Ảnh hưởng của dòng kiều hối đến BP Việt Nam

Bao gồm: -Kiến thức cơ bản và chuyên sâu về kiều hối -Slide thuyết trình :"Ảnh hưởng của dòng kiều hối đến BP Việt Nam" -Tài liệu + Slide Câu hỏi trắc nghiệm

doc13 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2162 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của dòng kiều hối đến BP Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIỀU HỐI : khái niệm kiều hối: Theo khái niệm của Ngân hàng Thế giới thì: “Kiều hối bao gồm các khoản tiền chuyển từ nước ngoài có nguồn gốc là thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện trong cán cân thanh toán quốc tế là khoản chuyển tiền (ròng)”. Nói một cách đơn giản, kiều hối là sự di chuyển tiền bạc từ những người đang lao động ở nước ngoài đến thân nhân của họ tại quê hương. Tại một số nước đang phát triển, số tiền được đưa vào từ kiều hối có thể đứng hàng cao thứ nhì trong các nguồn thu nhập, cao hơn cả viện trợ quốc tế. Số kiều hối hàng năm trên thế giới được ước tính từ 250 tỷ USD của Ngân hàng Thế giới và các Ngân hàng Trung ương đến 401 tỷ của IFAD. Một nước có số lượng kiều hối cao sẽ thúc đẩy những hoạt động đầu tư khác trong nhiều lĩnh vực như: giáo dục, chăm sóc sức khỏe, các mô hình kinh doanh loại nhỏ... - Nguồn kiều hối này cộng với các nguồn ngoại tệ khác còn góp phần cải thiện cán cân tổng thể, góp phần ổn định giá USD trong mấy năm gần đây. Bởi vậy cần tạo điều kiện để nguồn lực quý này gia tăng hơn nữa. Kiều hối là các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi được chuyển vào Việt Nam theo các hình thức sau: Chuyển ngoại tệ thông qua các tổ chức tín dụng được phép; Chuyển ngoại tệ thông qua các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính quốc tế; Cá nhân mang ngoại tệ theo người vào Việt Nam. Cá nhân ở nước ngoài khi nhập cảnh vào Việt Nam có mang theo ngoại tệ hộ cho người Việt Nam ở nước ngoài phải kê khai với Hải quan cửa khẩu số ngoại tệ mang hộ từ nước ngoài gửi về cho Người thụ hưởng ở trong nước.” Nguồn tiền kiều hối chuyển vào một quốc gia có thể phân thành 2 loại sau: Nguồn kiều hối có thể được chuyển vào Việt Nam thông qua kênh chính thức và kênh không chính thức. Thực tế là có một lượng không nhỏ kiều hối chảy vào Việt nam do kiều bào trực tiếp cầm về hoặc nhờ bè bạn, người thân cầm về giúp. Một nguồn khác được chuyển phi pháp bởi các phi công, tiếp viên hàng không hay những người thường xuyên di chuyển giữa các nước. Tuy nhiên, kênh chuyển kiều hối không chính thức nhiều nhất là qua các đường dây chuyển tiền, trong đó, người gửi tiền chỉ cần chuyển tiền mặt kèm địa chỉ hoặc số điện thoại người nhận cho một cơ sở nào đó nhận tiền ở nước ngoài, cơ sở đó sẽ làm việc với cơ sở trong đường dây của họ ở Việt Nam, sau đó, người nhận ở Việt Nam có thể được nhận tiền ngay tại nhà hoặc qua đường bưu điện. 2.1. Kiều hối chuyển theo kênh chính thức: Chuyển qua các tổ chức tín dụng, các tổ chức được Ngân hàng Nhà Nước cho phép làm dịch vụ nhận và chi trả ngoại tệ hoặc tổ chức kinh tế làm đại lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện việc chi trả ngoại tệ, các tổ chức tín dụng làm đại lý cho các tổ chức tín dụng được phép, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính bưu chính quốc tế và các cá nhân mang theo ngoại tệ hộ cho kiều bào ở nước ngoài, có khai báo với Hải Quan cửa khẩu số ngoại tệ mang hộ từ nước ngoài gửi cho người thụ hưởng ở trong nước. Hiện nay phương thức chuyển tiền thông qua con đường chính thức đã phổ biến rộng rãi vì sự nhanh chóng và an toàn. Tuy nhiên cũng rất nhiều kiều bào e ngại vì phải chứng minh tính pháp lý của món tiền, đồng thời phí dịch vụ của Ngân hàng còn cao. - Đặc điểm của phương thức này là: Tiền nhận được ngay không phải chờ lâu (trong trường hợp khách hàng sử dụng dịch vụ chuyển tiền ngay của các Tổ chức chuyển tiền nhanh có các đại lý đặt tại Ngân hàng, công ty kiều hối) An toàn. - Khuyết điểm của phương thức này: Giá ngoại tệ mà ngân hàng bán ra cao hơn (mua vào thấp hơn) thị trường tự do Phải xuất trình nhiều giấy tờ. 2.2. Kiều hối chuyển theo kênh phi chính thức: Là lượng kiều hối được chuyển vào một quốc gia do kiều bào nhập cảnh vào quốc gia đó mà không khai báo tại Hải Quan cửa khẩu hoặc qua đường dây ngầm của dịch vụ chuyển tiền tư nhân không qua hệ thống ngân hàng và các công ty kiều hối được cấp giấy phép nhận và chi trả ngoại tệ. Loại hình này được thực hiện dựa trên cơ sở quen biết và tin tưởng lẫn nhau. Phương thức chuyển tiền này đơn giản. Chỉ cần điện 2 lần điện thoại: một cho cá nhân làm dịch vụ chuyển tiền và một cuộc điện thoại cho thân nhân ở Việt Nam đến địa điểm chi trả hoặc đường dây chi trả sẽ đến tận nhà của kiều quyến để thực hiện chi trả. - Đặc điểm của phương thức này là: Tiền nhận được ngay không phải chờ lâu. Giá ngoại tệ bán ra thấp hơn (mua vào cao hơn) tỷ giá bán ra và mua vào của các ngân hàng thương mại. Không đòi hỏi phải xuất trình nhiều giấy tờ. - Khuyết điểm của phương thức này: Phí cao. Không an toàn. Theo nghiên cứu của Ngân Hàng Thế Giới, quy mô của thị truờng kiều hối được chuyển qua kênh phi chính thức xấp xỉ ngang bằng với thị trường kiều hối được chuyển qua kênh chính thức (nguồn www.vnmedia.vn). Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương thu hút kiều hối bằng cách bãi bỏ nhiều qui định về thuế và không giới hạn số lượng ngoại tệ được chuyển về Việt Nam đối với người nhận và người gửi. Người nhận không phải chịu thuế thu nhập đối với các khoản ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về hoặc bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng như trước đây, quyền lợi của người nhận và người gửi được đảm bảo đồng thời các hình thức chuyển tiền được mở rộng để thu hút nguồn ngoại tệ kiều hối từ nước ngoài về Việt Nam - Kiều hối qua các năm: Năm 2008 đạt khoảng 7,2 tỉ Năm 2009 đạt khoảng 6,283 tỉ (giảm gần 12,8% so với năm 2008) Năm 2010 đạt hơn 8 tỉ (Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), đứng hàng thứ 16/30 quốc gia trên thế giới có lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất) cán cân thanh toán : Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực,tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có. ( Hiểu đơn giản, Cán cân thanh toán là một bảng ghi chép tất cả những giao dịch thu chi bằng ngoại tệ của một quốc gia với các quốc gia khác) Đối với các nước có thu nhập thấp và trung bình, kiều hối không chỉ giúp cải thiện mức sống của người dân mà còn giúp các nước này có nguồn kinh phí trang trải nhập khẩu và giảm thâm hụt thương mại. Cán cân thanh toán tổng thể của chúng ta trong quý 1/2010 vẫn còn thâm hụt khá. Theo báo cáo chính thức, cán cân thanh toán quý 1 thâm hụt khoảng 3,7 tỷ USD. Đương nhiên là còn một số sai số trong quá trình tính toán, nhưng ít nhất con số nói rằng đấy là vấn đề mà Chính phủ cần quan tâm. Ảnh hưởng của kiều hối đến các kênh thanh toán quốc tế. Kiều hối góp phần cải thiện cán cân vãng lai Về phân tích cán cân vãng lai, có thể thấy ngay là kiều hối đóng một vai trò quan trọng trong việc làm giảm sự thiếu hụt cán cân vãng lai. Cụ thể trong nhiều năm liền Việt Nam là một quốc gia nhập siêu, chỉ tính riêng năm 2007, nhập siêu của cả nước dự báo khoảng 12,4 tỷ USD. Trong khi đó chỉ riêng nguồn kiều hối đã mang về khoảng 6 tỷ USD (chỉ bao gồm đường chính thức), giúp bù đắp gần  50 % thâm hụt cán cân thương mại. Bảng thống kê sau thể hiện tình hình BOP của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006 USDmillion 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Cán cân thương mại 481 -1,054 -2,581 -3,854 -2,439 -2,776 Cán cân dịch vụ -572 -749 -778 61 -219 -8 Cán Cân thu nhập -477 -721 -811 -891 -1,219 -1,429 Chuyển nhượng ròng 1,250 1,921 2,239 3,093 3,380 4,049 Khu vực tư nhân 1,100 1,767 2,100 2,919 3,150 3,800 Khu vực nhà nước 150 154 139 174 230 249 Cán cân vãng lai 682 -603 -1,931 -1,591 -497 -164 Chuyển nhượng ròng (kiều hối) tăng thì cán cân vãng lai tăng , dẫn đến cán cân thanh toán tăng Trong những năm gần đây, diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động quá nhanh và mạnh mẽ từ việc gia nhập WTO. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá nhanh nhưng vẫn không bì kịp với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu khi rào cản thuế quan dần dần được xóa bỏ, đã làm hàng hóa nước ngoài tràn vào Việt Nam trong khi để tăng tốc độ xuất khẩu không phải là việc đơn giản mà đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Sự gia tăng nhập khẩu tác nhân của nhiều nguyên nhân khác, như nhu cầu của kinh tế,... Chính hoàn cảnh này đã đẩy cán cân thương mại Việt Nam vào tình thế ngày càng thâm hụt, lên tới 13,67% so với GDP vào năm 2008. Thêm vào đó, theo các chuyên gia kinh tế, nguồn gốc sâu xa của tình trạng trên đó chính là năng lực xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam khi chưa thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng của khu vực cũng như trên thế giới. Giá trị gia tăng trong nhóm hàng xuất khẩu thấp và chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực chính nên rất dễ bị tổn thương khi có các cú “shock” từ bên ngoài. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu để chế biến hàng xuất khẩu, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng,... trong những năm qua tùng nhanh đáng kể. Tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai được bù đắp đáng kể bởi nguồn thu nhập từ chuyển giao vốn vãng lai (viện trợ và kiều hối) và các giao dịch kinh tế khác thuộc cán cân vốn và tài chính. Ưu thế của kiều hối so với các nguồn ngoại tệ khác trong cán cân thanh toán: Kiều hối là một nguồn lực quý giá theo nhiều nghĩa, là một kênh mang lại ngoại tệ mạnh cho đất nước mà không một kênh nào có thể sánh nổi về hiệu quả. Bởi vì ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tuy rất quý nhưng xuất khẩu thì phải mất chi phí để sản xuất hàng, chi phí vận chuyển mang ra nước ngoài, lại còn phải chịu thuế nhập khẩu, chịu hạn ngạch, chịu kiện bán phá giá, chi phí tiếp thị, quảng cáo... Còn ngoại tệ thu được từ các ngành dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng thu chi cán cân vãng lai VAI TRÒ CỦA KIỀU HỐI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Kiều hối là một nguồn lực lớn và gần như tăng liên tục trong thời gian qua (năm 2000 có 1.757 triệu, năm 2001 có 1.820 triệu, năm 2002 có 2.200 triệu, năm 2003 có 2.600 triệu, ước năm 2004 sẽ vượt 3.000 triệu USD, gấp 85,7 lần năm 1991, tăng tới 40,8%/năm - một tốc độ tăng gần như không có chỉ tiêu nào đạt được trong thời gian tương ứng). Tổng cộng trong 14 năm qua đã có 15 tỉ 243 triệu USD, bằng 59% tổng vốn FDI thực hiện và lớn hơn cả tổng số vốn ODA giải ngân từ 1993 đến nay. - Về phân tích cán cân vãng lai, có thể thấy ngay là kiều hối đóng một vai trò quan trọng trong việc làm giảm sự thiếu hụt cán cân vãng lai. Cụ thể trong nhiều năm liền Việt Nam là một quốc gia nhập siêu, chỉ tính riêng năm 2007, nhập siêu của cả nước dự báo khoảng 12,4 tỷ USD. Trong khi đó chỉ riêng nguồn kiều hối đã mang về khoảng 6 tỷ USD (chỉ bao gồm đường chính thức), giúp bù đắp gần 50 % thâm hụt cán cân thương mại. - Kiều hối cũng đóng vai trò quan trọng là nguồn cung cấp ngoại tệ cho nền kinh tế, tạo ra một nguồn lực tài chính cho đất nước, làm tăng sức đề kháng của Việt Nam trước những chuyến biến phức tạp của nền kinh tế Thế giới. Đây là một nguồn lực tài chính được huy động tư trong dân cư – nội lực tài chính của quốc gia - mang tính ổn định hơn những nguồn ngoại tệ khác như vốn vay, tiền viện trợ…giúp quốc gia giảm thiểu nhiều rủi ro trong quá trình huy động vốn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. - Việt Nam là một nước sản xuất dầu thô và vừa nhận được số lượng kiều hối đáng kể. Do đó Việt Nam là một trường hợp điển hình để so sánh lợi ích của kiều hối và thu nhập từ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kiều hối gồm nhiều triệu món tiền nhỏ, được phân phối rộng rãi và không qua trung gian Nhà nước. - Quan trọng hơn cả, trên phương diện thực tế, kiều hối trực tiếp giúp nhiều gia đình nghèo có phương tiện sinh sống và vốn làm ăn. Như vậy kiều hối giúp giảm mức nghèo đói ở Việt Nam, đặc biệt khu vực nông thôn vì phần đông công nhân xuất khẩu lao động phát xuất từ đây. Trong giai đoạn Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới – WTO được hơn một năm, cộng với sự ổn định về chính trị, sự tăng trưởng cao về kinh tế, sự sôi động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, sự cải thiện mạnh mẽ về môi trường làm ăn và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao lên, nên lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng tăng cao. Và điều này cho thấy dịch vụ kiều hối là dịch vụ đầy tiềm năng vì kiều hối được xem như một kênh huy động vốn ngoại tệ đặc biệt mà Ngân hàng không cần phải trả nhiều chi phí. Do đó việc đẩy mạnh dịch vụ kiều hối là góp phần quảng bá hình ảnh thương hiệu của Ngân hàng, đồng thời góp phần đưa đất nước hội nhập nhanh với kinh tế Thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tuy nhiên, song song với việc thu hút mạnh kiều hối Ngân hàng Trung ương cần thực hiện cả mục tiêu điều hành tỷ giá và kiềm chế lạm phát. THỰC TRẠNG KIỀU HỐI Ở VIỆT NAM: Hình 1.1. Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ 2002 đến 2007 2.1 2.7 3.2 3.8 6,0 4.7 Nguồn: Niên giám của Tổng cục thống kê, Báo cáo ước tính các năm của Tổng cục thống kê, Báo cáo của Chính phủ và ước tính chuyên gia. Trong 5 năm vừa qua lượng kiều hối chuyển về nước mỗi năm mỗi tăng vượt bậc (hình1.1) cho thấy kiều hối thực sự là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước và đang có nhiều thuận lợi để đột phá trong tương lai Với một lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh hằng năm gia tăng thì nguồn tiền kiều hối theo đường du lịch cũng tăng lên nhanh chóng. Thấy được điều đó các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố đã thể hiện vai trò năng động trong quá trình hội nhập, đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành du lịch thành phố thông qua việc tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm du lịch phù hợp với thu nhập xã hội Ngoài ra, Thành Phố Hồ Chí Minh có một tính chất rất đặc trưng, là thành phố có số lượng người định cư ở nước ngoài sau năm 1975 nhiều nhất nước và cũng là thành phố có số lượng người xuất khẩu lao động cao nhất nước hiện nay. Những tầng lớp dân cư này, hằng năm chuyển một lượng lớn kiều hối về quê hương cho người thân, bạn bè đã đóng góp một phần quan trọng trong tổng lượng kiều hối chuyển về Thành phố Hồ Chí Minh. Thấy được điều này, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài TP. HCM luôn muốn thành phố là nơi thí điểm những mô hình mới để thực hiện xúc tiến thương mại và đầu tư đối với kiều bào. Cuộc chạy đua thu hút kiều hối ở Việt Nam diễn ra rất quyết liệt giữa các Ngân hàng với Ngân hàng, giữa các Ngân hàng với các công ty kiều hối, cuộc chiến diễn ra đặc biệt sôi động nhất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hầu như có mặt hầu hết các trụ sở, chi nhánh, phòng giao dịch của hầu hết các Ngân hàng Thương mại, trên 25 công ty kiều hối. Hai tập đoàn chuyển tiền nhanh nổi tiếng trên Thế giới là Western Union và Money Gram cũng đã có mặt tại Việt nam từ lâu vơi nhiều đại lý như hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triền nông thôn Việt Nam, Hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam, hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Á Châu… (là các đại lý chính thức của Western Union); hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đông Á…(là các đại lý chính thức của Money Gram). Bảng 2.2. Bảng biểu so sánh nguồn thu kiều hối tại một số hệ thống NHTM Việt Nam Đơn vị tính: triệu USD TÊN NGÂN HÀNG 2006 TỈ LỆ (%) 2007 TỈ LỆ (%) NH TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 655 13.9 1.050 19.0 NH ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 593 12.6 635 11.5 NH CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 500 10.6 750 13.6 NH TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN 670 14.2 950 17.3 NH TMCP ĐÔNG Á 750 16.0 850 15.5 NH TMCP Á CHÂU 400 08.5 525 09.5 CÁC NHTM KHÁC 1.132 24.2 740 13.6 TỔNG LƯƠNG KIỀU HỐI 4.700 100.0 5.500 100.0 Nguồn: www.mot.gov.vn của Bộ Thương Mại Những vướng mắc trong các chính sách khuyến khích kiều hối của Việt Nam - Quá trình hoàn thuế VAT còn chậm. - Các thủ tục hành chánh còn chậm làm mất thời gian của doanh nghiệp. - Thời gian chờ lấy giấy phép kinh doanh quá lâu. - Về quốc tịch, thực tế có nhiều người VN ở nước ngoài gia nhập quốc tịch nước sở tại, nhưng chưa từ bỏ quốc tịch VN. Trong trường hợp người VN ở nước ngoài trở về VN mang hộ chiếu nước ngoài thì mặc nhiên được coi là người nước ngoài. Khi người Việt Nam ra nước ngoài vẫn còn giữ lại quốc tịch Việt Nam, Chính phủ nước sở tại không bắt buột phải bỏ quốc tịch Việt Nam. Khi về nước, Việt kiều vẫn được xem là người có quốc tịch Việt Nam. - Việc xin thị thực nhập xuất cảnh VN tại cơ quan đại diện VN ở nước ngoài chưa hoàn toàn thuận lợi, nếu Việt kiều thông qua đại lý làm dịch vụ thì rất nhanh nhưng lệ phí cao. Quy định người bảo lãnh cho những công dân VN hồi hương “phải là thân nhân ruột thịt” chưa phù hợp với Quyết định 875/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tại quyết định này quy định người bảo lãnh trong nước “là thân nhân trong dòng tộc”. Điều này gây khó khăn hơn đối với những người muốn hồi hương mà không còn người thân ruột thịt. - Việc tính thuế thu nhập đối với lao động trong nước và người nước ngoài còn bất hợp lý, doanh nghiệp dù rất muốn sử dụng chuyên gia trong nước với mức lương cao, xứng đáng với công sức và đóng góp của họ, nhưng như thế thì sẽ phải đóng thuế thu nhập cho họ ở mức còn cao hơn đi thuê người nước ngoài, chính sách như thế thì làm sao thu hút được chất xám trong nước và kiều bào - Việt Nam có một thuận lợi to lớn: là một trong ba nước có kiều bào sống sinh sống ở nhiều nước trên thế giới nhất (trên 180 nước, điều này chỉ Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam có được). Vấn đề đặt ra là làm sao liên kết đội ngũ này thành mạng lưới khắp toàn cầu vì một mục đích chung là sự phồn vinh của dân tộc mình, đất nước mình. . Những năm gần đây chính sách kiều hối được điều chỉnh theo hướng cởi mở hơn, tạo thêm nhiều thuận lợi cho cả người gửi và người nhận. Đây được coi là nguyên nhân chính tạo nên sự tăng trưởng ngoạn mục về lượng kiều hối chuyển tiền về nước. NHỮNG GIẢI PHÁP CẢI THIỆN ·        Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Coi trọng các hình thức đầu tư, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ do người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện hoặc thông qua người thân trong nước thực hiện. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng kênh tiêu thụ hàng hóa Việt Nam, các quan hệ hợp tác và đầu tư với các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. ·        Cần sớm thống nhất Luật Đầu tư trong nước và nước ngoài để tạo sự bình đẳng cho doanh nghiệp và dễ dàng trong quản lý nhà nước trong quản lý đầu tư. ·        Tạo cơ hội kinh doanh cho họ, thông thoáng trong việc làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá. Cần phân cấp cho Hải quan trực tiếp xem xét việc nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu, phụ tùng, linh kiên... tránh qua các khâu nấc không cần thiết gây trở ngại cho doanh nghiêp. ·        Khuyến khích họ đẩy mạnh gia công hàng hoá xuất khẩu. Ở nước ngoài họ có lợi thế: kênh phân phối, nguồn vật tư, nguyên liệu, còn ở tại Việt Nam họ cũng có lợi thế vì người thân gia đình họ, bè bạn thân thiết của họ có thể tham gia quản lý doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng gia công. ·        Khuyến khích họ tham gia xuất khẩu hàng hoá của Việt nam. Vì sinh sống ở nước ngoài nên họ nắm được rất kịp thời sự thay đổi thị hiếu, mẫu mã, chất lượng, số lượng của khách hàng, đồng thời họ cũng năm chắc được nguồn hàng tại Việt Nam. Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 Tăng trưởng kinh tế Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo các quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm 2010 có thể tăng 6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm  2010 ước đạt 1.160 USD. Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và năm 2010 ước tăng 14% so với năm 2009. Tốc độ tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cả năm 2010 có thể đạt 7,5% Đầu tư Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11, cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài. Lạm phát và giá cả Năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp, trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu xu hướng tăng cao. Đến hết tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm dưới 8% mà Quốc hội đề ra sẽ không thực hiện được. Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều tăng cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Thứ hai, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo. Bên cạnh đó những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm trước vẫn còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Tỷ giá Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD. Hình 3 cho thấy về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ. Thu chi ngân sách Năm 2010, tình hình kinh tế trong nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện để tăng thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt 520.100 tỷ đồng, vượt 12,7% so với dự toán, tăng 17,6% so với năm 2009. Việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng số nợ thuế) tăng khá nhiều. Đây là dư địa quan trọng để tăng thu ngân sách và giữ kỷ cương luật pháp về ngân sách nhà nước. Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ đồng, bằng khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những nhân tố góp phần làm gia tăng lạm phát. Cán cân thanh toán Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm 2010 đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 trên thực tế có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, dự báo cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối và việc giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và thâm hụt trong cán cân thanh toán trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh toán được cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một mặt do Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt khác có một lượng ngoại tệ lớn đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctai chinh quoc te.doc
  • doc10 c+óu trߦ»c nghiß+çm.doc
  • dockieuhoi.doc
  • ppttai chinh qt.ppt
  • ppttrac nghiem.ppt