Vài nét tình hình nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ toán học - Trần Ngọc Bích

Những vấn đề chưa được đề cập nghiên cứu Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về NNTH trong học tập toán của HS phổ thông. Tuy nhiên còn một vài vấn đề sau chưa được đề cập nghiên cứu. Cụ thể: - Một cơ sở l‎ý thuyết chung nhất về NNTH - Tạo môi trường học tập thuận tiện cho việc phát triển và củng cố liên kết giữa các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày với NNTH để giúp cho các kiến thức toán học được lưu giữ lâu dài. Các liên kết này giúp người học có thể giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Ở Việt Nam, vấn đề NNTH chưa thực sự nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học. Có rất ít các công trình nghiên cứu về sự phát triển NNTH của HS phổ thông trong học tập toán. Chúng tôi đưa ra một số vấn đề chưa được đề cập nghiên cứu như sau: - Vấn đề ngôn ngữ trong chương trình Toán học phổ thông. Các yếu tố NNTH sử dụng trong sách giáo khoa Toán và những đề xuất cho chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015. - Sự hiểu biết, mức độ vận dụng NNTH của giáo viên trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông hiện nay và những biện pháp góp phần nâng cao năng lực sử dụng NNTH trong dạy học. - Năng lực giao tiếp bằng NNTH của giáo viên và HS trong các giờ học toán ở nhà trường phổ thông. - Cần thiết phải có một số biện pháp giúp HS phát triển NNTH, góp phần nâng cao kết quả học tập môn Toán cho HS. Chẳng hạn, nâng cao vốn từ vựng toán học, giúp HS đọc, viết và nói toán để hiểu, khắc sâu các khái niệm, định lí, định nghĩa, trong toán học. - Sự chuyển tiếp NNTH giữa các cấp học phổ thông trong dạy học môn Toán hiện nay cần được quan tâm. Nghiên cứu định hướng đến việc khai thác vốn NNTH đã có của HS để từ đó rèn luyện, phát triển kĩ năng sử dụng NNTH trong học tập môn Toán. KẾT LUẬN Vấn đề NNTH cần được quan tâm nhiểu hơn nữa trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Do đó những kết quả nghiên cứu được tổng quan ở trên sẽ là tiền đề, là cơ sở cho việc nghiên cứu NNTH trong giai đoạn tiếp theo. Đặc biệt, cần có những kết quả nghiên cứu lý luận chung nhất về NNTH, vai trò của NNTH trong thực tiễn, Mặt khác, với yêu cầu phát triển chương trình, sách giáo khoa sau năm 2015 theo định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo thì việc tiếp cận ngôn ngữ nói chung và NNTH nói riêng trong dạy học ở trường phổ thông, sự kế thừa và phát triển NNTH giữa các cấp học cần tiếp tục được quan tâm, nghiên cứu

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét tình hình nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ toán học - Trần Ngọc Bích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 135(05): 75 - 80 75 VÀI NÉT TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ TOÁN HỌC Trần Ngọc Bích* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ sử dụng hàng ngày với ngôn ngữ toán học, những khó khăn về ngôn ngữ mà HS thường gặp phải trong học toán, vấn đề ngôn ngữ toán học trong chương trình môn Toán ở một số nước trên thế giới Ở Việt Nam đã có một số nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ toán học và việc sử dụng ngôn ngữ toán học trong nhà trường phổ thông. Bài viết tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ toán học trên thế giới và Việt Nam với mong muốn gợi ra những định hướng nghiên cứu để ngày càng có nhiều hơn những kết quả nghiên cứu về ngôn ngữ toán học và việc sử dụng ngôn ngữ toán học trong thực tiễn dạy học, ... Từ khóa: ngôn ngữ, ngôn ngữ toán học, dạy học, dạy học môn Toán, giáo dục học toán học. ĐẶT VẤN ĐỀ* Trong dạy học môn Toán, vấn đề rèn luyện khả năng sử dụng chính xác ngôn ngữ toán học (NNTH) cho học sinh (HS) chiếm một ví trí rất quan trọng bởi “toán học hiểu theo nghĩa nào đó là một thứ ngôn ngữ để mô tả những tình huống cụ thể nảy sinh trong nghiên cứu khoa học hoặc trong hoạt động thực tiễn của loài người”[5]. “Dạy học toán xét về mặt nào đó là dạy học một ngôn ngữ, một ngôn ngữ đặc biệt, có tác dụng to lớn trong việc diễn tả các sự kiện, các phương pháp trong các lĩnh vực rất khác nhau của khoa học và hoạt động thực tiễn” [1]. Trên thế giới đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề NNTH và sự cần thiết của NNTH trong giảng dạy và học tập toán. Ở Việt Nam có đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến khía cạnh NNTH và vấn đề NNTH trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông. NỘI DUNG Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ toán học Trên thế giới NNTH đóng góp đáng kể vào việc học tập toán của HS. Năm 1952, Hickerson đã nghiên cứu ý nghĩa của các kí hiệu số học được hình * Tel: 0904 321939, Email: bichtransptn@gmail.com thành trong giờ học toán của HS. Tuy nhiên nghiên cứu này không được quan tâm mà đến tận những năm 1970 thì NNTH mới bắt đầu được nghiên cứu một cách có hệ thống trong mối quan hệ với NNTN. Chẳng hạn, Waywood (1986) đã nghiên cứu những ảnh hưởng của NNTH đến HS trung học cơ sở bằng cách ghi nhật kí vào cuối mỗi tiết học toán trong suốt thời gian bốn năm. Nghiên cứu của Stigler và Baranes (1988) về việc sử dụng NNTH của HS tiểu học ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ. Nghiên cứu của Sullivan và Clarke (1991) về nâng cao chất lượng sử dụng câu hỏi trong lớp học toán để HS tích cực tham gia, trên cơ sở đó phát triển NNTH [14]. Martin Hughes (1986) đã nghiên cứu những khó khăn về mặt NNTH mà cụ thể là các kí hiệu số học trong việc học tập toán của HS [13]. Rheta N. Rubenstein (2009) nghiên cứu về kí hiệu toán học và nhận thấy kí hiệu là một yếu tố quan trọng của NNTH trong học tập môn Toán ở mọi cấp học. Kí hiệu là công cụ biểu diễn các quan hệ và giải quyết vấn đề toán học. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp hỗ trợ GV khắc phục khó khăn của HS trong học tập toán về phương diện cú pháp và ngữ nghĩa của NNTH [16]. Charlene Leaderhouse (2007) đã nghiên cứu về NNTH và sự hiểu biết NNTH của HS lớp 6 trong học tập Hình học. Trên cơ sở đó, tác Nitro PDF Software 100 Portable Document Lane Wonderland Trần Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 135(05): 75 - 80 76 giả nhận thấy khả năng hiểu, sử dụng chính xác các thuật ngữ toán học sẽ hỗ trợ rất nhiều cho sự hiểu biết về khái niệm toán học và trong học tập HS cần có được những cơ hội thảo luận ý tưởng, thực hành sử dụng NNTH [7]. Diane L. Mille (1993) nghiên cứu về vai trò của NNTH trong phát triển các khái niệm toán học và sự kết nối của ngôn ngữ khi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai của người học [9]. Eula Ewing Monroe và Robert Panchyshyn (1995) nghiên cứu về vấn đề từ vựng của NNTH và nêu lên sự cần thiết về từ vựng của NNTH trong phát triển các khái niệm toán học [10]. Cũng nghiên cứu về vấn đề từ vựng của NNTH, David Chard (2003) xây dựng kế hoạch phát triển từ vựng trong học tập toán và nhận thấy NNTH là phương tiện rất quan trọng giúp HS phát triển các khái niệm mới. HS học tập toán tốt nhất bằng cách sử dụng NNTHvà sự hiểu biết về NNTH để rèn luyện kĩ năng nói, viết trong diễn đạt khái niệm toán học [8]. Mặt khác, một số nhà nghiên cứu giáo dục đã quan tâm đến vấn đề NNTH trong chương trình môn Toán của một số nước. Chẳng hạn, Mihaela Singer (2007) đã nghiên cứu vấn đề NNTH trong chương trình giáo dục phổ thông môn Toán của Rumani. Trong nghiên cứu tác giả khẳng định “Giao tiếp bằng NNTH” là một trong bốn mục tiêu giáo dục môn Toán, được thực hiện bắt đầu từ lớp 1 cho đến lớp cuối cùng của giáo dục phổ thông. Ngôn ngữ là phương tiện để biểu đạt tri thức toán học, do đó việc giúp cho HS “có kiến thức và kĩ năng sử dụng các khái niệm toán học” cũng đồng nghĩa với việc hình thành, sử dụng NNTH một cách chính xác, rõ ràng. Đồng thời NNTH còn là công cụ, phương tiện để HS sử dụng trong khi giải quyết vấn đề và áp dụng toán học vào thực tiễn. Birgit Pepin (2007) nghiên cứu chương trình giảng dạy quốc gia của nước Anh về NNTH. Tác giả nhận thấy ngay từ cấp tiểu học (KS1 và KS2) Chương trình đã chú ý đến vấn đề ngôn ngữ nói chung và NNTH nói riêng. Ở giai đoạn đầu (KS1), HS sử dụng đúng ngôn ngữ, kí hiệu, từ vựng trong học tập môn Toán; sử dụng nói, viết đúng ngôn ngữ thông thường và sau đó là NNTH. Giai đoạn sau (KS2) HS giao tiếp bằng NNTH bao gồm cả việc sử dụng chính xác NNTH. Bên cạnh đó các tác giả đã nghiên cứu khía cạnh ngôn ngữ và giao tiếp, trong đó có đề cập đến NNTH, trong Chương trình môn Toán của một số nước như Sigmund Ongstad (2007) nghiên cứu về Chương trình giáo dục môn Toán của Nauy, Brian Hudson và Peter Nyström (2007) nghiên cứu Chương trình môn Toán của Thụy Điển, Hơn nữa, ngôn ngữ là phương tiện của giao tiếp nên Sullivan.P và Clarke.D (1991), Dean.PG (1982), Torbe.M và Shuard.H (1982) đã nghiên cứu về vấn đề giao tiếp bằng NNTH trong học tập môn Toán của HS. Các nhà nghiên cứu đã khẳng định không có NNTH sẽ không có quá trình giao tiếp trong lớp học toán và toán học không thể diễn ra. Ngoài ra còn rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề NNTH và ảnh hưởng của NNTH trong học tập môn Toán của HS như Marilyn Burns (2004), Raymond Duval (2005), Robert Laurence Baleer (2011), Chad Larson (2007), Đặc biệt, trong những năm gần đây, Hiệp hội Châu Âu về nghiên cứu Giáo dục Toán học (CERME) đã thành lập ra các Tiểu ban nghiên cứu những vấn đề khác nhau, trong đó có một tiểu ban chuyên nghiên cứu về vấn đề Ngôn ngữ và Toán học. Trong CERME 4 (2005) đã trình bày các kết quả nghiên cứu về Ngôn ngữ và Toán học của các tác giả như Raymol Duval và cộng sự, Jenni Back, Valeria, [15]. Một chương trình có tính toàn cầu (hiện nay đã có trên 65 nước và lãnh thổ tham gia, trong đó có Việt Nam) gọi là chương trình PISA, khảo sát giáo dục duy nhất chỉ chuyên đánh giá về năng lực phổ thông ở độ tuổi 15 với 3 nội dung: Đọc hiểu, toán học, khoa học. Đánh giá hiểu biết của HS về năng lực toán học Nitro PDF Software 100 Portable Document Lane Wonderland Trần Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 135(05): 75 - 80 77 theo 3 cấp độ (ghi nhớ, tái hiện; kết nối và tích hợp; khái quát hóa, toán học hóa) với 7 kĩ năng: tư duy và lập luận toán học; giao tiếp toán học; mô hình hóa toán học; đặt và giải quyết vấn đề; biểu diễn; sử dụng kí hiệu, ngôn ngữ và các phép tính hình thức; sử dụng phương tiện và công cụ. Các cấp độ và kĩ năng toán học của HS theo PISA đều rất quan tâm tới các yếu tố NNTH. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề NNTH cũng đã được nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn giảng dạy ở các khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung mới chỉ là những nghiên cứu sơ lược ban đầu. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu liên quan đến NNTH và việc vận dụng NNTH trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông. Các nhà nghiên cứu Phạm Văn Hoàn, Nguyễn Gia Cốc, Trần Thúc Trình (1981) khẳng định “thể hiện đúng đắn mối quan hệ giữa nội dung tư tưởng toán học và hình thức NNTH là một cơ sở phương pháp luận quan trọng của giáo dục toán học”. Các tác giả trình bày ba điểm khác biệt giữa NNTN và NNTH: thứ nhất, trong NNTH một dấu chữ số, chữ cái, dấu phép tính hay dấu quan hệ biểu thị điều mà NNTN phải dùng đến từ hay một kết hợp từ mới biểu thị được, điều đó làm cho NNTH gọn gàng hơn so với NNTN; thứ hai mỗi kí hiệu toán học hay mỗi kết hợp các kí hiệu đều có một nghĩa duy nhất, điều đó làm cho NNTH có khả năng diễn đạt chính xác tư tưởng toán học hơn hẳn NNTN; thứ ba NNTH có dùng đến ngôn ngữ biến điều đó cho phép NNTH rất thích hợp để khái quát diễn đạt các quy luật chung: những hình thức tuy có nội dung khác nhau nhưng cùng được diễn đạt như nhau [5]. Tác giả Hà Sĩ Hồ (1990) đã trình bày một số đặc điểm của NNTH. Cụ thể: NNTH chủ yếu là ngôn ngữ sử dụng kí hiệu; NNTH không phải là ngôn ngữ “lời nói” mà chủ yếu là ngôn ngữ “viết”; NNTH vừa chặt chẽ vừa uyển chuyển [3]. Tác giả Hoàng Chúng (1994) nghiên cứu về NNTH và việc sử dụng NNTH trong SGK Toán cấp 2. Theo tác giả thì các thuật ngữ, kí hiệu toán học được hình thành và phát triển trong quá trình hình thành, phát triển của các khái niệm toán học và phương pháp giải các bài toán; Một thuật ngữ, một kí hiệu phản ánh cùng một khái niệm, có thể được định nghĩa theo nhiều cách tương đương nhau. Tác giả lưu ý khi dùng các kí hiệu toán học cần phân biệt: những kí hiệu phải dùng nguyên vẹn, không thay đổi; những kí hiệu nên dùng (tuy có thể thay bằng kí hiệu khác) vì đã quen thuộc với nhiều người; những kí hiệu có thể tùy ý chọn. Theo tác giả quá trình phát triển toán học luôn đòi hỏi phải mở rộng, thay đổi một khái niệm, kéo theo việc mở rộng, thay đổi cách hiểu đối với một thuật ngữ, một kí hiệu; Trong toán học có thể dùng các kí hiệu khác nhau để chỉ cùng một đối tượng nhưng không được dùng một kí hiệu để chỉ hai đối tượng khác nhau trong cùng một vấn đề [1]. Các tác giả Hà Sĩ Hồ, Đỗ Đình Hoan, Đỗ Trung Hiệu (1998) đã đề cập đến vấn đề NNTH trong tài liệu Phương pháp dạy học Toán (tập 1). Theo các tác giả, việc xây dựng một ngôn ngữ khắc phục được các nhược điểm của NNTN (thường dài lời khiến khó nắm một lúc được nhiều ý, phụ thuộc vào những yếu tố cảm xúc liên quan đến ý, gây ra tình trạng hiểu không thống nhất, gây khó khăn suy luận chính xác, ) và thích hợp với việc diễn đạt nội dung toán học là cần thiết. Đó là NNTH. Trong toán học, các kí hiệu được sắp xếp theo những “quy tắc ngữ pháp” thành biểu thức hay công thức diễn đạt các đối tượng hay mệnh đề toán học. Trong NNTH cũng có những “từ đồng nghĩa” như trong NNTN, đó là những kí hiệu khác nhau nhưng chỉ cùng một đối tượng [4]. Nguyễn Văn Thuận (2004) đã đề xuất các biện pháp sư phạm nhằm phát triển tư duy lôgic và sử dụng NNTH chính xác cho HS trung học phổ thông trong dạy học Đại số [6]. Còn Nguyễn Hữu Hậu (2011) đã đề xuất các Nitro PDF Software 100 Portable Document Lane Wonderland Trần Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 135(05): 75 - 80 78 biện pháp để phát triển NNTH cho HS trong quá trình dạy học Toán ở trung học phổ thông và rèn luyện cho HS khả năng vận dụng kiến thức toán học vào các bài toán thực tiễn [2]. Các tác giả Đào Tam, Nguyễn Văn Lộc, Đinh Tấn Phước cũng đã vận dụng tiếp cận ngôn ngữ trong dạy học môn Toán ở trường Trung học phổ thông, khai thác các phương pháp khác nhau trong giải toán, thiết lập qui trình công nghệ dạy học. Phạm Gia Đức đã khái quát vai trò thao tác dạy học ngôn ngữ kí hiệu hình vẽ trong dạy học hình học cấp Trung học cơ sở; Bùi Huy Ngọc coi trọng việc rèn luyện ngôn ngữ trong dạy học toán ở Trung học cơ sở như một cách thức để tăng cường cho HS khả năng ứng dụng toán học trong dạy học môn Toán ở Trung học cơ sở; Lê Văn Hồng vận dụng quan điểm ngôn ngữ trong cách tiếp cận biểu thức đại số để hoàn thiện nội dung và phương pháp dạy học chủ đề này ở trung học cơ sở, mới đây tác giả đã nghiên cứu vấn đề “Hỗ trợ chất lượng dạy học môn Toán ở trường phổ thông theo hướng tiếp cận ngôn ngữ”. Vấn đề NNTH ở tiểu học, đã có nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu khá sâu sắc, như: Vũ Quốc Chung, Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan đã nêu quan niệm tổng quan và những định hướng cần thiết về dạy học NNTH cho HS tiểu học; Phạm Thanh Tâm đã dành riêng cho thao tác ngôn ngữ kí hiệu một vai trò đáng kể trong qui trình dạy học Toán ở tiểu học bắt đầu từ thao tác trên đồ vật kết hợp với ngôn ngữ (lời nói) đến mô hình, sơ đồ và kí hiệu toán học. Trần Ngọc Bích (2013) đã đề xuất những biện pháp giúp HS các lớp đầu cấp tiểu học sử dụng hiệu quả NNTH. Mới đây, Thái Huy Vinh đã công bố kết quả nghiên cứu về rèn kĩ năng sử dụng NNTH trong dạy học môn Toán lớp 4, lớp 5 cho HS. Kết quả nghiên cứu của Trần Ngọc Bích và Thái Huy Vinh đã góp phần hoàn thiện hệ thống kết quả nghiên cứu về NNTH trong dạy học môn Toán ở tiểu học. Như vậy, trên thế giới, vấn đề NNTH, vai trò và những ảnh hưởng của NNTH đến quá trình học tập của HS đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Ở Việt Nam, NNTH bước đầu đã được đề cập đến nhưng chưa có tác giả và công trình khoa học nào nghiên cứu sâu và toàn diện vấn đề này về lý luận, thực tiễn. Những vấn đề chưa được đề cập nghiên cứu Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về NNTH trong học tập toán của HS phổ thông. Tuy nhiên còn một vài vấn đề sau chưa được đề cập nghiên cứu. Cụ thể: - Một cơ sở l‎ý thuyết chung nhất về NNTH - Tạo môi trường học tập thuận tiện cho việc phát triển và củng cố liên kết giữa các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày với NNTH để giúp cho các kiến thức toán học được lưu giữ lâu dài. Các liên kết này giúp người học có thể giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Ở Việt Nam, vấn đề NNTH chưa thực sự nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học. Có rất ít các công trình nghiên cứu về sự phát triển NNTH của HS phổ thông trong học tập toán. Chúng tôi đưa ra một số vấn đề chưa được đề cập nghiên cứu như sau: - Vấn đề ngôn ngữ trong chương trình Toán học phổ thông. Các yếu tố NNTH sử dụng trong sách giáo khoa Toán và những đề xuất cho chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015. - Sự hiểu biết, mức độ vận dụng NNTH của giáo viên trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông hiện nay và những biện pháp góp phần nâng cao năng lực sử dụng NNTH trong dạy học. - Năng lực giao tiếp bằng NNTH của giáo viên và HS trong các giờ học toán ở nhà trường phổ thông. - Cần thiết phải có một số biện pháp giúp HS phát triển NNTH, góp phần nâng cao kết quả học tập môn Toán cho HS. Chẳng hạn, nâng cao vốn từ vựng toán học, giúp HS đọc, viết và nói toán để hiểu, khắc sâu các khái niệm, định lí, định nghĩa, trong toán học. - Sự chuyển tiếp NNTH giữa các cấp học phổ thông trong dạy học môn Toán hiện nay cần Nitro PDF Software 100 Portable Document Lane Wonderland Trần Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 135(05): 75 - 80 79 được quan tâm. Nghiên cứu định hướng đến việc khai thác vốn NNTH đã có của HS để từ đó rèn luyện, phát triển kĩ năng sử dụng NNTH trong học tập môn Toán. KẾT LUẬN Vấn đề NNTH cần được quan tâm nhiểu hơn nữa trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Do đó những kết quả nghiên cứu được tổng quan ở trên sẽ là tiền đề, là cơ sở cho việc nghiên cứu NNTH trong giai đoạn tiếp theo. Đặc biệt, cần có những kết quả nghiên cứu lý luận chung nhất về NNTH, vai trò của NNTH trong thực tiễn, Mặt khác, với yêu cầu phát triển chương trình, sách giáo khoa sau năm 2015 theo định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo thì việc tiếp cận ngôn ngữ nói chung và NNTH nói riêng trong dạy học ở trường phổ thông, sự kế thừa và phát triển NNTH giữa các cấp học cần tiếp tục được quan tâm, nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Chúng (1994), Một số vấn đề về giảng dạy ngôn ngữ và kí hiệu toán học ở trường phổ thông cấp 2, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội. 2. Nguyễn Hữu Hậu (2011), Tập luyện cho học sinh phát triển ngôn ngữ toán học trong quá trình dạy học Toán, Tạp chí Giáo dục, số 253. 3. Hà Sĩ Hồ (1990), Những vấn đề cơ bản của phương pháp dạy học cấp 1, Nxb Giáo dục. 4 Hà Sĩ Hồ, Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan (1998), Phương pháp dạy học Toán, Nxb Giáo dục 5. Phạm Văn Hoàn, Nguyễn Gia Cốc, Trần Thúc Trình (1981), Giáo dục học môn Toán, Nxb Giáo dục. 6. Nguyễn Văn Thuận (2004), Góp phần phát triển năng lực tư duy lôgic và sử dụng chính xác ngôn ngữ toán học cho học sinh đầu cấp Trung học phổ thông trong dạy học Đại số, Luận án Tiến sĩ khoa học Giáo dục, Đại học Vinh. 7. Clare Lee (2006), Language for learning Mathematics Assessment for learning in Practice, Open University Preess. 8. David Chard (2003), Vocabulary strategies for the Mathematics classroom, Houghton Mifflin Math. 9. Diane L. Miller (1993), Making the connection with language, The Arithmetic Teacher, Researching Library, pg 311. 10. Eula Ewing Monroe, Robert Panchyshyn (1995), Vocabulary considerations for teaching Mathematics childhood Education; 72, 2, Pro Quest Education Journals pg 80. 11. Ken Winogard, Karen M. Higgins (1994), Writing, reading and talking mathematics: One interdiscipl, (In) The reading teacher, Research Library, pg 310. 12. Madeline Kovarik, Building Mathematics Vocabulary, In www.cimt.plymouth.ac.uk/journal/kovarik.pdf 13. Martin Hughes (1986), Children and number, Blackwell Publishing. 14. Nerida F. Ellerton, M.A. Clement (1991), Mathematics in language: A review of language factor in Mathematics learning, Deakin University. 15. Ray mond Duval et. al. (2005), Language and Mathematics, CERME 4. 16. Rheta N. Rubenstein (2009), Mathematical symbolization: Challenges across levels, In: http/tsg.kme11.org/document/get/853 Nitro PDF Software 100 Portable Document Lane Wonderland Trần Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 135(05): 75 - 80 80 SUMMARY OVERVIEW OF THE RESEARCHING SITUATION ABOUT MATHEMATICAL LANGUAGE PROBLEM Tran Ngoc Bich * College of Education - TNU There are a lot of researchs in the world on the relationship between everyday language and mathematical language, difficulties in language that students often encounter in math, mathematical language problems in mathematics program in some countries in the world ... . There were some researchers in Vietnam interested in mathematical language problems and the mathematical language useing in secondary schools. This paper is an overview of research of mathematical language problems in Vietnam and the world to expect a suggesting of researching directions for more than results of research on mathematical language, application of mathematical language in teaching practice, ... Keywords: language, mathematical language, teaching, teaching Maths, mathematical education Ngày nhận bài:25/11/2014; Ngày phản biện:15/12/2014; Ngày duyệt đăng: 31/5/2015 Phản biện khoa học: TS. Lê Thị Thu Hương – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN * Tel: 0904 321939, Email: bichtransptn@gmail.com Nitro PDF Software 100 Portable Document Lane Wonderland

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_51684_55536_1542016145014file12_0662_2046718.pdf
Tài liệu liên quan