- Để tiếp tục việc hoàn thiện quy trình nuôi cần
có những nghiên cứu sâu hơn nữa về dinh dưỡng
nhằm tính toán được % protein trong thịt cá để có
thể đánh giá được khối lượng thức ăn mà cá tiếp
nhận được từ đó đưa ra được các phép tính toán
hiệu quả kinh tế tối ưu nhất.
- Ngoài ra cần có các nghiên cứu về ảnh hưởng
của lipid và các chất khác trong thành phần thức ăn
lên sự tăng trưởng của cá chình để đưa ra được
công thức thức ăn phù hợp nhất. Bên cạnh đó cần
có các nghiên cứu về cá chình khi tiến hành nuôi ở
các giai đoạn thương phẩm lớn hơn.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các hàm lượng protein khác nhau trong thức ăn đến tăng trưởng và tỷ lệ sống trong nuôi thương phẩm cá chình hoa (Anguilla marmorata) giai đoạn 40 g đến 150 g tại Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 207
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC HÀM LƯỢNG PROTEIN KHÁC NHAU
TRONG THỨC ĂN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG
TRONG NUÔI THƯƠNG PHẨM CÁ CHÌNH HOA (Anguilla marmorata)
GIAI ĐOẠN 40 g ĐẾN 150 g TẠI HÀ NỘI
EFFECTS OF DIFFERENT PROTEIN CONTENTS IN FEED TO GROWTH
AND SURVIVAL OF MARBLED EEL (Anguilla marmorata) CULTURED SIZE
FROM 40 TO 150 GRAM IN HA NOI
Hoàng Minh Tuyết1, Lại Văn Hùng2
Ngày nhận bài: 03/9/2013; Ngày phản biện th ông qua: 09/10/2013; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chình hoa (Anguilla
marmorata) từ 40 - 150 g khi sử dụng các loại thức ăn có hàm lượng protein khác nhau trong điều kiện nuôi nhân tạo. Thí
nghiệm được bố trí trong bể composite có thể tích 2 m3 theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn với 3 nghiệm thức và được lặp lại
3 lần trong thời gian 4 tháng. Mật độ thả là 80 con/m3. Nghiên cứu sử dụng thức ăn nhân tạo có các hàm lượng protein lần
lượt là 40%, 45% và 50% để đánh giá ảnh hưởng của thức ăn trong nuôi thương phẩm cá chình hoa. Trong quá trình thí
nghiệm các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ, pH, DO đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của cá chình hoa.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, tốc độ tăng tưởng tuyệt đối (g/ngày) và tốc độ tăng trưởng đặc trưng (%/ngày) ở nghiệm thức
45% và 50% không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) nhưng sai khác so với nghiệm thức 40% (P < 0,05). Tỷ
lệ sống cao nhất đạt 91, 67% ở nghiệm thức 45% protien và sai khác với nghiệm thức 40% (87,3%). Tuy nhiên không có sự
sai khác có ý nghĩa giữa nghiệm thức 45% và 50%.
Từ khóa: cá chình hoa, cá giống, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng tương đối
ABSTRACT
This study was conducted to evaluate growth and survival rate of Marbled eel (Anguilla marmorata) which its size
ranges from 40 to 150g when using feed with different protein contents in artifi cial condition. This experiment was designed
in 2m3 composite tanks and replicated 3 times. Fish was reared with 80 individual/tank density. Artifi cial feeds contained
different protein contents (40%, 45% and 50%) were used to access the effect of feeds in grow-out Marbled eel. During this
period, environment factors such as temperature, pH and DO were suitable for the growth and development of Marbled
eel. The result showed that there was no signifi cant difference about absolute and specifi c growth rate between treatments
45% and 50% (P > 0,05) but different from treatment 40% (P < 0,05). The highest survival rate obtained when using feed
with 45% protein content (91, 67%) and different signifi cantly with treatment 40% (87,3%) (P < 0,05). However, there was
no signifi cant difference between 45% and 50% (P > 0,05).
Keywords: Marbled eel, fi ngerling, survival rate, absolute growth rate, relative growth rate
1 Hoàng Minh Tuyết: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2010 – Trường Đại học Nha Trang
2 PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội
có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm thủy sản (hàng
năm tiêu thụ khoảng 25 - 30.000 tấn thủy sản). Với
hơn 30 nghìn ha mặt nước có khả năng nuôi trồng
thủy sản trong đó có 6.700 ha ao hồ, 19.800 ha
ruộng trũng đã mở ra cho Hà Nội một tiềm năng lớn
về diện tích để phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong
những năm gần đây các đối tượng thủy đặc sản
như cá trắm đen, cá lăng, cá chình... đã và đang
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
208 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
được người nuôi quan tâm. Đặc biệt là cá chình với
chất lượng thịt thơm ngon, đang được nuôi khá phổ
biến và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người
nuôi [2].
Cá chình là loài cá dữ thiên về ăn động vật là
chính. Trong tự nhiên, thức ăn của cá là tôm, cá
con, động vật đáy nhỏ và côn trùng thủy sinh [7].
Các mô hình nuôi cá chình được thực hiện tại Hà
Nội cho kết quả chưa cao do việc kiểm soát môi
trường chưa chặt chẽ, thức ăn chưa được cung
cấp đầy đủ... [1]. Trong đó, kỹ thuật nuôi có vai trò
quyết định đến năng suất và hiệu quả nuôi. Nghiên
cứu để chọn ra thức ăn phù hợp cho cá chình là
rất cần thiết nhằm đạt được hiệu quả nuôi tốt nhất.
Nhằm đánh giá khả năng sử dụng thức ăn với các
mức protein khác nhau trong quá trình nuôi thương
phẩm cá chình giai đoạn từ 40 đến 150 gam, đề tài
“Nghiên cứu ảnh hưởng của các hàm lượng protein
khác nhau trong thức ăn đến tăng trưởng và tỷ
lệ sống trong nuôi thương phẩm cá chình hoa
(Anguilla marmorata) giai đoạn 40 đến 150 g tại Hà
Nội” được thực hiện. Kết quả của nghiên cứu này sẽ
góp phần hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm cá
chình theo hướng thâm canh, từ đó tăng hiệu quả
kinh tế trong nuôi thương phẩm loài cá này.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 4 đến tháng 10
năm 2012.
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Giống thủy sản
Hà Nội - xã Thanh Thùy - huyện Thanh Oai - Hà Nội.
2. Vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: cá chình hoa (Anguilla
marmorata).
Bể thí nghiệm: bể composite với thể tích 2 m3.
Mức nước trong bể duy trì ở độ sâu 1,5 - 1,7 m.
Thức ăn: Thức ăn sử dụng trong quá trình thí
nghiệm là thức ăn tự chế với hàm lượng protein
khác nhau là 40%, 45% và 50%.
3. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành với cùng mật độ
nuôi là 80 con/m3. Cá thí nghiệm có kích thước đồng
đều 41,2 ± 0,027 g/con. Cá cho ăn đến no.
Chế biến thức ăn: Áp dụng phương pháp tính
toán bằng đường chéo của Pearson (phương pháp
hình vuông) để thiết lập các công thức thức ăn
cho cá.
Bảng 1.Công thức thức ăn cho cá
Nguyên liệu Hàm lượng protein
Bột cá 60%
Bột đậu nành 48%
Bột mỳ 12%
Bột cám gạo 10%
Với tỷ lệ chung bột cá : bột đậu nành = 3:1;
bột mỳ : bột cám gạo = 2:1.
Nguyên liệu được dùng để chế biến thức ăn bao
gồm 4 thành phần chính là bột cá, bột đậu nành, bột
mỳ, bột cám gạo, ngoài ra còn bổ sung thêm một số
chất cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cá
như: dầu cá, Premix khoáng, Premix vitamin. Thức
ăn hỗn hợp được tạo ra theo các bước sau:
- Cân nguyên liệu: Nguyên liệu được dùng để
chế biến làm thức ăn cho cá phải đảm bảo chất
lượng không ôi thiu, đặc biệt là không bị mốc. Dùng
cân đồng hồ để cân nguyên liệu.
- Phối trộn: Các nguyên liệu bột cá, bột đậu
nành, bột mỳ, bột cám gạo được trộn đều.
- Tạo viên: Sau khi được phối trộn thì thức ăn
được tạo viên có kích cỡ theo mong muốn bằng
máy tạo viên. Sau đó thức ăn được sấy khô để bảo
quản được lâu hơn.
4. Chăm sóc và quản lý
- Bể thí nghiệm được tẩy rửa bằng Chlorin
nồng độ 30 - 50 ppm, dùng bàn chải chà sạch và
phơi khô.
- Nguồn nước cấp được lắng lọc trước khi
sử dụng, các yếu tố môi trường được theo dõi
hàng ngày.
- Cho cá ăn 2 lần/ ngày (7 giờ và 17 giờ). Bể
được xi phông loại bỏ thức ăn thừa và chất thải
ngày 2 lần/ngày (sáng và chiều).
5. Phương pháp thu thập số liệu
Các chỉ tiêu đo hàng ngày: nhiệt độ môi trường
nước, pH, hàm lượng oxy hòa tan được đo 2 lần/ngày
(6 giờ và 14 giờ).
- Nhiệt độ sử dụng nhiệt kế thủy ngân có thang
chia độ đến 0,10C.
- Hàm lượng oxy hòa tan đo bằng máy đo oxy
hiệu TOADKK của Nhật.
- Độ pH đo bằng máy đo pH hiệu TOADKK
của Nhật.
Thu mẫu đo chiều dài (mm), cân khối lượng (g)
và tỷ lệ sống (%) được xác định 30 ngày/lần, đo
ngẫu nhiên 30 cá thể tại mỗi bể thí nghiệm để tính
tốc độ sinh trưởng theo các công thức sau:
- Tốc độ tăng trưởng đặc trưng về khối lượng
của cá theo ngày (%/ngày).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 209
- Chi phí thức ăn cho 1kg cá tăng trưởng = FCR
x giá thức ăn.
- Tổng thu = sản lượng (kg) x giá bán (đ/kg).
- Lợi nhuận = tổng thu – tổng chi.
6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsotf
Excel 2003 và SPSS 16.0. Số liệu được trình bày
dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn (SD) và được
phân tích bằng phương pháp ANOVA một nhân tố.
Sự sai khác giữa các nghiệm thức được so sánh
theo phương pháp Duncan, sự sai khác có ý nghĩa
được xem xét khi p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Kết quả theo dõi một số yếu tố môi trường
Qua bảng 2 ta thấy, trong suốt quá trình thí
nghiệm 4 tháng (bắt đầu từ 1/4/2012 đến ngày
30/6/2012) trung bình nhiệt độ nước buổi sáng
29,7 ± 0,11 và buổi chiều là 31,01 ± 0,1. Sự chênh
lệch nhiệt độ giữa buổi sáng và buổi chiều cũng
không đáng kể (khoảng 20C) nên thích hợp cho cá
phát triển. Hàm lượng oxy trong bể buổi sáng trung
bình là 5,2 ± 0,07 mg/l và buổi chiều trung bình là
5,2 ± 0,07 mg/l. Yêu cầu hàm lượng oxy của cá
chình hoa trong nước yêu cầu phải trên 2 mg/l, thích
hợp nhất cho sinh trưởng đó là lớn hơn 5 mg/l. Cá
chình có cơ quan hô hấp phụ là da và xoang miệng
nên chúng có thể sống một thời gian dài khi ra khỏi
môi trường nước cơ thể vẫn giữ được một độ ẩm
nhất định. So với ngưỡng oxy này thì hàm lượng
oxy trong bể là thích hợp cho cá chình sinh trưởng.
Trung bình giá trị pH trong quá trình thí nghiệm
vào buổi sáng 7,61 ± 0,035, buổi sáng 7,59 ± 0,037.
Trong tự nhiên cá chình có thể sống ở môi trường
có giá trị pH từ 4 - 10, pH thích hợp nhất là từ
7 - 8,5. So với ngưỡng pH này thì giá trị pH trong bể
nuôi là thích hợp cho cá chình sinh trưởng.
Bảng 2. Một số yếu tố môi trường
trong quá trình thí nghiệm
Các chỉ tiêu theo dõi Sáng Chiều
Nhiệt độ (0C) 29,7 ± 0,11 31,0 ± 0,1
pH 7,61 ± 0,035 7,59 ± 0,037
DO (ppm) 5,2 ± 0,07 5,2 ± 0,07
2. Ảnh hưởng của thức ăn lên tăng trưởng của
cá chình hoa
Cá chình thuộc giống Anguilla đều là những loài
cá dữ, tính ăn của chúng thay đổi tùy từng giai đoạn
phát triển [3]. Để phát triển và duy trì các hoạt động
sinh lý bình thường, cá chình cần phải được cung
cấp protein, muối khoáng, vitamin và các nguồn năng
lượng khác. Trong đó, nguồn protein rất quan trọng
cho sự sinh trưởng và phát triển của cá chình [4].
Cá sử dụng protein để đáp ứng nhu cầu amino acid.
Nhu cầu protein của cá chình cao hơn so với các
loại cá nước ngọt khác [5].
SGR
w
(%) =
Ln(W
2
) – Ln(W
1
)
t
2
– t
1
Trong đó: W2, W1 là khối lượng của cá tương ứng với thời gian t2, t1;
t1: là thời gian ban đầu;
t2: thời gian sau thí nghiệm.
- Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối khối lượng của cá theo ngày (g/ngày)
DWG
w
=
W
2
– W
1
t
2
– t
1
- Hệ số thức ăn (FCR):
FCR =
Khối lượng thức ăn cá sử dụng
Khối lượng cá tăng lên
- Thức ăn tiêu thụ theo khối lượng khô (DFI) (g/con)
DFI =
Tổng lượng thức ăn tiêu thụ hằng ngày
Tổng số cá nuôi
- Hiệu quả sử dụng thức ăn FE (g/g)
FE =
Tổng khối lượng cá tăng thêm
Thức ăn tiêu thụ theo trọng lương khô (DFI)
- Tỷ lệ sống (S) (%)
Tỷ lệ sống (%) = Số cá thu hoạch x 100
Số cá thả ban đầu
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
210 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Qua bảng 3 cho thấy khối lượng cá tăng thêm
ở CT1 là thấp nhất (120,89 ± 1,13 g), tăng lên ở
CT2 (126,17 ± 0,41 g) và đạt cao nhất ở CT3
(126,75 ± 0,66 g). Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối khối
lượng theo ngày cũng tương tự thấp nhất ở CT1
(1,38 ± 0,009 g), tăng ở CT2 (1,42 ± 0,003 g) và đạt
cao nhất ở CT3 (1,43 ± 0,005 g). CT1 có sự sai khác
với CT2, CT3 về mặt ý nghĩa thống kê (P < 0,05),
còn giữa CT2 và CT3 sự sai khác không có ý nghĩa
thống kê (P > 0,05). Tốc độ tăng trưởng tương đối
đạt kết quả tương tự, tốc độ tăng trưởng tương đối
cao nhất ở CT3 (1,37 ± 0,003), CT2 (1,36 ± 0,0005),
CT1 (1,34 ± 0,004).
Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của thức
ăn đến sinh trưởng của cá chình như: Arai và ctv
(1972) xác định nhu cầu protein cho cá chình Nhật
Bản Anguilla japonica là 45% [5]. Bardonnet và ctv
(2004) kiểm tra tỷ lệ khác nhau giữa bốn nguồn
protein và các mức protein khác nhau, chỉ ra rằng
hàm lượng 45% protein trong khẩu phần thức ăn của
cá chình giống châu Âu cho mức sinh trưởng cao
nhất [6]. Nguyễn Phi Nam và ctv (2012) thực hiện trên
cá chình châu Âu giai đoạn bột, trung bình 0,3g/con.
Thí nghiệm được thực hiện trong 114 ngày với 4 loại
thức ăn là naupilus của Artemia shrimp, cá chép tươi
xay, trùn chỉ và thức ăn hỗn hợp, thí nghiệm chia làm
2 giai đoạn, mỗi giai đoạn kéo dài 2 tháng, mỗi thí
nghiệm lặp lại 2 lần và nuôi 100 con trong bể kính
20 lít. Kết quả của giai đoạn 1 cho thấy chỉ có nhóm
cho ăn trùn chỉ tăng trọng lượng (156,64%). Cá trong
các lô khác đểu giảm khối lượng. Ở giai đoạn 2 cũng
cho kết quả tương tự đối với nhóm cá ăn trùn chỉ
như ở thí nghiệm 1 là 422,34%, nhóm kế tiếp cũng
có tốc độ tăng trưởng cao là nhóm cho ăn trùn chỉ
(giai đoạn 1) và sau đó cho ăn thức ăn tổng hợp (giai
đoạn 2) với 189,9% [4].
Bảng 3. Tăng trưởng của cá chình hoa ở các nghiệm thức nuôi
Chỉ tiêu CT1 CT2 CT3
Khối lượng đầu 41,2 ± 0,027a 41,09 ± 0,1a 40,98 ± 0,04a
Khối lượng cuối (g) 162,09 ± 0,165a 167,26 ± 0,268b 167,73 ± 0,269b
Khối lượng tăng thêm (g) 120,89 ± 1,13a 126,17 ± 0,41b 126,75 ± 0,66b
DWGw (g/ngày) 1,38 ± 0,009
a 1,42 ± 0,003b 1,43 ± 0,005b
SGRw (%/ngày) 1,34 ± 0,004
a 1,36 ± 0,0005b 1,37 ± 0,003b
Các số trong cùng một hàng mang các chữ khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05)
CT1: 40% protein; CT2: 45% protein; CT3: 50% protein
3. Hiệu quả sử dụng thức ăn của cá chình hoa
Qua bảng 4 cho thấy hệ số thức ăn tại CT1 là cao
nhất (2,62 ± 0,01) có sự sai khác có ý nghĩa thống
kê so với CT2 (2,56 ± 0,003) và CT3 (2,55 ± 0,006)
(P < 0,05). CT2 có hệ số thức ăn cao hơn CT3,
tuy nhiên sự sai khác không có ý nghĩa thống kê
(P > 0,05). Thức ăn tiêu thụ theo trọng lượng khô
của cá cao nhất ở CT2 (3,65 ± 0,006) và CT3
(3,65 ± 0,009), thấp nhất ở CT1 (3,63 ± 0,008) nhưng
sự sai khác này cũng không có ý nghĩa thống kê
(P > 0,05). Tương tự như vậy hiệu quả sử dụng
thức ăn của cá tại CT1 là thấp nhất (60,92 ± 0,32) và
có sự sai khác có ý nghĩa thống kê với CT2
(62,43 ± 0,08) và CT3 (62,61 ± 0,15) (P < 0,05).
Như vậy hệ số thức ăn mà cá sử dụng với hàm
lượng đạm 45% và 50% không có sự sai khác.
Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đó
khi sử dụng thức ăn cho cá chình với hàm lượng
đạm 45%. Từ kết quả thu được nhận thấy việc tìm
ra thức ăn có hàm lượng Protein phù hợp sẽ giúp
tăng trưởng tối ưu cũng như tiết kiệm tối đa chi phí
sản xuất cho người nuôi.
Bảng 4. Hiệu quả sử dụng thức ăn của cá qua các tháng nuôi
Chỉ tiêu CT1 CT2 CT3
FCR 2,62 ± 0,01b 2,56 ± 0,003a 2,55 ± 0,006a
DFI 3,63 ± 0,008a 3,65 ± 0,006a 3,65 ± 0,009a
FE 60,92 ± 0,32b 62,43 ± 0,08a 62,61 ± 0,15a
Với: CT1: 40% protein; CT2: 45% protein; CT3: 50% protein
4. Ảnh hưởng của thức ăn lên tỷ lệ sống của cá
chình hoa
Qua hình 1 ta thấy: có sự sai khác giữa ở
các công thức thức ăn khác nhau, tỷ lệ sống
thấp nhất ở CT1 và sai khác có ý nghĩa thống kê
với CT2 và CT3 (P<0,05). Tỷ lệ sống cao nhất
ở CT2 (91,67%), kế tiếp là CT3 (91,43%) và
thấp nhất ở CT1 (87,3%). Tuy nhiên, giữa CT2 và
CT3 sự sai khác không mang ý nghĩa thống kê
(P > 0,05).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 211
Hình 1. Tỷ lệ sống của cá khi kết thúc thí nghiệm
Một số nghiên cứu trên các đối tượng khác
cho kết quả tương tự như: Chu Văn Công (2006)
đã thử nghiệm nuôi cá chình trong ao đất và
trong bể xi măng bằng 3 loại thức ăn tự chế với
hàm lượng protein là 14,80%; 38,25%; 44,49%
trong 4 tháng cho kết quả là thức ăn có hàm
lượng protein 44,49% cho tốc độ tăng trưởng và
tỷ lệ sống cao nhất [2]. Như vậy chất lượng
thức ăn cũng là một nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới tỷ lệ sống của cá chình hoa. Việc xác
định được tỷ lệ thành phần các chất dinh dưỡng
trong sản xuất thức ăn, đặc biệt là đảm bảo nguồn
protein giúp tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá đạt
tốt nhất.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Các yếu tố môi trường trong suốt quá trình
nuôi đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự tăng
trưởng của cá chình.
- Cá được cho ăn thức ăn có hàm lượng protein
50% với mật độ 80 con/m3 cho tốc độ tăng trưởng
tuyệt đối và đặc trưng tốt nhất (1,43 ± 0,005 g/ngày
và 1,37 ± 0,003 %/ngày).
- Tỷ lệ sống của cá cao nhất khi sử dụng thức
ăn có hàm lượng protein là 45% (91,67%) và thấp
nhất với thức ăn chứa 40% protein (87,3%).
- Thức ăn có hàm lượng protein 50% cho hệ số
thức ăn thấp nhất (2,55 ± 0,006) và hệ số tiêu thụ
thức ăn là cao nhất (62,61 ± 0,15)
2. Kiến nghị
- Để tiếp tục việc hoàn thiện quy trình nuôi cần
có những nghiên cứu sâu hơn nữa về dinh dưỡng
nhằm tính toán được % protein trong thịt cá để có
thể đánh giá được khối lượng thức ăn mà cá tiếp
nhận được từ đó đưa ra được các phép tính toán
hiệu quả kinh tế tối ưu nhất.
- Ngoài ra cần có các nghiên cứu về ảnh hưởng
của lipid và các chất khác trong thành phần thức ăn
lên sự tăng trưởng của cá chình để đưa ra được
công thức thức ăn phù hợp nhất. Bên cạnh đó cần
có các nghiên cứu về cá chình khi tiến hành nuôi ở
các giai đoạn thương phẩm lớn hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị An, Hồ Hồng Hường và Nguyễn Công Dân, 2001. Tóm tắt kết quả bước đầu nuôi thử nghiệm các loài cá chình
Nhật Bản (Anguilla japonica) ở miền Bắc Việt Nam. Báo cáo nghiên cứu khoa học năm 2000. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản I: 3.
2. Chu Văn Công, 2006. Tìm hiểu nguồn lợi giống cá chình (Anguilla) tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên và thử nghiệm nuôi
thương phẩm trong ao và trong bể xi măng bằng một số loại thức ăn. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Nha Trang.
3. Nguyễn Đình Mão và Vũ Trung Tạng, 2005. Giáo trình Ngư loại học. NXB Nông nghiệp.
4. Nguyễn Phi Nam, Phạm Thị Phương Lan, Nguyễn Văn Huy và Trần Quốc Thịnh, 2012. Thử nghiệm nuôi cá chình hoa
(Anguilla marmorata) trong lồng bằng các loại thức ăn khác nhau tại hồ chứa nước Hòa Mỹ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí
Khoa học. Đại học Huế.
Tiếng Anh
5. Arai, S., Nose, T. And Hashimoto, Y., 1972. Amino acids essential for growth of eels Anguilla anguilla and Anguilla japonic.
Bull Jpn. Soc. Sci. Fish. 38: 753-759.
6. Bardonnet, A. and Riera, P., 2004. Feeding of glass eels (Anguilla anguilla) in the course of their esturarine migration: new
insights from stable isotope analysis. Coastal and Shelf Science, 63 (1-2): 201-209.
7. Isao, M., 1979. Theory and practise of eel culture. Avaiable from the national technical information service: 133.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_cac_ham_luong_protein_khac_nhau_trong_thuc_an.pdf