Bài giảng Bài 6: Khoa học - Công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế

Thực thi nghiêm túc luật pháp về khoa học-công nghệ. Cần phải tăng cường việc tuyên truyền vận động mọi tầng lớp xã hội ý thức thực hiện pháp luật, xử phạt nghiêm khắc những hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn cho các công chức hoạt động trong lĩnh vực này, bởi đây là lĩnh vực rất mới song lại đòi hỏi chuyên môn cao cũng như kinh nghiệm trong việc đánh giá thẩm định để xác định được đúng mức độ tính chất của hành vi vi phạm để đưa ra được cách xử lý chính xác.

pdf10 trang | Chia sẻ: chaien | Lượt xem: 1877 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Bài 6: Khoa học - Công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 1 BÀI 6: KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Chương VI gồm những nội dung sau: I. Bản chất, đặc điểm của khoa học - công nghệ II. Vai trò của khoa học - công nghệ với tăng trưởng kinh tế III. Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ I. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 1 . Khoa học *Khoa học theo nghĩa rộng bao gồm những đặc trưng:  Là một lĩnh vực hoạt động của con người. Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau: kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, thể dục thể thao, quốc phòng-an ninh trong đó có hoạt động khoa học.  Đối tượng nghiên cứu của khoa học là các sự vật, hiện tượng và quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Sở dĩ đối tượng nghiên cứu của khoa học rộng lớn như vậy vì để tồn tại và phát triển, con người phải quan tâm đến chính bản thân mình và tất cả những gì ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của mình.  Mục đích của hoạt động khoa học là tìm ra các thuộc tính, tính chất, kết cấu bên trong của mỗi sự vật và mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Những kết quả của hoạt động khoa học là làm tăng hiểu biết của con người về thế giới hiện thực. Những kết quả đó được gọi là tri thức khoa học. Tri thức khoa học là những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và về con người; được thể hiện bằng các phát minh dưới dạng lý thuyết, định lý, định luật, công thức, nguyên tắc *Theo nghĩa hẹp, khoa học là hệ thống tri thức về các sự vật, hiện tượng và quá trình của tự nhiên, xã hội và con người.  Khoa học sử dụng nhiều phương pháp khác nhau: thống kê, thực nghiệm, phân tích, tổng hợp Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 2  Sự phát triển của khoa học dẫn đến sự hình thành các ngành, chuyên ngành khoa học. Sự phát triển của khoa học làm cho con người tích luỹ được nhiều tri thức khoa học.  Khoa học được phân chia thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiên bao gồm các ngành khoa học nghiên cứu các sự vật, hiện tượng và quá trình tự nhiên. Đó là các ngành khoa học như: toán học, lý học, hoá học, sinh học... Khoa học xã hội bao gồm các ngành khoa học nghiên cứu các hiện tượng và quá trình xã hội. Đó là các ngành như: kinh tế học, tâm lý học, xã hội học, luật học... 2. Công nghệ *Có những quan niệm khác nhau về công nghệ. UNCTAD đưa ra định nghĩa về công nghệ đầy đủ hơn. “Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất và như vậy, nó được mua bán trên thị trường như một hàng hoá được thể hiện ở một trong những dạng sau: - Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua và bán trên thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định đầu tư. - Nhân lực, thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là nhân lực có trình độ cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng các thiết bị và kỹ thuật và làm chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin. - Thông tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra trên thị trường hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc quyền”. Đây là định nghĩa khá đầy đủ, chỉ ra được cấu trúc của công nghệ và đặc biệt đã gắn công nghệ với cơ chế thị trường. Theo Luật khoa học-công nghệ của Việt Nam năm 2000 thì công nghệ “là tập hợp các phương pháp, các quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. Công nghệ bao gồm phần cứng, hữu hình và phần mềm, vô hình. Phát triển công nghệ gồm cả phần cứng (máy móc, thiết bị...), phần mềm (phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích...). *Trên cơ sở ưu, nhược điểm của các quan niệm trên, có thể đưa ra khái niệm công nghệ như sau: Công nghệ là tập hợp những giải pháp kỹ thuật để chế tạo ra hàng hoá và dịch vụ; là toàn bộ quá trình biến các nguồn lực thành sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu của thị trường. Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 3 Theo khái niệm trên, bản chất của công nghệ là kỹ thuật (Công nghệ là tập hợp những giải pháp kỹ thuật để chế tạo ra hàng hoá và dịch vụ). Như vậy, giữa khái niệm công nghệ và khái niệm kỹ thuật không có sự khác biệt về bản chất. Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng giữa hai khái niệm này là ở chỗ, công nghệ thể hiện mục đích của các hoạt động kỹ thuật trong cơ chế thị trường (là toàn bộ quá trình biến các nguồn lực thành sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu của thị trường). Hiện nay, cơ chế kinh tế thế giới sử dụng là cơ chế thị trường. Do đó, việc sử dụng khái niệm công nghệ phổ biến hơn khái niệm kỹ thuật là điều dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, công nghệ gồm bốn thành phần:  Thứ nhất, Thành phần kỹ thuật (technoware) bao gồm các thiết bị, máy móc kỹ thuật, nhà xưởng... mang hình thái vật thể “hữu hình”.  Thứ hai, Là thành phần thông tin phi vật thể “vô hình” (inforeware) gồm các bí quyết, phát minh, sáng chế, quy trình công nghệ, phương pháp công nghệ, cách thức xử lý giải pháp công nghệ...  Thứ ba, Thành phần nhân lực (humanware) gồm kiến thức, kỹ năng, trình độ tay nghề, kinh nghiệm, về các lĩnh vực của người lao động, khả năng thích ứng với các điều kiện sản xuất của người lao động...  Thứ tư, Thành phần tổ chức (orgaware) gồm việc tổ chức, quản lý, điều hành, kiểm tra, điều phối bố trí các nguồn lực... 3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ  Từ khái niệm khoa học và khái niệm công nghệ được đề cập ở trên, có thể thấy rằng, khoa học, công nghệ là hai khái niệm khác nhau. Khoa học phải tìm tòi, phát minh ra tri thức mới; công nghệ là việc ứng dụng tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống, là việc ứng dụng những phát minh khoa học vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.  Hai khái niệm đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những thành tựu về khoa học là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển công nghệ. Sự phát triển công nghệ, một mặt, làm cho các thành tựu khoa học được ứng dụng trong thực tiễn, làm cho hoạt động khoa học mang tính thực tiễn, phục vụ thực tiễn. Mặt khác, sự phát triển của công nghệ làm cho hoạt động thực tiễn của con người có hiệu quả cao hơn nên có điều kiện đầu tư Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 4 nhiều hơn cho khoa học; thực tiễn đặt ra cho khoa học những đòi hỏi mới cao hơn Từ đó, thúc đẩy khoa học tiếp tục phát triển. II. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ  Là nhân tố quan trọng nhất để tăng năng suất lao động.  Làm giảm chi phí về lao động, vốn, tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm.  Nâng cao chất lượng sản phẩm. Trình độ khoa học-công nghệ càng cao, chất lượng sản phẩm càng tốt, việc sử dụng sản phẩm càng dễ dàng, tiện lợi và an toàn.  Làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của khoa học và công nghệ làm xuất hiện một số ngành kinh tế có hàm lượng khoa học rất cao như công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... và tỷ trọng của những ngành kinh tế này ngày càng cao. Đồng thời, khoa học-công nghệ còn làm cho tỷ trọng của những ngành phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... ngày càng giảm. Trình độ khoa học-công nghệ cao còn làm cho những ngành vốn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên giảm bớt được sự phụ thuộc đó. Theo mô hình Cobb – Douglas, ảnh hưởng của các nguồn lực cơ bản đối với tăng trưởng kinh tế có thể lượng hoá bằng công thức sau: g = t + . k + .1 + . r Trong đó: g : tốc độ tăng trưởng kinh tế k, 1, r: tốc độ gia tăng của các yếu tố đầu vào là vốn, lao động, tài nguyên. , . : hệ số ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với tăng trưởng kinh tế. t : tác động của khoa học - công nghệ với tăng trưởng kinh tế. Trong đó,  +  + = 1. Điều đó có nghĩa là tăng trưởng kinh tế trước hết là do vốn, lao động, tài nguyên. Khoa học-công nghệ đóng góp vào tăng trưởng thông qua sử dụng các nguồn lực khác hiệu quả hơn. Vì thế, tiến bộ khoa học-công nghệ chỉ là điều kiện cần Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 5 để tăng trưởng kinh tế. Điều kiện đủ phải là ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, kinh doanh, làm cho các nguồn lực khác được sử dụng có hiệu quả cao hơn. III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Chiến lược phát triển khoa học-công nghệ phải giải quyết những vấn đề sau đây: 1. Xác định những phương hướng chủ yếu cho sự phát triển khoa học -công nghệ Khoa học-công nghệ là lĩnh vực hoạt động rất rộng lớn. Trong khi đó khả năng của các nước đang phát triển về vốn, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ khoa học-công nghệ có nhiều hạn chế. Bởi vậy, các nước này không thể cùng lúc đầu tư cho tất cả các ngành khoa học-công nghệ. Trong điều kiện các nước đang phát triển hiện nay, khoa học - công nghệ cần được phát triển theo các phương hướng chủ yếu sau:  Thứ nhất, phải đầu tư cho những ngành khoa học-công nghệ phục vụ các nhu cầu cấp bách của đất nước. Điều đó sẽ làm cho mục đích của khoa học và công nghệ trở nên rõ ràng và nhờ gắn bó với thực tiễn, phục vụ cho các nhu cầu của thực tiễn mà khoa học, công nghệ mới có động lực để phát triển. Nhờ phục vụ thực tiễn, hiệu quả hoạt động của con người tăng lên, của cải nhiều hơn; từ đó có điều kiện đầu tư nhiều hơn cho khoa học - công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ.  Thứ hai, cần phải sử dụng công nghệ nhiều tầng, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Mỗi loại công nghệ đều có ưu, nhược điểm riêng nên phải kết hợp các trình độ khác nhau để phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của chúng. Sự kết hợp đó sẽ cho phép đất nước nhanh chóng tiếp cận với trình độ chung của thế giới, đồng thời tận dụng được các ưu điểm của công nghệ truyền thống, phù hợp với điều kiện của đất nước về cơ sở vật chất kỹ thuật, về đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ; đội ngũ lao động, các nguồn tài nguyên thiên nhiên...  Thứ ba, hết sức coi trọng chuyển giao công nghệ dưới các hình thức khác nhau. Từ nghiên cứu khoa học tới việc áp dụng những thành tựu của nó vào sản xuất - kinh doanh, vào thực tế đời sống có ba trình độ: khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng và triển khai công nghệ. Để tiết kiệm thời gian và tiền của, các nước đang phát triển phải “đi tắt”, phải tập trung vào khâu triển khai công nghệ. Hiện nay, các nước đang phát Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 6 triển có thể thực hiện triển khai công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ, bằng việc mua các bằng phát minh sáng chế, hợp tác nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ giữa các nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài... Tuy nhiên, chỉ có thể chuyển giao công nghệ thành công khi khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng phát triển đến trình độ nhất định. Do đó, các nước đang phát triển cũng lại phải đầu tư cho khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng ở một chừng mực nhất định.  Thứ tư, phải tính tới và đặt trong xu thế phát triển của khoa học công nghệ thế giới. Trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, để phát triển cần phải kế thừa được thành tựu của các thế hệ, các quốc gia đi trước; tranh thủ được sự giúp đỡ và ủng hộ của thế giới. 2. Xây dựng hệ thống các biện pháp đảm bảo cho sự phát triển của khoa học và công nghệ Phát triển khoa học-công nghệ cần có sự định hướng đúng nhưng vẫn là chưa đủ. Để phát triển khoa học-công nghệ, cần phải tạo lập những điều kiện cần thiết cho sự phát triển này. a) Đào tạo,bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ  Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định sự phát triển của khoa học và công nghệ. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - công nghệ là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ con người; việc ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất và đời sống trực tiếp phụ thuộc vào trình độ, tinh thần và thái độ làm việc của con người.  Muốn đảm đương được trọng trách to lớn đó, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trước hết phải có số lượng đủ lớn và phải có chất lượng cao. b) Đầu tư cho khoa học - công nghệ  Nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ đòi hỏi phải có phương tiện vật chất: máy móc, thiết bị, các tài liệu sách báo, mẫu vật, chi phí cho các thí nghiệm, trắc nghiệm... Các điều kiện vật chất đó trực tiếp quyết định trình độ phát triển của khoa học và công nghệ. Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 7  Do vậy, đầu tư là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của khoa học - công nghệ. c) Xây dựng hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội hỗ trợ cho sự phát triển của khoa học và công nghệ Để tạo điều kiện cho khoa học và công nghệ phát triển, các chính sách kinh tế - xã hội phải hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây:  Định hướng đúng đắn cho sự phát triển của khoa học và công nghệ và tìm ra những hình thức tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ phù hợp.  Xây dựng hệ thống đào tạo và đào tạo lại cán bộ khoa học, công nghệ có quy mô đủ lớn và chất lượng cao.  Khuyến khích và buộc các doanh nghiệp (cả tư nhân và nhà nước) ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và huy động khả năng của họ, nhất là khả năng về tài chính cho sự phát triển khoa học- công nghệ.  Mở rộng các hình thức hợp tác về khoa học và công nghệ với các nước dưới nhiều hình thức nhằm tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, nhanh chóng theo kịp trình độ khoa học - công nghệ của khu vực và thế giới.  Đảm bảo các quyền lợi vật chất cho cán bộ khoa học và công nghệ thông qua chính sách tiền lưương, tiền thưởng, phụ cấp, trợ cấp đối với cán bộ khoa học, công nghệ. 3. Xây dựng, phát triển thị trường khoa học - công nghệ a) Khái niệm Đến nay, khái niệm thị trường khoa học-công nghệ vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Khái niệm thị trường khoa học - công nghệ được sử dụng: Thị trường khoa học- công nghệ là thị trường mà ở đó hàng hoá là các phát minh khoa học, công nghệ; các dịch vụ khoa học-công nghệ gồm cả hữu hình và vô hình, vật chất và phi vật chất trong một môi trường thể chế xác định. b) Vai trò của thị trường khoa học-công nghệ  Thứ nhất, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học-công nghệ. Cùng với việc thúc đẩy nhanh hơn sự lan truyền của tri thức khoa học thì sự xuất hiện của thị trường Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 8 khoa học-công nghệ cùng hệ thống luật pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các thể chế hỗ trợ thị trường sẽ tạo cho các chủ thể sở hữu các hàng hóa công nghệ có một động lực rất lớn trong việc tiếp tục phát triển, tiếp tục sáng tạo ra các sản phẩm khoa học- công nghệ. Nhờ những thông tin từ thị trường, các hoạt động nghiên cứu được định hướng chính xác hơn, nhờ đó có thể rút ngắn dược thời gian nghiên cứu cũng như tổ chức triển khai các công nghệ mới.  Thứ hai, mở rộng cơ hội lựa chọn sản phẩm khoa học-công nghệ cho doanh nghiệp. Khi có thị trường khoa học-công nghệ, các sản phẩm khoa học-công nghệ sẽ được chào bán trên thị trường. Doanh nghiệp có thể mua bất kỳ loại hàng hoá nào phù hợp với nhu cầu của họ, có thể lựa chọn được những công nghệ phù hợp nhất với nhu cầu và khả năng của mình. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ sử dụng công nghệ hiệu quả; hiệu quả sử dụng công nghệ sẽ kích thích mở rộng cầu của doanh nghiệp về hàng hoá khoa học-công nghệ.  Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ. Như đã phân tích, khi thị trường được xác lập, bên bán bên mua hàng hóa đẩy nhanh hơn tiến trình giao dịch, đồng thời cũng giảm bớt được các chi phí do thông tin bất đối xứng Nhờ vậy, tri thức công nghệ sẽ lan tỏa nhanh hơn, chuẩn xác hơn và hiệu quả hơn. Xét trên góc độ kinh tế học, mức giá cân bằng trên thị trường sẽ đáp ứng được lợi ích người bán, người mua và lợi ích của xã hội. Nhờ đó, cung cầu về hàng hoá đều gia tăng, việc ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ được đẩy mạnh.  Thứ tư, góp phần hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của thị trường khoa học-công nghệ phải dựa trên các quan hệ thị trường. Nền kinh tế thị trường đạt trình độ phát triển càng cao, sự phát triển của thị trường khoa học-công nghệ càng thuận lợi. Ngược lại, thị trường khoa học-công nghệ là một bộ phận của nền kinh tế thị trường - thị trường yếu tố sản xuất. Do đó, sự phát triển của thị trường khoa học-công nghệ trực tiếp góp phần hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 9 c) Các giải pháp chủ yếu phát triển thị trường khoa học-công nghệ Giải pháp thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học-công nghệ. Hàng hoá khoa học-công nghệ là sản phẩm của trí tuệ con người. Do đó, muốn phát triển thị trường khoa học-công nghệ phải xây dựng được đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ. Giải pháp thứ hai, chuyển đổi các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Doanh nghiệp khoa học-công nghệ có chức năng cung ứng hàng hoá khoa học- công nghệ. Với tư cách doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu, phát minh khoa học-công nghệ sẽ phải tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về hoạt động nghiên cứu của mình. Vì lợi ích của mình, doanh nghiệp khoa học-công nghệ sẽ phải quan tâm nhu cầu của thị trường; sử dụng các nguồn lực hiệu quả. Đồng thời, hình thức doanh nghiệp giúp chuyển giao công nghệ nhanh chóng, hiệu quả; là phương thức tốt nhất để gắn kết giữa nghiên cứu khoa học-công nghệ với những yêu cầu của cuộc sống. Các doanh nghiệp khoa học-công nghệ là phương thức chuyển giao công nghệ nhanh nhất. Vì lợi ích của mình, các doanh nghiệp khoa học-công nghệ phải hỗ trợ các doanh nghiệp thông thường trong việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu, các phát minh, sáng chế. Các nhà khoa học vì thế sẽ gắn với thực tiễn hơn, các nghiên cứu sẽ thiết thực hơn và được ứng dụng nhanh hơn. Giải pháp thứ ba, hoàn thiện các thể chế hỗ trợ thị trường khoa học-công nghệ. Hoàn thiện môi trường pháp lý. Hành lang pháp lý cho sự phát triển khoa học- công nghệ và thị trường khoa học-công nghệ có tác dụng điều chỉnh các hoạt động trên thị trường này, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế. Nâng cao năng lực các cơ quan, tổ chức thông tin, tư vấn về khoa học-công nghệ và dịch vụ chuyển giao công nghệ. Do đặc điểm của thị trường khoa học-công nghệ, các cơ quan, tổ chức này là những thành tố không thể thiếu trong việc tạo lập, phát triển thị trường. Các cơ quan này giữ vai trò định hướng, xác lập những nguyên tắc chung giúp cho người bán và người mua đến gần với nhau hơn; giúp cho các giao dịch trên thị trường được diễn ra một cách thuận lợi hơn, công khai minh bạch hơn. Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 6 Trang 10 Thực thi nghiêm túc luật pháp về khoa học-công nghệ. Cần phải tăng cường việc tuyên truyền vận động mọi tầng lớp xã hội ý thức thực hiện pháp luật, xử phạt nghiêm khắc những hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn cho các công chức hoạt động trong lĩnh vực này, bởi đây là lĩnh vực rất mới song lại đòi hỏi chuyên môn cao cũng như kinh nghiệm trong việc đánh giá thẩm định để xác định được đúng mức độ tính chất của hành vi vi phạm để đưa ra được cách xử lý chính xác. Hoàn thiện các thể chế tài chính. Các thể chế tài chính trực tiếp tác động đến sự phát triển khoa học-công nghệ và thị trường khoa học-công nghệ bằng việc huy động và phân bổ các nguồn vốn cho lĩnh vực này. Để hoàn thiện các thể chế tài chính để phát triển khoa học-công nghệ. Những vấn đề cần tập trung giải quyết là: xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách chi ngân sách cho các hoạt động khoa học-công nghệ; đầu tư nhà nước cần tập trung trước hết vào xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học-công nghệ, lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và đào tạo nhân tài. Thành lập các quỹ đầu tư tài chính cũng như các quỹ cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học-công nghệ... Giải pháp thứ tư, tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường, hội nhập. Các nước đang phát triển phải tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế tư nhân nhằm tăng cầu về hàng hoá khoa học-công nghệ, góp phần tạo lập môi trường, thúc đẩy thị trường khoa học-công nghệ phát triển. Đẩy mạnh thu hút đầu tư của các TNCS. Đây là khu vực kinh tế có trình độ công nghệ cao và việc đổi mới công nghệ rất nhanh chóng. Xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế về các tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường. Việc xây dựng một lộ trình phù hợp về tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật... đối với sản phẩm và cơ sở sản xuất sẽ có tác động tích cực và trực tiếp đến sự chuyển đổi các công nghệ của các doanh nghiệp. Chúc Anh/Chị học tập tốt!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_6_khoa_hoc_cong_nghe_voi_phat_trien_4454.pdf
Tài liệu liên quan