4.1 Kết luận Biện pháp tưới cho lúa khi mực nước trong ruộng hạ thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm và 15 - 20 cm vẫn duy trì được chiều cao cây lúa, số chổi, thành phần năng suất và năng suất lúa bằng với biện pháp tưới ngập liên tục. Sau một vụ bón phân rơm ủ với nấm Trichoderma kết hợp với phần vô cơ chi gia tăng về chiều cao cây lúa, số hạt bông' nhưng chưa làm tăng các thành phần năng suất gốm số bóng mở, tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng 1000 hạt và năng suất lúa. 4.2 Đề nghị Áp dụng bón phân rơm ủ trong thời gian dài để theo dõi ảnh hưởng dài hạn của bón phân rơm ủ đến thành phần năng suất và năng suất lúa cũng như hiệu quả trong cải thiện độ phì nhiêu đất ở ĐBSCL. Nghiên cứu mối tương quan giữa biện pháp tưới cho lúa khi mực nước trong ruộng hạ thấp dưới
mặt đất 15 - 20 cm đến thế oxy hoá khứ và sự phát thải khí CH4 và N2O.
10 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của biện pháp tưới tiết kiệm và xử lý rơm đến sinh trưởng và năng suất lúa trên đất phù sa tại Bình Minh - Vĩnh Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
34
ẢNH HƯỞNG CỦA BIỆN PHÁP TƯỚI TIẾT KIÊṂ VÀ XỬ LÝ RƠM
ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA TRÊN ĐẤT PHÙ SA
TAỊ BÌNH MINH - VĨNH LONG
Nguyễn Quốc Khương1, Lê Văn Dang1, Ngô Ngọc Hưng1
1Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 27/07/2015
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
18/08/2015
Ngày chấp nhận đăng: 04/2017
Title:
Several effects of the
economical irrigation methods
and straw treatment on the
growth and yield of rice on
alluvial soil in Binh Minh, Vinh
Long
Keywords:
Economical irrigation methods,
rice straw compost,
Trichoderma, fresh rice straw
incorporation, alluvial soil,
growth and grain yield
Từ khóa:
Tưới tiết kiêṃ nước, phân
rơm ủ, nấm Trichoderma,
vùi rơm tươi, đất phù sa,
sinh trưởng và năng suất
lúa
ABSTRACT
The objective of the study was to evaluate economical irrigation methods and
straw treatment on the growth and rice productivity. The field experiment
included five treatments (CF: Continuous flooding without rice straw compost
and removal of straw from the field; AWD: Alternate wetting and drying
irrigation and re-flood as field water depth of 10-15 cm; AWD’: Alternate
wetting and drying irrigation and re-flood as field water depth of 15-20 cm;
RSC: Incorporation of 6 tons ha-1 rice straw compost inoculated with
Trichoderma; and FRS: Incorporation of 6 tons ha-1 fresh rice straw and
stubble into wet soil) was carried out along with 4 times of repetition in Binh
Minh, Vinh Long. The results showed that plant height, tillers, yield
components, and grain yield of alternated wetting and drying irrigation and re-
flood as field water depth of 10-15cm and 15-20cm were similar to the
continuously flooded irrigation. Regarding the rice straw compost together with
Trichoderma, it was clearly seen that there was an increase in plant height, and
grains per panicle, but there were not any increasing on the yield components
of panicle per m2, filled grain percentage, the weight of 1,000 grains, and rice
yield.
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá các biện pháp tưới tiết kiệm và xử lý rơm đến
sinh trưởng và năng suất lúa. Thí nghiệm một nhân tố trong bố trí khối hoàn
toàn ngẫu nhiên gồm 5 nghiệm thức (CF: ngập liên tục, không bón phân hữu cơ
và lượng rơm vụ trước được lấy khỏi ruộng; AWD: tưới ngập khô luân phiên và
ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ thấp dưới mặt đất
10 – 15 cm; AWD’: giống AWD nhưng ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực
nước trong ruộng hạ thấp dưới mặt đất 15 – 20 cm; RSC: bón 6 tấn ha-1 rơm ủ
với nấm Trichoderma; FRS: vùi 6 tấn ha-1 rơm tươi vào đất), với bốn lặp lại
được thực hiện tại thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Kết quả thí nghiệm cho
thấy biện pháp tưới cho lúa khi mực nước hạ thấp dưới mặt đất 10 – 15 cm và
15 – 20 cm vâñ đaṭ chiều cao cây, số chồi, thành phần năng suất và năng suất
lúa bằng với biêṇ pháp tưới ngâp̣ liên tuc̣. Sau môṭ vu ̣ bón rơm ủ với nấm
Trichoderma kết hơp̣ với phân vô cơ chı̉ gia tăng về chiều cao, số hạt bông-1
nhưng chưa tăng các thành phần năng suất gồm số bông m-2, tỷ lệ hạt chắc,
trọng lượng 1000 hạt và năng suất lúa.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
35
1. GIỚI THIỆU
Trong điều kiện biến đổi khí hậu, nhiều biện pháp
được nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp canh tác
hợp lý để giảm thiểu phát thải khí nhà kính bao
gồm các biện pháp tưới và các phương thức xử lý
rơm đã được thực hiện ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Trong đó, biện pháp tưới tiết kiệm nước
được chứng minh làm giảm phát thải khí CH4
(Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng,
2014a). Ngoài ra, biện pháp này không chỉ tiết
kiệm nguồn nước tưới (Lý Ngọc Thanh Xuân và
ctv., 2011) mà còn giảm chi phí tưới từ 20 - 30%
(BRRI, 2008). Các biện pháp xử lý rơm như vùi
rơm tươi đã làm gia tăng phát thải khí CH4
(Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng,
2014b) và phát thải N2O tăng khi bón chất hữu cơ
(Terry et al., 1981; Duxbury et al., 1982), nhưng
tận dụng được nguồn hữu cơ trả lại cho đất (Lưu
Hồng Mẫn và ctv., 2006) và hạn chế sự phát triển
của nấm bệnh lưu tồn trong rơm rạ (Nagamani
and Mew, 1987). Việc thực hiện các biện pháp
này có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng
và năng suất lúa. Điều này đã được nghiên cứu
trong điều kiện thí nghiệm nhà lưới (Nguyễn
Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng, 2014a;
2014b). Tuy nhiên, ảnh hưởng của các biện pháp
tưới và xử lý rơm đến sinh trưởng và năng suất
lúa chưa được thực hiện trong điều kiêṇ đồng
ruôṇg. Vì vậy, đề tài được nghiên cứu nhằm mục
tiêu đánh giá ảnh hưởng các biện pháp tưới tiết
kiệm và xử lý rơm đến sinh trưởng và năng suất
lúa đông xuân tại Bình Minh –Vĩnh Long.
2. VÂṬ LIÊỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Vật liêụ
Địa điểm: thí nghiệm được thực hiện vào vụ đông
xuân 2012 - 2013 tại xã Đông Thạnh, thị xã Bình
Minh, tỉnh Vĩnh Long từ tháng 11 năm 2012 đến
tháng 02 năm 2013. Đặc tính lý hóa học của đất
thí nghiệm được thể hiện ở Bảng 1, mẫu đất được
phân tích ở bộ môn Khoa học Đất, Khoa Nông
nghiệp và Sinh học Ứng dụng, Trường Đại học
Cần Thơ.
Bảng 1. Các đặc tính vật lý, hóa học của đất thí nghiệm đầu vụ tại xã Đông Thạnh, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh
Long
Độ sâu
(cm)
pHH2O
EC
(mS cm-1)
N tổng số
(%)
Lân dễ tiêu
(mg kg-1)
C hữu cơ
(%C)
Sa cấu (%)
Cát Thịt Sét
0-20 5,61 0,18 0,24 7,92 3,07 0,75 55,7 43,6
20-50 5,46 0,25 0,11 3,11 1,34 0,85 52,4 46,7
Ghi chú: pHH2O được trích ở tỷ lệ 1: 2,5 (đất : nước); N tổng số được xác định bằng phương pháp chưng cất Kjeldahl. Xác
định P dễ tiêu bằng phương pháp Bray 2. Chất hữu cơ được xác định bằng phương pháp Walkley Black. Sa cấu được xác
định bằng phương pháp ống hút Robinson.
Giống lúa được sử dụng là OM5451 có thời gian sinh trưởng 85 - 90 ngày.
2.2 Phương pháp
Thí nghiệm một nhân tố trong bố trí khối hoàn
toàn ngẫu nhiên. Các nghiệm thức thí nghiệm
đươc̣ mô tả chi tiết ở Bảng 2, với 4 lần lặp lại trên
diện tích mỗi lô thí nghiệm là 36 m2 (dài 6 m x 6
m). Lúa đươc̣ sa ̣hàng, với lươṇg lúa giống là 100
kg ha-1.
Bảng 2. Các nghiệm thức của thí nghiệm đồng ruộng tại Bình Minh - Vĩnh Long
STT Nghiệm thức Mô tả
1 Đối chứng: (Continuous
flooding: CF)
Nước trong ruộng được duy trì 5 - 10 cm trong suốt vụ, ngoại trừ
rút nước giai đoaṇ trước và sau khi sa ̣5 ngày và 10 - 14 ngày trước
khi thu hoạch. Tưới ngập liên tục, không bón phân rơm hữu cơ và
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
36
STT Nghiệm thức Mô tả
lượng rơm rạ của vụ trước được lấy khỏi ruộng.
2 Tưới ngập – khô luân
phiên 1 (Alternate wetting
and drying irrigation:
AWD)
Giữ ruộng ngập trong giai đoạn 5 - 10 ngày sau sạ; Ruộng lúa chỉ
được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ thấp dưới mặt đất 10
- 15 cm. Cần duy trì ngập nước 5 - 7 ngày trong giai đoạn trổ. Rút
nước 10 - 14 ngày trước khi thu hoạch.
3 Tưới ngập - khô luân
phiên 2 (AWD’)
Quản lý nước tương tự như nghiệm thức 2, nhưng ruộng lúa chỉ
được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ thấp dưới mặt đất 15
- 20 cm. Nghiệm thức 2 và nghiệm thức 3 được thiết kế không cho
nước ở các lô khác thấm qua (Hình 1a).
4 Bón phân hữu cơ (rice
straw compost: RSC)
Bón phân hữu cơ từ rơm ủ với nấm Trichoderma, lượng bón 6 tấn
ha-1.
5 Vùi rơm tươi (fresh rice
straw incorporation: FRS)
Vùi rơm tươi vào đất 15 ngày trước khi sạ với lượng 6 tấn ha-1.
Cách đặt ống và cách đo mực nước ruộng (Ống
Perch) để xác định thời điểm tưới các nghiệm
thức khô ngập xen kẽ: các ống nhựa PVC, đường
kính 10 - 14 mm, chiều cao 35 cm được đục lỗ 5
mm, lỗ cách lỗ 2 cm, chiều cao đục lỗ là 20 cm
(Hình 1b). Ống được đặt vào mỗi ô (các nghiệm
thức khô ngập xen kẽ) trong ruộng. Dùng miếng
gỗ phẳng đặt trên thành ống và đóng xuống đất
sao cho phần đục lỗ nằm trong đất, phần không
đục lỗ từ mặt đất đến thành ống là 15 cm và mặt
ống phải bằng phẳng, không bị nghiêng, lệch. Lấy
hết đất tới sát đáy ống ra khỏi ống để nước ruộng
vào trong ống. Hàng ngày đo mức nước ruộng từ
mặt nước trong ống đến thành đı̉nh ống nhựa
PVC. Ô thí nghiệm được tưới trở lại mực nước
trong ruộng hạ thấp dưới mặt đất khoảng 10 - 15
cm ở nghiệm thức AWD và khoảng 15 - 20 cm ở
nghiệm thức AWD’.
Cách tính mực nước ruộng (Field water
depth=FWD):
FWD (cm) = Trị số đo hàng ngày (đo từ mưc̣
nước đến đı̉nh) - 15 cm
(a)
(b)
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
37
(c) (d) (e)
Hình 1. Thı́ nghiêṃ đồng ruôṇg (a) biêṇ pháp tưới khô ngâp̣ xen ke ̃đươc̣ kiểm soát; (b) xác điṇh mực nước trong
ruộng hạ thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm cho tưới nước vào ruôṇg; (c) đo sinh trưởng lúa; (d) giai đoaṇ giữ khô ở
nghiêṃ thức AWD và (e) ở nghiêṃ thức AWD’ vào thời điểm 18 ngày sau sa ̣taị Bıǹh Minh Vıñh Long
Công thức phân bón áp dụng là: 100 kg N – 60 kg
P2O5 – 30 kg K2O;
Chỉ tiêu theo dõi
- Xác điṇh sinh trưởng gồm chiều cao và số
chồi (Hı̀nh 1c).
Xác định chiều cao lúa vào thời điểm 10,
20, 45, 65 và 90 ngày sau sạ (NSS).
Chiều cao cây được đo từ sát mặt đất lên
tới chót lá hoặc chót bông cao nhất trên
cùng. Đo 20 cây mỗi khung (0,25 m2 x 2
khung trên mỗi lô).
Xác định số chồi lúa vào thời điểm 20,
45, 65 và 90 NSS. Đếm tổng số chồi trên
mỗi khung (0,25 m2 x 2 khung trên mỗi
lô).
- Xác điṇh thành phần năng suất lúa.
Số bông m-2: Đếm tổng số bông trong
mỗi khung (0,25 m2 x 2 khung trên mỗi lô) x 4
Số hạt bông-1: Tổng số hạt thu được/tổng
số bông thu được trên đơn vị diện tích.
Tỷ lệ hạt chắc: (Tổng số hạt chắc/tổng số
hạt) x 100%.
Trọng lượng 1000 hạt: Cân trọng lượng
1000 hạt của mỗi nghiệm thức.
- Năng suất thực tế: Năng suất được xác điṇh
vào thời điểm thu hoạch trên diêṇ tı́ch 5m2 ở
ẩm độ 14%.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của biện pháp tưới tiết kiêṃ
và xử lý rơm đến sinh trưởng lúa vụ đông
xuân năm 2012 - 2013 tại Bình Minh,
Vĩnh Long
3.1.1 Chiều cao cây (cm)
Chiều cao cây giữa các nghiệm thức khác biệt ý
nghĩa thống kê 5% kể từ 20 NSS. Cho đến khi thu
hoạch, chiều cao cây cao nhất ở nghiệm thức bón
rơm ủ vởi nấm Trichoderma. Cụ thể, chiều cao
cây đạt 95,8 cm ở nghiệm thức bón rơm ủ với
nấm Trichoderma trong khi các nghiệm thức khác
83,0 – 86,2 cm (Bảng 3).
Bảng 3. Ảnh hưởng biện pháp tưới tiết kiêṃ và xử lý rơm đến chiều cao cây lúa (cm) vụ đông xuân 2012 – 2013 taị
Bình Minh – Vĩnh Long
Nghiêṃ thức
Ngày sau sa ̣
10 20 45 65 90
CF 16,4 34,5bc 62,5b 82,8bc 84,2b
AWD 16,7 36,3ab 63,1b 84,7b 85,8b
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
38
Nghiêṃ thức
Ngày sau sa ̣
10 20 45 65 90
AWD' 16,5 35,2ab 62,8b 82,9bc 86,2b
RSC 16,8 38,1a 69,2a 90,8b 95,8a
FRS 15,7 31,9c 60,3b 79,7c 83,0b
F ns ** ** ** **
CV (%) 13,65 15,20 13,08 12,79 12,28
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau khác nhau thì có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1% (**) và 5%
(*); ns: không có khác biệt ý nghĩa thống kê.
CF: Đối chứng - tưới ngập liên tục, không bón phân hữu cơ và lượng rơm rạ của vụ trước được lấy khỏi ruộng;
AWD: Tưới ngập khô luân phiên 1 - tưới khô ngập xen kẽ, ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ
thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm;
AWD’: Tưới ngập khô luân phiên 2 - tưới khô ngập xen kẽ, ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng
hạ thấp dưới mặt đất 15 - 20 cm;
RSC: Bón phân hữu cơ - rơm ủ với nấm Trichoderma, lượng bón 6 tấn ha-1.
FRS: Vùi rơm tươi - rơm được vùi vào đất 15 ngày trước khi sạ với lượng 6 tấn ha-1;
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các biện pháp
tưới khô ngập luân phiên không khác biệt ý nghĩa
thống kê so với tưới ngập liên tục trong điều kiện
nhà lưới (Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc
Hưng, 2014a). Qua thí nghiệm nhà lưới và đồng
ruộng cho thấy, việc sử dụng các biện pháp tưới
khô ngập luân phiên vẫn đạt được chiều cao cây
lúa bằng với biện pháp tưới ngập liên tục. Tuy
nhiên, khi bón phân rơm ủ lên đến 10 tấn ha-1 với
nấm Trichoderma ở mỗi đầu vu ̣ thứ nhất và thứ
hai cũng chưa góp phần làm tăng chiều cao cây
lúa vào thời điểm thu hoac̣h trên cả hai vu ̣
(Nguyêñ Thành Hối và ctv., 2014). Sư ̣khác biêṭ
giữa hai nghiên cứu này có thể tuỳ thuôc̣ vào chất
lươṇg phân ủ.
3.1.2 Số chồi hữu hiêụ (chồi m-2)
Các biện pháp quản lý nước và xử lý rơm chưa
làm thay đổi số chồi lúa hữu hiệu trong cả vụ lúa
đông xuân 2012 - 2013, với số chồi lúa hữu hiệu
trung bình là 589 chồi m-2 (Bảng 4). Số chồi lúa
hữu hiệu đạt cao nhất vào thời điểm 20 NSS
(Bảng 4).
Bảng 4. Ảnh hưởng biện pháp tưới tiết kiêṃ và xử lý rơm đến số chồi lúa hữu hiêụ (chồi m-2)
vụ đông xuân 2012 – 2013 taị Bình Minh, Vĩnh Long
Nghiêṃ thức
Ngày sau sa ̣
20 45 65 90
CF 890 749 657 563
AWD 1014 758 686 592
AWD' 1069 754 680 606
RSC 1143 808 697 621
FRS 875 724 627 562
Trung bình 998 759 670 589
F ns ns ns ns
CV (%) 14,21 8,78 7,92 9,84
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
39
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau khác nhau thì có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1% (**) và 5%
(*); ns: không có khác biệt ý nghĩa thống kê.
CF: Đối chứng - tưới ngập liên tục, không bón phân hữu cơ và lượng rơm rạ của vụ trước được lấy khỏi ruộng;
AWD: Tưới ngập khô luân phiên 1 - tưới khô ngập xen kẽ, ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ
thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm;
AWD’: Tưới ngập khô luân phiên 2 - tưới khô ngập xen kẽ, ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng
hạ thấp dưới mặt đất 15 - 20 cm;
RSC: Bón phân hữu cơ - rơm ủ với nấm Trichoderma, lượng bón 6 tấn ha-1.
FRS: Vùi rơm tươi - rơm được vùi vào đất 15 ngày trước khi sạ với lượng 6 tấn ha-1;
Theo Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng
(2014a), hai phương pháp tưới tiết kiệm trong thí
nghiệm nhà lưới cũng có số chồi m-2 tương đương
với biện pháp tưới ngập liên tục trong cả vụ. Đối
với bón 5 và 10 tấn ha-1 phân rơm ủ với nấm
Trichoderma không làm tăng số chồi m-2 ở vu ̣thứ
nhất, nhưng tăng chồi m-2 ở vu ̣bón thứ hai so với
không bón rơm ủ (Nguyêñ Thành Hối và ctv.,
2014). Kết quả số chồi m-2 của thı́ nghiêṃ không
khác biêṭ ở vu ̣thứ nhất cũng phù hơp̣ với kết quả
của thı́ nghiêṃ này.
3.2 Ảnh hưởng của biện pháp tưới tiết kiêṃ
và xử lý rơm đến thành phần năng suất và
năng suất lúa vụ đông xuân năm 2012 -
2013 tại Bình Minh - Vĩnh Long
3.2.1 Thành phần năng suất lúa
Đến thời điểm thu hoạch không có sự khác biệt ý
nghĩa thống kê về số bông m-2 giữa các biện pháp
tưới tiết kiệm nước và các cách xử lý rơm, với
trung bình 589 bông m-2 (Bảng 5). Theo Nguyễn
Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng (2014a), các
phương pháp tưới tiết kiệm nước lại không ảnh
hưởng đến số bông m-2 so với tưới ngập liên tục
trong điều kiện nhà lưới. Tuy nhiên, việc bón
phân hữu cơ ủ với nấm Trichoderma đã làm tăng
số bông m-2 (Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc
Hưng, 2014b) trong khi kết quả của Nguyêñ
Thành Hối và ctv. (2014), không làm tăng số
bông m-2 trong điều kiện nhà lưới.
Số hạt bông-1 đạt cao nhất ở nghiệm thức bón
phân rơm ủ với nấm Trichoderma, với 60,8 bông
m-2 so với các nghiệm thức khác là 47,6 - 50,5
bông m-2 (Bảng 5). Kết quả bón 6 tấn ha-1 rơm ủ
với nấm Trichoderma cũng làm gia tăng số hạt
bông-1 trong nhà lưới (Nguyễn Quốc Khương và
Ngô Ngọc Hưng, 2014b), nhưng kết quả cũng
đươc̣ chứng minh ngươc̣ laị (Nguyêñ Thành Hối
và ctv., 2014), điều này có thể do đăc̣ tı́nh giống
lúa vı̀ giữa ba giống khác trong thı́ nghiêṃ của
Nguyêñ Thành Hối và ctv. (2014), cũng có số hạt
bông-1 khác nhau. Số hạt bông-1 cũng không khác
biệt ý nghıã thống kê giữa hai biện pháp tưới khô
ngập luân phiên với biện pháp canh tác ngâp̣ liên
tục (Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng,
2014a).
Bảng 5. Ảnh hưởng biện pháp tưới tiết kiêṃ và xử lý rơm đến thành phần năng suất lúa vụ đông xuân 2012 – 2013
taị Bình Minh, Vĩnh Long
Nghiêṃ thức
Ngày sau sa ̣
Số bông m-2 Số hạt bông-1 Tı ̉lê ̣hạt chắc (%)
Trọng lượng 1000 hạt
(g)
CF 564 47,6b 80,3 23,8
AWD 593 48,7b 80,9 23,6
AWD' 606 49,3b 79,6 23,5
RSC 622 60,8a 81,3 23,8
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
40
Nghiêṃ thức
Ngày sau sa ̣
Số bông m-2 Số hạt bông-1 Tı ̉lê ̣hạt chắc (%)
Trọng lượng 1000 hạt
(g)
FRS 562 50,5b 76,7 23,5
Trung bı̀nh 589 51,4 79,8 23,6
F ns ** ns ns
CV (%) 9,84 7,83 13,95 13,24
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau khác nhau thì có khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1% (**) và 5%
(*); ns: không có khác biệt ý nghĩa thống kê.
CF: Đối chứng - tưới ngập liên tục, không bón phân hữu cơ và lượng rơm rạ của vụ trước được lấy khỏi ruộng;
AWD: Tưới ngập khô luân phiên 1 - tưới khô ngập xen kẽ, ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ
thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm;
AWD’: Tưới ngập khô luân phiên 2 - tưới khô ngập xen kẽ, ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng
hạ thấp dưới mặt đất 15 - 20 cm;
RSC: Bón phân hữu cơ - rơm ủ với nấm Trichoderma, lượng bón 6 tấn ha-1.
FRS: Vùi rơm tươi - rơm được vùi vào đất 15 ngày trước khi sạ với lượng 6 tấn ha-1;
Tỷ lệ hạt chắc giữa các nghiệm thức không khác
biệt ý nghĩa thống kê và tỷ lệ này < 81% (Bảng
5). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu các biện
pháp tưới tiết kiệm trong nhà lưới (Nguyễn Quốc
Khương và Ngô Ngọc Hưng, 2014a). Tuy nhiên,
bón rơm ủ với với nấm Trichoderma đã gia tăng
tỷ lệ hạt chắc trong nhà lưới (Nguyễn Quốc
Khương và Ngô Ngọc Hưng, 2014b) nhưng theo
Nguyêñ Thành Hối và ctv. (2014) thı̀ đưa ra kết
quả ngươc̣ laị. Nguyên nhân có thể do các giống
lúa khác nhau giữa các thı́ nghiêṃ.
Tương tự số bông m-2 và tỷ lệ hạt chắc, trọng
lượng 1000 hạt giữa các nghiệm thức cũng không
khác biệt ý nghĩa thống kê trong điều kiện đồng
ruộng taị Bı̀nh Minh – Vıñh Long (Bảng 5). Kết
quả trong nhà lưới cũng không có sự khác biệt ý
nghıã thống kê về trọng lượng 1000 hạt giữa các
nghiệm thức về quản lý nước và xử lý rơm
(Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng,
2014a; Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc
Hưng, 2014b; Nguyêñ Thành Hối và ctv., 2014).
3.2.2 Năng suất lúa (tấn ha-1)
Năng suất lúa không khác biệt ý nghĩa thống kê
giữa các nghiệm thức tưới tiết kiệm với ngập liên
tục (Hình 2), với năng suất hạt trung bình ở những
nghiệm thức này đạt 7,72 tấn ha-1. Nguyên nhân,
đạm là yếu tố chính quyết định năng suất lúa (Jing
et al., 2008 và Hirzel et al., 2011) và hiệu quả sử
dụng đạm giữa ngập liên tục và khô ngập xen kẽ ở
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tương
đương nhau (Nguyễn Quốc Khương và ctv., 2013)
dẫn đến năng suất lúa tương đương nhau.
Theo Carbangon et al. (2001), trong hầu hết các
trường hợp năng suất hạt với điều kiện ngập liên
tục cao hơn từ 1 - 7% so với điều kiện khô ngập
luân phiên. Kết quả nghiên cứu taị Kiên Giang
cho thấy, tưới khô ngâp̣ xen ke ̃và khô ngâp̣ xen
ke ̃ kết hơp̣ vùi rơm tăng năng suất 8 và 10,9%,
theo thứ tư ̣(Ngô Thi ̣ Nhàng, 2013). Ngoài ra, theo
Tran Thi Ngoc Huan et al. (2010) cho rằng, năng
suất ở AWD cao hơn CF ở vụ đông xuân 2007 -
2008, với năng suất biến động trên nghiệm thức
CF từ 6,06 đến 6,37 tấn ha-1 và trên nghiệm thức
AWD trong khoảng 6,19 - 6,46 tấn ha-1. Kết quả
cũng đươc̣ chứng minh tương tư ̣ bởi Huỳnh
Quang Tı́n và ctv. (2012), mô hı̀nh canh tác tưới
khô ngập xen ke ̃ cho năng suất khác biêṭ so với
đối chứng ở vu ̣ đông xuân 2011 - 2012 taị An
Giang. Tuy nhiên, Moya et al. (2004) và Limeng
Zhang (2009) kết luận rằng, không có ảnh hưởng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
41
đến năng suất của các nghiệm thức quản lý nước.
Kết quả nghiên cứu lúa ở ĐBSCL cho thấy, biện
pháp tưới nước tiết kiệm không đưa đến sự khác
biệt về năng suất so với biện pháp canh tác lúa
ngập liên tục (Nguyễn Quốc Khương và ctv.,
2013; Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng,
2014a). Qua đây cho thấy ảnh hưởng của tưới khô
ngập luân phiên đến năng suất lúa rất biến động,
do đó, cần thực hiện trong thời gian dài để xác
định tính quy luật cho chính xác hơn. Măc̣ dù biêṇ
pháp tưới khô ngâp xen ke ̃ không khác biêṭ về
năng suất nhưng dâñ đến giảm 33,3% lươṇg nước
(Lý Ngọc Thanh Xuân và ctv., 2011).
Ghi chú:
CF: Đối chứng - tưới ngập liên tục, không bón phân rơm ủ
và lượng rơm rạ của vụ trước được lấy khỏi ruộng;
AWD: Tưới ngập khô luân phiên 1 - tưới khô ngập xen kẽ,
ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ
thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm;
AWD’: Tưới ngập khô luân phiên 2 - tưới khô ngập xen kẽ,
ruộng lúa chỉ được tưới trở lại khi mực nước trong ruộng hạ
thấp dưới mặt đất 15 - 20 cm;
RSC: Bón phân hữu cơ - rơm ủ với nấm Trichoderma, lượng
bón 6 tấn ha-1;
FRS: Vùi rơm tươi - rơm được vùi vào đất 15 ngày trước khi
sạ với lượng 6 tấn ha-1.
Hình 2. Ảnh hưởng biện pháp tưới tiết kiêṃ và xử lý rơm đến năng suất lúa vụ đông xuân 2012 – 2013 taị Bình
Minh, Vĩnh Long
Năng suất lúa ở nghiệm thức bón phân hữu cơ
(7,65 tấn ha-1) không khác biệt ý nghĩa thống kê
so với biện pháp tưới ngập liên tục, không bón
phân hữu cơ và lượng rơm rạ của vụ trước được
lấy khỏi ruộng (7,80 tấn ha-1) và biện pháp vùi
rơm tươi vào đất (7,55 tấn ha-1) (Hình 2). Trong
vài trường hợp (ở những nơi có khí hậu lạnh hoặc
ở những cánh đồng có lượng mưa thấp) vùi rơm
có thể dẫn đến giảm năng suất (Tanaka, 1973),
nhưng ở vùng nhiệt đới những ảnh hưởng đó
không phải là vấn đề quan trọng (Flinn and
Marciano, 1984). Tuy nhiên, theo Nguyễn Thành
Hối và Nguyễn Bảo Vệ (2010), năng suất lúa
giảm 15, 25 và 34% khi lượng rơm tươi vùi vào
đất 1,25; 2,50 và 5,00 g/chậu-1, theo thứ tự. Qua
đây cho thấy, hiệu quả trước mắt thấp nhưng hiệu
quả của vùi rơm lâu dài có ý nghĩa lớn trong cải
thiện chất lượng đất và năng suất lúa (Dobermann
và Fairhurst, 2002). Nguyên nhân làm cho biêṇ
pháp vùi rơm tươi đaṭ năng suất thấp hơn là đa ̃
gây ra bất đôṇg đaṃ taṃ thời, vì vậy, sinh trưởng
của lúa có khuynh hướng giảm và dâñ đến giảm
năng suất lúa trong khi lấy rơm ra khỏi ruôṇg
giảm năng suất vı̀ đa ̃lấy đi khoảng 40% lượng N,
30 - 35% P và 80 - 85% K mà cây lúa đã hấp thu
đến thời điểm thu hoac̣h (Dobermann và
Fairhurst, 2002). Tuy nhiên, viêc̣ vùi rơm kết hơp̣
với nấm Trichoderma giúp tăng có ý nghĩa về
hàm lượng chất hữu cơ và N hữu dụng trong đất
(Trần Thi ̣ Mil và ctv., 2012), mà dâñ đến tiềm
năng tăng năng suất lúa.
Mặc dù không có sự khác biệt về năng suất sau
một vụ bón phân hữu cơ trên đất trồng lúa tại thị
xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, thử nghiệm dài
hạn (14 vụ lúa) trên đồng ruộng cho thấy, bón
phân hữu cơ từ rơm ủ có ảnh hưởng tích cực lên
năng suất lúa ở ĐBSCL (Watanabe et al., 2009).
Thử nghiệm bón phân hữu cơ 9 năm ở đồng bằng
Fluvio - Marine của Chonbug (Yoo et al., 1988)
và 26 năm ở quận Tochigi (Kobayashi et al.,
2008) cũng đạt kết quả tương tự.
a
aa
a
a
5.00
6.00
7.00
8.00
9.00
CF AWD AWD' RSC FRS
Nghiệm thức
Năng suất hạt (tấn ha
-1
)
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
42
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 Kết luâṇ
Biện pháp tưới cho lúa khi mực nước trong ruôṇg
hạ thấp dưới mặt đất 10 - 15 cm và 15 - 20 cm
vâñ duy trı̀ đươc̣ chiều cao cây lúa, số chồi, thành
phần năng suất và năng suất lúa bằng với biêṇ
pháp tưới ngâp̣ liên tuc̣.
Sau môṭ vu ̣bón phân rơm ủ với nấm Trichoderma
kết hơp̣ với phân vô cơ chı̉ gia tăng về chiều cao
cây lúa, số hạt bông-1 nhưng chưa làm tăng các
thành phần năng suất gồm số bông m-2, tỷ lệ hạt
chắc, trọng lượng 1000 hạt và năng suất lúa.
4.2 Đề nghi ̣
Áp duṇg bón phân rơm ủ trong thời gian dài để
theo dõi ảnh hưởng dài haṇ của bón phân rơm ủ
đến thành phần năng suất và năng suất lúa cũng
như hiêụ quả trong cải thiêṇ đô ̣ phı̀ nhiêu đất ở
ĐBSCL.
Nghiên cứu mối tương quan giữa biện pháp tưới
cho lúa khi mực nước trong ruôṇg hạ thấp dưới
mặt đất 15 - 20 cm đến thế oxy hoá khử và sư ̣
phát thái khı́ CH4 và N2O.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bangladesh Rice Research Institute: BRRI.
(2008). New irrigation tech to save 30 pc cost.
The new Nation - Bangladesh Independent
News Source.
/2008/02/06/all0265.htm.
Carbangon, R. J, E. G. Castillo, L. X. Bao, G. Lu,
G. H. Wallg, Y. L. Cui, T P. Tuong, B. A. M.
Bouman, Y. H. Li, C. D. Chen, J. Z. Wang.
(2001). Impact of alternate wetting and drying
irrigation on rice growth and resource-use
efficiency. Proceedings of an International
Workshop held in Wuhan, China, 23-25 March
2001. Colombo, Sri Lanka: International
Water Management Institute.
Dobermann A., T.H.Fairhurst. (2002). Rice straw
management. Better crop International, Vol.
16: 7 - 9.
Duxbury, J. M., Bouldin, D. R., Terry, R. E., and
Tate III., R. L. (1982). Emissions of nitrous
oxide from soils. Nature, 275: 602 – 604.
Flinn, J. C.; Marciano, V. P. (1984). Rice straw
and stubble management. Organic matter and
rice, 593 - 611.
Hirzel J., Pedreros A., and Cordero K. (2011).
Effect of nitrogen rates and split nitrogen
fertilization on grain yield and its components
in flooded rice. Chilean Journal Of
Agricultural Research, 71(3): 437-444.
Huỳnh Quang Tín, Nguyễn Hồng Cúc, Nguyễn
Văn Sánh, Nguyễn Việt Anh, Jane Hughes,
Trịnh Thị Hòa và Trần Thu Hà. (2012). Canh
tác lúa ít khí thải nhà kính tı̉nh An Giang vu ̣
Đông Xuân 2010 - 2011. Tap̣ chı́ khoa hoc̣
Đaị hoc̣ Cần Thơ, Số 23a: 21 - 31.
Jing, Q., B. Bouman, H. van Keulen, H.
Hengsdijk, W. Cao, and T. Dai. (2008).
Disentangling the effect of environmental
factors on yield and nitrogen uptake of
irrigated rice in Asia. Agricultural System,
98(3): 177 - 188.
Kobayashi, Y; Suzuki, S.; Watanabe, N.;
Yoshizawa, T.; Ueki, Y.; Suzuki, T.; Kaneda,
S. (2008). Effect of long-term organic matter
application to double-cropping paddy fields on
rice [Oryza sativa] and barley [Hordeum
vulgare] yields in Tochigi prefecture [Japan].
Bulletin of the Tochigi Prefectural
Agricultural Experiment Station, 59: 11 - 23.
Limeng Zhang. (2009). Response of aerobic rice
growth and grain yield to N fertilizer at two
contrasting sites near Beijing, China. Journal
Field Crops Research, Vol 114 (1): 45 - 53.
Lưu Hồng Mẫn, Vũ Tiến Khang và Nguyễn Ngọc
Hà. (2006). Ứng dụng chế phẩm sinh học để
sản xuất phân hữu cơ vi sinh phục vụ cho thâm
canh lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tạp
chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
(10): 10 - 13.
Lý Ngọc Thanh Xuân, Nguyễn Quốc Khương,
Nguyễn Minh Đông và Ngô Ngọc Hưng.
(2011). Ảnh hưởng của biện pháp tưới tiết
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 34 – 43
43
kiệm đến hiệu quả sử dụng đạm và năng suất
lúa trên đất trồng lúa. Tạp chí Khoa học Đất,
số 31: 82 - 84.
Moya P, Hong L, Dawe D, Chongde C. (2004).
The impact of on-farm water saving irrigation
techniques on rice productivitiey and
profitability in Zhanghe Irrigation System,
Hubei, China. Paddy Water Environ, 2: 207 -
2015.
Nagamani A and TW Mew. (1987). Trichoderma
as potential biogical control angent in the rice
based cropping systems. 1 - 13. IRRI Saturday
seminar, Los Banos, Philippines.
Ngô Thi ̣ Nhàng. (2013). Ảnh hưởng của ba mô
hình quản lý nước, vùi rơm rạ đến năng suất
lúa và phát thải khí Mêtan vụ Hè Thu 2013 ở
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Luận văn
tốt nghiệp cao học ngành Khoa học Cây trồng.
Khoa Nông nghiêp̣ và sinh hoc̣ ứng duṇg
Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ.
Nguyễn Quốc Khương, Ngô Ngọc Hưng. (2014a).
Ảnh hưởng của biện pháp tưới lên phát thải
khí CH4, N2O và năng suất lúa trồng trong nhà
kính. Chuyên đề Hướng tới nền nông nghiệp
công nghệ và xây dựng nông thôn mới. Tạp
chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
tháng 12 năm 2014, trang 85 – 92
Nguyễn Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng.
(2014b). Ảnh hưởng của bón phân rơm hữu cơ
lên phát thải khı́ CH4, N2O và năng suất lúa
trong điều kiêṇ nhà lưới. Tap̣ chı́ Khoa hoc̣
Đaị hoc̣ Cần Thơ, số 32b: 46 - 52.
Nguyễn Quốc Khương, Nguyễn Minh Đông và Lê
Tấn Lợi. (2013). Ảnh hưởng của biện pháp
tưới lên hiệu quả sử dụng phân đạm, năng suất
lúa trên đất phù sa và đất phèn ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại
học Cần Thơ, số 26, trang: 255 - 261.
Nguyễn Thành Hối và Nguyễn Bảo Vệ. (2010).
Ảnh hưởng của biện pháp rút nước trên đất
phèn ngập nước có chôn vùi rơm rạ tươi đến
năng suất lúa trong chậu. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, số 15b, trang: 206 -
212.
Nguyễn Thành Hối, Mai Vũ Duy, Lê Vĩnh Thúc,
Nguyễn Hồng Phú, Vương Ngọc Đăng Khoa.
(2014). Ảnh hưởng của phân ủ từ rơm xử lý
Trichoderma đến sinh trưởng và năng suất của
3 giống lúa cao sản MTL392, OM4900 và
Jasmine85. Tạp chí Khoa học và Phát triển, số
12 (4): 510 - 515.
Tanaka, A. (1973). Methods of handling the straw
in various countries. Int. Rice Comm. Newsl,
22 (2): 1 - 20.
Terry, R. E. Tate, R. L. Duxbury, John M. (1981).
Nitrous oxide emissions from drained,
cultivated organic soils in South Florida. J.
Air. Pollut. Contr. Assoc, 31: 1173 – 1176.
Trần Thị Mil, Phạm Nguyễn Minh Trung và Võ
Thị Gương. (2012). Hiêụ quả xử lý rơm ra ̣và
phân hữu cơ trong cải thiêṇ đô ̣ phı̀ nhiêu đất
và năng suất lúa taị Châu Thành – Hâụ Giang.
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Đaị hoc̣ Cần Thơ, số 22a:
253 -260.
Tran Thi Ngoc Huan, Trinh Quang Khuong, Chu
Van Hach, Pham Sy Tan and Buresh. R.
(2010). Effect of seeding rate and nitrogen
management under two different water
regimes on grain yield, water productivity and
profitability of rice production. Omonrice
Journal, 17: 137 - 142.
Watanabe T, L. H. Man, D. M. Vien, V.T. Khang,
N N. Ha, T B. Linh, Oito. (2009). Effects of
continuous rice straw compost application on
rice yield and soil properties in the Mekong
Delta. Soil Science & Plant Nutrition, 55 (6):
754 – 763.
Yoo, C.H.; Kim, J.G.; Park, K.H. (1988). Effect
of long - term organic matter application on
physico - chemical properties in rice paddy
soil, 2; the effect on some physical properties
of paddy field by the long - term application of
rice straw and compost. Journal of Korean
Society of Soil Science and Fertilizer, 21 (4):
373 - 379.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_bien_phap_tuoi_tiet_kiem_va_xu_ly_rom_den_sinh.pdf