song Vằn-mú cọp (E. fuscoguttatus) Viện nghiên cứu NTTS I 20.000 Viện NC NTTS I, II,III 4 Cá Song vua-mú nghệ (E. lanceolatus) Viện nghiên cứu NTTS I 10.000 Viện nghiên cứu NTTS I 5 Cá Giò (Rachycentron canadum) Viện nghiên cứu NTTS I 1.000.000 con Viện NCNTTS I Các trại tôm giống 6 Cá song lai (E.hybrid) (E. lanceolatus X E. fuscoguttatus) Viện nghiên cứu NTTS I 20.000 con Viện NCNTTS I 7 Cá Hồng Mỹ (Scyaenops ocellatus) Viện nghiên cứu NTTS I 1.000.000 con Viện NCNTTS I Các trại tôm giống ở H. Phòng, Q. Ninh 40 8 Cá Vƣợc-Chẽm (Lates calcarifer) Viện nghiên cứu NTTS II, Trƣờng ĐHTS 1.500.000 con Viện NC NTTS II, các trại sản xuất giống ở miền Trung 9 Cá Vƣợc Mõm nhọn (Psammoperca waigiensis) Trƣờng ĐHTS 20.000 con Viện NC NTTS II, các trại sản xuất giống ở miền Trung 10 Cá Chim Vây Vàng (Trachinotus blochi) và T. falcatus Trƣờng CĐTS IV, nhập CN từ Trung Quốc 800.000 Viện nghiên cứu NTTS I, Trƣờng Cao đẳng Thủy sản 11 Cá Hồng Bạc (L. argentimaculatus) Viện nghiên cứu NTTS I 20.000 Viện nghiên cứu NTTS I (Số liệu thống kê của Viện nghiên cứu NTTS I) Tuy đã có công nghệ sản xuất giống của 11 loài nhƣng thực sự đã chủ động đƣợc công nghệ, có thể sản xuất đáp ứng nhu cầu nuôi công nghiệp là: cá Vƣợc, cá Giò, cá Chim vây vàng, cá Mú chuột, cá mú chấm đen, cá hồng Mỹ, cá Hồng bạc; 4 loài mú cọp, mú lai, mú nghệ và vƣợc mõm nhọn, đang ở qui mô thí nghiệm. Trừ đối tƣợng cá vƣợc đã đƣợc nhiều trại sản xuất, các loài còn lại cũng chỉ mới đƣợc sản xuất trong cơ sở của các Viện nghiên cứu, trƣờng Đại học và một số ít các doanh nghiệp do những lý do sau: - Công nghệ phức tạp, đầu tƣ tốn kém nhƣng lợi nhuận thấp, rủi ro lớn nên chƣa thu hút đƣợc sự đầu tƣ của các doanh nghiệp hay ngƣ dân. - Nhà nƣớc tuy đã có những chủ trƣơng chính sách khuyến khích phát triển nuôi biển nhƣng thiếu các biện pháp cụ thể bằng ƣu tiên đầu tƣ cho các đề tài, dự án nghiên cứu để giải quyết dứt điểm trong một thời gian ngắn việc chủ động đƣợc công nghệ sản xuất giống một số loài có giá trị kinh tế cao. - Chƣa có đàn cá bố mẹ “hùng hậu” đảm bảo sản xuất ra một lƣợng lớn cá giống chất lƣợng tốt nhƣng giá thành hạ và khi triển khai các đề tài nghiên cứu trong 3-4 năm khó có thể giải quyết chủ động đƣợc một số loài. 41 - Công nghệ sản xuất giống một số loài đã chủ động đƣợc thì chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi, chƣa đƣợc xã hội hóa để khích lệ mọi ngƣời sản xuất, tìm mọi phuơng pháp cải tiến, nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm. - Một số loài đƣợc đầu tƣ nhập công nghệ nhƣng sau đó không có sự tiếp nối để duy trì, tuyển chọn bổ sung và quản lý chất lƣợng đàn bố mẹ dễ dẫn đến công nghệ nhập xong là kết thúc, không phổ biến hay phát triển đƣợc. Muốn phổ biến, chuyển giao công nghệ thì không có cá bố mẹ. - Có loài đƣợc nghiên cứu thành công CN giống nhƣng sau đó không đƣợc tiếp tục nghiên cứu chất lƣợng di truyền (cá giò) dễ dẫn đến thoái hóa. - Nuôi cá biển thực sự chƣa phát triển ở Việt Nam. Các vùng nuôi cá biển hiện nay chủ yếu là nuôi nâng cấp : giống bắt tự nhiên, cho ăn cá tạp để nuôi và bán khi có ngƣời mua. Một số khu vực nhƣ Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Yên, Khánh Hòa tuy đã phát triển nuôi cá biển nhƣng chủ yếu vẫn nhỏ lẻ, chƣa tạo ra một lƣợng đáng kể sản phẩm của bất cứ loài nào để yêu cầu một lƣợng giống lớn, khuyến khích các đơn vị làm giống. Một số Công ty Đài Loan, Nauy, Nga đã bắt đầu đầu tƣ nuôi cá biển qui mô công nghiệp ở Khánh Hòa, Phú Yên nhƣng chúng ta không nắm đƣợc thông tin. Các công ty này và những đơn vị sản xuất đƣợc giống cá biển trong nƣớc chƣa thực sự gắn kết với nhau dẫn đến họ phải mua cá giống trôi nổi, nhập khẩu cá giống từ nƣớc ngoài dẫn đến giá thành cao và dễ bị bệnh.Từ năm 2006-2009, 2 Công ty 100% vốn nƣớc ngoài nuôi cá biển ở Phú Yên (Công ty An Hải của Nga và Công ty Marinfarm của Nauy) đã mua cá giò giống (10-12cm) của Viện nghiên cứu NTTS I với số lƣợng 2006: 20.000 con, 2007: 50.000 con , 2008; 2009: 350.000 con. Thông tin từ các Công ty này cho biết: 100% sản phẩm của họ đều xuất khẩu, tỷ lệ sống trung bình 70%, cá thƣơng phẩm trung bình 10kg/con. Nhƣ vậy, giống cá biển của VN đã có thƣơng hiệu về chất lƣợng. 1.2 Hiện trạng các trại sản xuất giống 42 Hình 2. 1: Nhà xưởng, ao ương giống của Trung tâm Quốc gia giống Hải sản miền Bắc tại Cát Bà, Hải Phòng. Việt Nam hiện nay đã có hàng trăm trại sản xuất tôm giống có năng lực sản xuất từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu tôm giống/năm/trại. Tuy nhiên, chƣa có các trại chuyên sản xuất giống cá biển. Nhận thức đƣợc chiến lƣợc phải phát triển nuôi biển, Bộ Thủy sản (cũ) và Tổng cục Thủy sản đã cho đầu tƣ xây dựng 3 Trung tâm Quốc gia giống Hải sản trực thuộc các Viện I,II,III từ những năm 2005-2009. Về cơ sở hạ tầng: các trại này có đủ năng lực để nghiên cứu, sản xuất, xây dựng qui trình công nghê sản xuất giống các loài cá biển kinh tế, nhuyễn thể, tôm biển và tập kết nuôi đàn cá bố mẹ các loài cá phục vụ sản xuất giống. Tuy nhiên, do những khó khăn đã nêu, hiện nay các cơ sở này vẫn chƣa phát huy hết năng lực của mình. Vấn đề là nhu cầu cá giống? Khi có nhu cầu, có thị trƣờng tiêu thụ cá giống, các cơ sở này và các trại tôm giống (hiện không hoạt động và đang hoạt động) sẽ nhanh chóng tiếp thu công nghệ, sản xuất và hoàn thiện công nghệ. 2. Nguồn gốc cá giống và ảnh hưởng tới an toàn sinh học, chất lượng Để có thể phát triển nuôi cá biển qui mô công nghiệp hiệu quả cần thiết cá giống phải đảm bảo chât lƣợng, an toàn sinh học. Có thể phân tích chất lƣợng cá giống (tƣơng đối, tóm tắt) sản xuất trong các mô hình nhƣ sau: 2.1 Cá giống nuôi trong bể của các trại giống. Cá giống đƣợc sản xuất trong trại giống có hệ thống bể ƣơng bằng xi măng. Có hai giai đoạn: Ƣơng từ ấu trùng mới nở đến cá hƣơng (hết biến thái) cỡ 2 – 3cm và ƣơng giống từ 2 - 3cm đến cỡ nuôi thƣơng phẩm bằng lồng (10 – 12cm hoặc 5-8cm 43 chiều dài tùy theo loài). Cá đƣợc ƣơng trong điều kiện hạn chế tối đa sự xâm nhập của mầm bệnh. Hệ thống bể, trang thiết bị dụng cụ đƣợc vệ sinh, khử trùng và nguồn nƣớc đƣợc xử lý trƣớc khi sử dụng. Thức ăn giàu dinh dƣỡng, đầy đủ, có hệ thống sục khí, cá đƣợc ƣơng ở mật độ cao. Do đƣợc ƣơng trong điều kiện quản lý tốt các yếu tố đầu vào, nên đã loại bỏ đƣợc các mầm bệnh thông thƣờng đối với cá giống. 2.2 Cá giống nuôi trong ao. Cá giống đƣợc ƣơng trong ao đất từ khi mới nở đến kích cỡ đƣa ra lồng nuôi thƣơngphẩm: Ấu trùng đƣợc thả thẳng xuống ao ƣơng có diện tích từ 1000 - 2.000m2 từ giai đoạn mới nở. Thức ăn sống (Rotifer, Copepoda) cho ấu trùng đƣợc gây nuôi tự nhiên trong ao bằng bột cá, bột đậu nành, chế phẩm sinh học... nên chi phí thấp. Mật độ cá ƣơng từ 300 - 500 con/m2. Việc quản lý chất lƣợng môi trƣờng ao ƣơng có ý nghĩa quyết định tới chất lƣợng cá giống. Thực tế cho thấy, cá giống thƣờng nhiễm ký sinh trùng hoặc giun sán nếu môi trƣờng ao nuôi không đƣợc cải tạo, diệt tạp, tẩy trùng kỹ trƣớc khi ƣơng cá. 2.3 Cá giống nuôi trong lồng nổi (giai) hay mƣơng nổi đặt trong ao. Cá giống nuôi trong giai, lồng lƣới nổi trong ao hay trên vịnh kín, nuôi trong máng nổi đặt trong ao giai đoạn từ cá hƣơng lên cá giống cũng có ƣu nhƣợc điểm tƣơng tự nhƣ nuôi. Cá có thể lớn nhanh do tận dụng thêm thức ăn tự nhiên nhƣng dễ nhiễm ký sinh trùng, giun sán. 2.4 Cá giống nhập khẩu. Cá giống nhập khẩu tuy đƣợc kiểm định ở nƣớc xuất khẩu nhƣng do không rõ nguồn gốc nên thƣờng mang sẵn mầm bệnh. Đặc biệt, cá nhập từ Trung quốc, theo đƣờng tiểu ngạch tỷ lệ mang mầm bệnh rất cao, chất lƣợng cá giống thấp, dƣ lƣợng kháng sinh lớn nên cá chậm lớn và dễ bùng phát bệnh, chết hàng loạt. Nuôi công nghiệp nhất thiết phải coi trọng chất lƣợng cá giống. Các trại nuôi cần phát triển theo hƣớng đảm bảo an toàn sinh học. Để xác định mức độ an toàn sinh học đối với các nguồn cá giống có thể dựa vào các tiêu chí ở Bảng sau: 44 Bảng 2. 2: Mức độ đáp ứng tiêu chí an toàn sinh học của cá giống có nguồn gốc khác nhau. TT Tiêu chí 1 (ƣơng bể) 2(ƣơng ao) 3(ƣơng mƣơng nổi) 4(nhập khẩu) 1 Nguồn gốc cá bố mẹ. Có Có thể Có thể Không 2 Kiếm soát bệnh cá bố mẹ. Có Có thể Có thể Không 3 Kiểm soát chất lƣợng cá bố mẹ. Có Có thể Có thể Không 4 Kiểm soát nguồn nƣớc trại đẻ và ƣơng ấu trùng sớm. Có Có thể Có thể Không 5 Kiểm soát nguồn nƣớc trại ƣơng giống. Có Mức độ Không Có 6 Kiểm soát thức ăn ấu trùng đến cá hƣơng. Có Khó Có thể Không 7 Kiểm soát thức ăn cá hƣơng đên giống Có Khó Khó Có 8 Vô trùng cơ sở vật chất, trang thiết bị Có Khó không Có thể 9 Vệ sinh nhân lực Có Khó không Có thể 0 Sự dụng chế phẩm sinh học tăng cƣờng sức khỏe cá giống Có Có Có Có thể Sự dụng chế phẩm sinh học phòng trị bệnh. Có Có Có Có thể 2 Cách ly mầm bệnh từ bên ngoài Có Hạn chế Hạn chế Hạn chế 3 Khả năng nhiễm bệnh không Có Có Có 4 Cách ly cá bị bệnh Có Hạn chế Hạn chế Hạn chế 5 Xử lý bệnh cá giống khi thu hoạch Có Có thể Có thể Có thể 45 6 Dƣ lƣợng kháng sinh Kiểm soát có thể Có thể khó 7 Tỷ lệ sống Cao Thấp Tr.bình Có thể cao 8 Tốc độ sinh trƣởng Trung bình cá lớn nhanh Trung bình Trung bình 9 Hồ sơ lý lịch cá giống Có Có thể Có thể Khó 20 Giá thành cá giống Cao Thấp Thấp Cao 3. Kiểm tra bệnh, ký sinh trùng Các tác nhân gây bệnh trên cá biển có thể là virus, vi khuẩn và ký sinh trùng. Nhƣng thƣờng gặp nhất là các bệnh do ký sinh trùng. 3.1 Kiểm tra bệnh do virus, vi khuẩn Triệu chứng: cá bị bệnh thƣờng ăn ít hoặc bỏ ăn, bơi lờ đờ riêng rẽ trên mặt nƣớc hoặc bám vào lƣới, thành bể, bờ ao không theo đàn; cơ thể có thể bị lở loét hoặc không, có thể bị chuyển màu đen. Khi phát hiện trong bể, trong lồng hay ao có những cá thể có triệu chứng trên nhất thiết phải lấy mẫu gửi về phòng thí nghiệm để kiểm tra, xác định và có biện pháp xử lý hay quyết định có mua cá hay không. 3.2 Kiểm tra bệnh do ký sinh trùng Trong quá trình ƣơng cá, cá có thể bị nhiễm ký sinh trùng. Nếu thấy cá có biểu hiện bất thƣờng nhƣ bơi không có định hƣớng, thƣờng cọ mình vào lƣới lồng, da chuyển màu xám bạc, nhợt nhạt, mất nhớt, thƣờng nổi lên mặt nƣớc và bỏ ăn. Lấy mẫu bệnh phẩm ở mang hoặc dịch nhầy trên da, soi tươi trên kính hiển vi có độ phóng đại từ 100 đến 200 lần sẽ nhìn thấy KST, sán lá đơn chủ có thể nhìn thấy bằng mắt thƣờng. Ký sinh trùng ký sinh ở da, mang, vây các loài cá biển. Ký sinh trùng thƣờng gây chết hàng loạt cá ƣơng thƣờng là do một số loài ngoại ký sinh thuộc giống Trichodina (trùng bánh xe) thƣờng gặp nhất là loài Trichodina rostrata và Sán lá đơn chủ Monogenea (mò cá) (Diplectanum querni). Trùng bánh xe có dạng hình tròn, đƣờng 46 kính từ 40-56µm, vận động theo kiểu quay tròn cơ thể nhƣ bánh xe, bám vào cơ thể cá nhờ đĩa bám. Trùng bánh xe sinh sản vô tính bằng cách phân đôi, thƣờng diễn ra quanh năm, sau khi rời cơ thể cá, chúng có thể sống tự do trong nƣớc đƣợc 1-5 ngày. Đây là nguyên nhân trùng bánh xe dễ lây lan từ cá thể này sang cá thể khác. Hình 2. 2: Trùng bánh xe (Trichodina rostrata) và sán lá đơn chủ (Diplectanum querni) Sán lá đơn chủ (Diplectanum querni) ký sinh trên da, mang cá. Hình dạng cấu tạo cơ thể có các đặc điểm chung của giống Diplectanum nhƣ: có 4 điểm mắt, hai điểm mắt phía trên thƣờng nhỏ và nằm cách xa nhau hơn hai điểm mắt phía dƣới. Cơ quan bám phía trƣớc phân thành 6 thùy. Phía sau cơ thể là đĩa bám sau có 4 móc rìa, 2 cặp móc giữa, 2 giác bám kitin, trên giác bám kitin có những vòng kitin nhỏ. Sán có chiều dài khoảng 800 – 840μm; chiều rộng khoảng 400μm. Cơ quan giao cấu đực có dạng phễu, chia thành 4 thùy, cơ quan giao cấu cái có dạng hình bông hoa, thanh nối bụng của D. querni cong hơn các loài khác. Khi cá bị bệnh nặng, một số lƣợng lớn KST bám gần kín bề mặt của mang khiến cá bị ngộp do không lấy đủ lƣợng oxy hoà tan để cung cấp cho cơ thể. Ngoài ra, KST còn phá hủy cấu trúc của mang nên mang ngày càng mất dần chức năng hô hấp. Bệnh thƣờng xuất hiện vào mùa nắng nóng, nhiệt độ cao hoặc vào mùa mƣa, đặc biệt khi nƣớc vùng nuôi bị đục và hàm lƣợng chất hữu cơ lơ lửng cao. Bệnh này thƣờng gây hậu quả nghiêm trọng trên cá cá giống, cá thƣơng phẩm. Tỷ lệ chết có thể lên đến 90% trong vòng 48 giờ. 47 + Kiểm tra trên kính hiển vi. + Lấy mẫu gửi về phòng thí nghiệm ở các trƣờng, viện nghiên cứu: Đối với cá có dấu hiệu bị bệnh, ngƣời nuôi cần liên lạc với các cơ quan liên quan nhƣ phòng thí nghiệm bệnh cá của cơ quan Thú y thuỷ sản hoặc Trƣờng, Viện nghiên cứu để đƣợc tƣ vấn và kiểm tra kịp thời. Thu mẫu cá còn sống, chuyển về phòng thí nghiệm để kiểm tra. 48 BÀI III: LỰA CHỌN, VẬN CHUYỂN VÀ THẢ CÁ GIỐNG. 1. Lựa chon, xác định số lượng (đếm) cá giống 1.1 Tiêu chuẩn chọn giống - Quan sát tại chỗ: Cá phải khoẻ mạnh, đồng đều về kích cỡ, không bị xây xát, không bị dị hình, 2 mắt sáng, hoạt động nhanh, sống tụ đàn. - Kiểm tra hồ sơ (rất cần nếu có thể): cá bố mẹ, nhật trí quá trình ƣơng nuôi, bệnh và biện pháp đã xử lý, kháng sinh đã sử dụng... - Kiểm tra mầm bệnh: (ngƣời mua lấy mẫu đi kiểm tra hoặc xem xét hồ sơ kiểm nghiệm của Trại giống) cá không mang các mầm bệnh, không lở loét. 1.2 Định lƣợng cá giống Cá giống đƣợc định lƣợng phổ biến bằng cách đếm từng cá thể. Nếu số lƣợng lớn có thể cân mẫu (-2 kg/mẫu), đếm số lƣợng cá trong mẫu, sau đó quy đổi ra số lƣợng trên cơ sở tổng khối lƣợng mẫu đƣợc cân. Lƣu ý việc lấy mẫu để cân phải đƣợc tiến hành ngẫu nhiên và tiến hành tối thiểu 3 lần, sau đó tính trung bình giữa các lần đếm số lƣợng cá trong các mẫu. 2. Kỹ thuật vận chuyển cá giống Hiện nay có 2 hình thức vận chuyển phổ biến: vận chuyển kín và vận chuyển hở 2.1 Phƣơng pháp vận chuyển kín. Phƣơng pháp vận chuyển kín bằng túi nylon bơm oxy thông thƣờng đƣợc tiếnhành với cá giống có chiều dài nhỏ hơn 5cm. Túi nylon thể tích từ 0 đến 20 lít. Hai túi lồng vào nhau, bên ngoài có bao bảo vệ. Nƣớc vận chuyển đƣợc lọc sạch, chiếm khoảng /3 thể tích của túi. Cá giống vận chuyển với mật độ từ 20 – 60 con/l, tuỳ theo loài, kich thƣớc cá và thời gian vận chuyển. Túi nylon đƣợc bơm căng khí oxy, buộc chặt, xếp lên ô tô vận chuyển. Trƣờng hợp vận chuyển số lƣợng lớn, túi đƣợc đặt vào thùng xốp hoặc carton, dán băng keo kín và xếp lên phƣơng tiện vận chuyển.Phƣơng tiện vận chuyển, tuỳ thuộc vào khoảng cách,điều kiện có thể vận chuyển bằng xe máy, ôtô hoặc máy bay... Thời gian vận chuyển sẽ quyết định mật độ. Nếu thời gian vận chuyển kéo dài > 5h cần có nơi trung chuyển để thay nƣớc, bổ sung Oxy 49 hoặc sử dụng hóa chất khử amoniac. Nhiệt độ phù hợp cho vận chuyển nên trong khoảng từ 20 – 24oC, ổn định trong suốt quãng đƣờng vận chuyển.  Một số vấn đề cần lƣu ý: - Trƣớc khi vận chuyển không nên cho cá ăn ít nhất một ngày, để tránh cá ói thức ăn và thải chất thải vào túi làm nhiễm bẩn nƣớc trong quá trình vận chuyển. - Giảm nhiệt độ nƣớc xuống 20 – 25oC, tốt nhất là vận chuyển bằng ô tô có máy điều hòa nhiệt độ để ổn định nhiệt trong quá trình vận chuyển. - Thuần hóa cá giống: Tiến hành hạ độ mặn để thuần hóa cá nếu độ mặn khu vực nuôi thƣơng phẩm thấp hơn ở trại giống > 3%o. Hình 3. 1: Bơm oxy, đóng túi nylon vận chuyển cá giống. 2.2 Phƣơng pháp vận chuyển hở. Phƣơng pháp này thƣờng đƣợc áp dụng đối với cá giống có chiều dài lớn hơn 5cm và tùy thuộc điều kiện giao thông thủy bộ của quãng đƣờng. Phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vận chuyển là ô tô hoặc tàu thông thuỷ. Ô tô chuyên dụng có thiết bị ổn định nhiệt độ ở mức 22 - 240C thƣờng dùng để vận chuyển cá đƣờng dài. Cá giống đƣợc vận chuyển bằng tàu thông thuỷ sẽ an toàn hơn, mật độ cao hơn, cá giống khoẻ hơn so với vận chuyển bằng ô tô. - Vận chuyển bằng tàu thông thuỷ: mật độ cá vận chuyển dao động từ .000-.400 con/m 3 (cỡ cá từ 5 - 20 cm); mật độ từ .400-.500 con/m3 (cỡ cá 0 - 5cm) và .500- 2.000 con/m 3 đối với cỡ cá từ 5 - 0cm. 50 - Đối với vận chuyển bằng ô tô chuyên dụng: mật độ cá vận chuyển dao động từ 600- 800 con/m 3 , với cỡ từ 5-20cm; 800-1.000 con/m3 với cá cỡ từ 10-15cm và 1.000-1.300 con/m 3 với cá cỡ 15-20cm. Vận chuyển bằng ô tô chuyên dụng, ngoài nhiệt độ nƣớc, mật độ cá phù hợp, thì nƣớc trong bể cần đƣợc thay mới 70 - 80% sau mỗi 8-10 giờ để hạn chế cá bị ngộ độc do NH3, NO2 - và do các sản phẩm thải của chúng trong thời gian vận chuyển. Nên sử dụng viên khử NH3 để nâng cao hiệu quả vận chuyển cá giống. Cá trƣớc khi vận chuyển cũng nên bỏ đói trong thời gian từ 6 -10 giờ để hạn chế chất thải phát sinh và gây tress đối với cá do bị sức ép. 3. Tắm cá giống trước khi thả nuôi Cá giống mới vận chuyển đến trƣớc khi thả vào lồng nuôi cần tiến hành tắm nƣớc ngọt hoặc formalin nồng độ 37% pha loãng 10 - 15ml/100 lít nƣớc để tắm trong 20 - 40 phút để loại bỏ các loài sinh vật ngoại ký sinh trên cá, 4. Thả giống. Thuần hoá nhiệt độ và độ mặn - Độ mặn: Độ mặn đã đƣợc thuần hóa tại trại giống. Tại trại giống độ mặn thƣờng chỉ đƣợc hạ xuống ở mức còn cao hơn độ mặn nơi nuôi cá khoảng 3%o. Khi cá đƣợc vận chuyển về cần tiếp tục thuần hóa. - Nhiệt độ: Trong xe vận chuyển nhiệt độ đƣợc duy trì 20-25oC nên nhiệt độ nơi nuôi cá thƣờng cao hơn. Đề tránh cá bị sốc cần thiết phải thuần hóa trƣớc khi thả: thả các túi nilong chứa cá xuống lồng để cân bằng nhiệt độ nƣớc bên ngoài và trong túi. Sau đó, mở miệng túi cho nƣớc vào từ từ cho đến khi đầy túi mới thả cá ra ngoài. Nếu vận chuyển hở, cần đƣa nƣớc bên ngoài vào thùng chứa cá để cân bằng cả nhiệt độ và độ mặn. Không nên thả cá khi nhiệt độ còn chênh lêch >oC, độ mặn > 2%o. • Thời gian thả giống: Thời gian thả cá giống thƣờng vào thời điểm mát trời, chênh lệch nhiệt độ không khí với nhiệt độ nƣớc thấp. Thời điểm thả tốt nhất là trƣớc 8-9 giờ hoặc sau 6-7giờ. • Kích thước mắt lưới của túi lưới: Túi lƣới nuôi cá giống có kích thƣớc mắt không quá lớn để cá chui ra ngoài kể cả chui không lọt làm cá bị mắc vào mắt lƣới, nhƣng 51 cũng không quá nhỉ làm nƣớc kém lƣu thông, lƣới dễ bị xô đẩy do lực cản lớn. Tuỳ thuộc vào kích thƣớc và loài cá, kích thƣớc mắt lƣới đƣợc lựa chọn phù hợp. Bảng 3. 1: Kích thước (L mm) cá nuôi và cỡ mắt lưới lồng nuôi. Cỡ cá nuôi (L cm) Mắt lƣới 2a (cm) 0 – 5 1,5 5 – 20 2,0 20 – 30 3,0 trên 30 5,0 • Mật độ cá thả: tuỳ thuộc vào các loài cá, kích thƣớc cá giống lúc thả và cỡ cá thƣơng phẩm sẽ có mật độ thả giống khác nhau. Bảng 3. 2: Cỡ giống và mật độ thả ban đầu. Cỡ giống (L cm) Mật độ (con/m3) 5 – 7 70-80 7-0 60-70 0-5 40-50 5-20 30-35 >20 20-25 Trong quá trình nuôi, tùy loài mà duy trì mật độ (con/m3) khác nhau. Ở giai đoạn giống nhỏ, cá đƣợc phân cỡ và san thƣa 2 tuần/lần nhằm tạo sự đồng đều về kích thƣớc cá và mật độ nuôi phù hợp theo từng giai đoạn. Năng suất cá tại thời điểm thu hoạch từ 5-7 kg/m3 lồng là cơ sở để duy trì mật độ trong quá trình nuôi. 52 BÀI IV: DINH DƢỠNG, CÁC LOẠI THỨC ĂN VÀ CHẤT LƢỢNG, KỸ THUẬT CHO ĂN. 1. Lựa chọn thức ăn 1.1 Giới thiệu nhu cầu dinh dƣỡng của cá Hầu hết các loài cá biển là đối tƣợng nuôi đều là cá dữ, ăn thịt. Trong tự nhiên, thức ăn của chúng ở thời kỳ trƣởng thành là cá nhỏ, tôm, cua; thời kỳ cá bột là động vật phù du (luân trùng, copepod0. Trong sinh sản nhân tạo cá bột dinh dƣỡng nhờ khối noãn hoàng khoảng 3 ngày; sau đó cá bát đầu mở miệng và bắt đầu ăn thức ăn ngoài : luân trùng, Copepoda, ấu trùng Nauplius của Artemia. Khi hoàn thành biến thái, cơ thể hoàn toàn giống cá trƣởng thành- giai đoạn cá hƣơng- cá ăn cá, tôm băm nhỏ hoạc thức ăn tổng hợp. Thức ăn tổng hợp tốt nhất hiện nay cho cá hƣơng, cá giống là Otohim của Nhật (Lê Xân và ctv, 200) có hàm lƣợng Protein 50-60%. Giai đoạn nuôi cá thịt, thức ăn tổng hợp của cá biển thƣờng có hàm lƣợng Protein từ 35-45% cao hơn cá nƣớc ngọt(28-35%). Ngoài Protein, thức ăn cá biển cần có hàm lƣợng Lipid khoảng 8-10% và các vitamine. Với hàm lƣợng thức ăn trên, khẩu phần mỗi ngày dao động từ 3-5% khối lƣợng thân (Lê Xân và ctv, 2007) 1.2 Thức ăn viên, ƣu điểm thức ăn viên so với cá tạp Hiện nay, sử dụng cá tạp làm thức ăn nuôi cá biển vẫn đang phổ biến, nhất là trong nuôi truyền thống. Việc sử dụng cá tạp cho cá ăn sẽ dễ gây ô nhiễm môi trƣờng, dịch bệnh, khó kiểm soát nguồn thức ăn, không chủ động số lƣợng và chất lƣợng. Các loài cá biển nuôi hầu hết là cá dữ, ăn thịt, có tập tính ăn lẫn nhau, nếu không cung cấp đủ nhu cầu thức ăn thì cá lớn sẽ ăn cá bé, nhất là khi cá còn nhỏ. Hơn nữa, do hệ số chuyển đổi thức ăn –FCR lớn (từ 5-8), một lƣợng thức cá tƣơi lớn đƣợc sử dụng là nguồn phát sinh ô nhiễm môi trƣờng nƣớc và đáy, dẫn đến nguy cơ về dịch bệnh cho cá nuôi. Sử dụng thức ăn công nghiệp có thành phần dinh dƣỡng bổ sung đáp ứng nhu cầu của từng loài cá nuôi và có nhiều ƣu điểm hơn. Do hệ số chuyển đổi thức ăn -FCR chỉ dao động từ 1,4-1,6(có loại thức ăn chỉ cần hệ số 1,0), lƣợng thức ăn sử dụng ít, hạn chế đƣợc nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng vùng nuôi. Nguồn thức ăn ổn định trong mọi thời 53 tiết; giá thức ăn ổn định, ngƣời nuôi có thể chủ động tính toán đƣợc thời điểm xuất bán cá hoặc xác định quy mô đầu tƣ phù hợp Bảng 4. 1: So sánh thức ăn công nghiệp với cá tạp. Chỉ tiêu Thức ăn công nghiệp Cá tạp Bảo quản Dễ Khó Tính chủ động Chủ động Không chủ động Hệ số chuyển đổi thức ăn 1,4-1,6 5,5-8,0 Thành phần dinh dƣỡng phù hợp theo giai đoạn phát triển cá Có thể lựa chọn phù hợp Không phù hợp Ảnh hƣởng ô nhiễm môi trƣờng vùng nuôi Ít ảnh hƣởng Ảnh hƣởng 2. Chất lượng thức ăn Các loại thức ăn công nghiệp của các hãng khác nhau có chất lƣợng khác nhau. Thức ăn công nghiệp đạt chất lƣợng cần đáp ứng các yêu cầu sau: - Đáp ứng nhu cầu dinh dƣỡng cho từng loài cá nuôi: có hàm lƣợng Protein phù hợp với từng giai đoạn, từng loài cá; đầy đủ năng lƣợng; các loại vitamin, khoáng chất và acid béo omega-3 đảm bảo cá tăng trƣởng tốt và tỷ lệ sống tối ƣu - Có nhiều cỡ viên phù hợp với các giai đoạn phát triển của từng loài cá. Có mùi vị hấp dẫn, kích thích cá bắt mồi; có tính chất vật lý phù hợp với tính ăn của loài cá nuôi (cá giò, cá chẽm, cá chim vây vàng ăn thức ăn nổi; cá mú, cá hồng ăn thức ăn bán nổi) và có thời gian tan trong nƣớc phù hợp với mỗi loại thức ăn . - Có hệ số thức ăn(FCR) thấp, bao bì đóng gói bảo quản tốt đảm bảo không bị ẩm mốc, vụn nát hạn chế sự thất thoát thức ăn; - Thân thiện môi trƣờng, đảm bảo các tiêu chí về an toàn sinh học. - Từ cơ sở sản xuất lớn, có thƣơng hiệu, ổn định về giá và chất lƣợng. 2.1 Cỡ viên thức ăn 54 Hình 4. 1: Thức ăn công nghiệp cho cá biển. Thức ăn cho cá có nhiều cỡ viên và thành phần dinh dƣỡng khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của cá. Thức ăn vừa cỡ miệng cá sẽ giúp cho chúng bắt mồi dễ dàng, hạn chế đƣợc lƣợng thức ăn bị thất thoát ảnh hƣởng đến hiệu quả của ngƣời nuôi và hạn chế ô nhiễm môi trƣờng. Bảng 4. 2: Cỡ thức ăn phù hợp theo từng giai đoạn của cá. Cỡ cá (g) Cỡ thức ăn (mm) 0,5 - 1,0 0,5 -1 ,5 1,0 - 30,0 1,0 - 2,0 30,0 - 20,0 2,0 20,0 - 250,0 3,0 >250,0 4,0 2.2 Bảo quản thức ăn Thức ăn công nghiệp cho cá có chứa các thành phần dinh dƣỡng nhƣ protein, lipit, khoáng chất và các yếu tố vi lƣợng khác, đƣợc sản xuất bằng các nguyên liệu dễ ẩm mốc, biến tính nếu không đƣợc bảo quản tốt. Nơi bảo quản cần riêng biệt, xa các nơi để hóa chất, chất độc hại, khô ráo, không có chuột, gián hay các loại côn trùng. Nhữngtrang trại lớn, nếu có thể nên có kho lạnh bảo quản thức ăn riêng, nhiệt độ duy 55 trì -8 0 C, có thể duy trì đƣợc lƣợng lớn thức ăn đảm bảo chất lƣợng trong thời gian dài. 3. Quản lý thức ăn và phương pháp cho cá ăn 3.1 Thời gian cho ăn. - Giai đoạn cá giống: thƣờng đƣợc cho ăn 3-5 lần/ngày. Lƣợng thức ăn mỗi lần tùy thuộc nhu cầu của cá (cho ăn đến khi cá không còn muốn ăn). - Giai đoạn nuôi lớn: thƣờng cho ăn 2 lần/ngày: sang sớm (7-8h) và chiều muộn (6- 8h). 3.2 Lƣợng thức ăn và tỷ lệ cho ăn Lƣợng thức ăn cho cá hàng ngày (khẩu phần thức ăn) đƣợc tính từ 3 - 5% tổng khối lƣợng đàn cá trong lồng nuôi. Giai đoạn cá giống sẽ cần lƣợng thức ăn lớn hơn (4-5%) cá càng lớn lƣợng thức ăn cần thiết/ngày sẽ thấp dần 2-3%. Tuy nhiên, cách cho ăn hiệu quả là ngƣời cho ăn quan sát tình trạng của cá để cho ăn với lƣợng thức ăn vừa đủ theo nhu cầu của chúng. Tỷ lệ cho ăn các bữa trong ngày tùy thuộc vào tình trạng bắt mồi của cá và thƣờng buổi sáng cá ăn nhiều hơn buổi chiều. 3.3 Kỹ thuật cho cá ăn Cá đƣợc cho ăn hàng ngày bằng máy cho ăn tự động hoặc bằng tay, đƣợc thao tác bởi công nhân chăm sóc cá. Sử dụng máy cho ăn sẽ ƣu việt nhất là cho giai đoạn cá giống. Hình 4. 2: Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số chuyển đổi thức ăn FCR. Thức ăn: Chất lƣợng tốt? Giá hợp lý? Ngƣời chăm sóc cá: Hiểu biết, kiên nhẫn? Kinh nghiệm? Trách nhiệm? Cá: Khỏe? Sinh trƣởng tốt? Cỡ đồng đều? Không nhiễm bệnh ? Chất lƣợng môi trƣờng nuôi thích hợp? Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) 56 Cho cá ăn đúng kỹ thuật có vai trò quan trọng trong nuôi cá thƣơng phẩm quy mô công nghiệp. Luôn tuân thủ mục tiêu giảm chi phí thức ăn, nhƣng đảm bảo cá sinh trƣởng đồng đều trong quá trình nuôi. Nguyên tắc cho cá ăn là thức ăn phải đƣợc phân bố đều để các cá thể cá nuôi có thể bắt đƣợc mồi dễ dàng, cho ăn đủ lƣợng, không để dƣ thừa Vì thức ăn chiếm từ 55 - 60% chi phí đầu tƣ trực tiếp cho mô hình nuôi. Trong quản lý, chăm sóc cá đối với trang trại nuôi quy mô công nghiệp, thì hệ số thức ăn (FCR) thấp sẽ là yếu tố quan trọng làm tăng hiệu quả vụ nuôi. Hình 4. 3: Nhân công cho cá ăn và máy tự động cho cá ăn. 4. Theo dõi tình trạng sức khỏe cá. 4.1 Kiểm tra hoạt động của cá. Cá khỏe, thƣờng bơi lội nhanh, hoạt động liên tục (trừ các loài cá mú). Cá yếu hay bị bệnh, thƣờng bơi lội lờ đờ trên mặt nƣớc hay ven thành lồng lƣới, không theo đàn. Hàng ngày quan sát cá bơi lội và khả năng bắt mồi, lƣợng thức ăn sử dụng. Nếu thấy biểu hiện khác thƣờng: Cá bơi lội kém linh hoạt, đổi màu, cá ăn kém hoặc bỏ ăn thì giảm lƣợng thức ăn hoặc không cho cá ăn, sau đó tiến hành kiểm tra bệnh, môi trƣờng để có biện pháp xử lý kịp thời. Định kỳ lặn kiểm tra đáy lồng, cá chết hay yếu thƣờng chìm ở đáy. 4.2 Kiểm tra tốc độ tăng trƣởng của cá Định kỳ kiểm tra tốc độ sinh trƣởng của cá về khối lƣợng và kích thƣớc với tần suất lần/tháng để điều chỉnh chế độ chăm sóc và tính khẩu phần thức ăn cho cá phù hợp 57 dựa trên tổng khối lƣợng cá trong lồng. Qua đó đánh giá chất lƣợng, thành phần thức ăn. 4.3 San cá, duy trì khối lƣợng cá/m nƣớc Giai đoạn cá giống duy trì mật độ tùy kích thƣớc (Lmm) cá. Giai đoạn sau cá giống nhất là khi cá gần đạt cỡ thƣơng phẩm cần duy trì mật độ, khối lƣợng cá trong lồng khoảng từ 5 -7 kg/m3 lồng, bảo đảm cho cá có tốc độ tăng trƣởng nhanh, tỷ lệ sống cao, rút ngắn chu kỳ nuôi, tăng hiệu quả của nghề nuôi. 4.4 Phân cỡ cá Tại sao phải phân cỡ cá? Cá đồng đều sẽ có cƣờng độ bắt mồi nhƣ nhau, không săn đuổi nhau và tốc độ sinh trƣởng bằng nhau nên hiệu quả sử dụng thức ăn, hiệu quả nuôi cao. Cá không đồng đều, cá lớn sẽ chèn ép cá bé làm cá bé sợ sệt, không theo đƣợc đàn, ít có cơ hội bắt mồi dẫn đến sinh trƣởng chậm, còi cọc, dễ nhiễm bệnh chết rồi lây lan sang cá khỏe. Do vậy, phân cỡ cá cũng là giải pháp kỹ thuật quan trọng để nâng cao hiệu quả nuôi. 4.4.1 Phân cỡ bằng tay (phân cỡ bằng quan sát trực quan) Sử dụng các loại vợt có kích thƣớc mắt lƣới phù hợp với cỡ cá để vớt những cá thể có cỡ tƣơng đƣơng, chuyển sang nuôi cùng lồng. Khung vợt đƣợc làm bằng gỗ, inox; hình tròn hoặc vuông. Lƣới sử dụng làm vợt có kích thƣớc mắt lƣới 2a = cm đến 4cm, sâu khoảng 3 - 5cm. Hình thức phân cỡ này phù hợp với những cơ sở qui mô nhỏ, vùng nuôi là vịnh bán kín, lúc sóng gió lặng. 4.4.2 Phân cỡ cá bằng thiết bị chuyên dụng Thƣờng đƣợc sử dụng để tiến hành ở quy mô nuôi lớn, lƣợng cá nuôi nhiều và thƣờng sử dụng khi cá còn nhỏ. Cá đƣợc phân cỡ tự động ngay trong lồng nuôi hoặc trên tàu thuyền .(Hình 4.4) 58 Hình 4. 4: Lọc phân cỡ cá bằng sàng và bằng máy tự động Giai đoạn nhỏ, dƣới 100 g/con cá thƣờng phân đàn nhanh nên cần tiến hành phân cỡ 2 tuần/lần. Cá lớn, khoảng cách giữa các lần phân cỡ dài hơn cho đến khi cá trong lồng đã đồng đều về kích thƣớc, khối lƣợng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquy_trinh_van_hanh_trai_nuoi_ca_biencbqlttphan1_1798.pdf
Tài liệu liên quan