Xuất khẩu trái cây Việt Nam: thực trạng và giải pháp

1. “Cần tăng cường vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn” – Ngô Việt Hương – Trường Đại h ọc Hồng Đức - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 17/2013 2. “Chính sách ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn: Chưa đủ hấp dẫn doanh nghiệp” – Phương Hà phỏng vấn TS Nguy ễn Đỗ Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT)

pdf28 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 11169 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xuất khẩu trái cây Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tích rau cả nước, cây ăn quả an toàn đạt khoảng 20%. - Thị trường Thị trường tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, trên thực tế các doanh nghiệp sản xuất, chế biến trái cây đã tiếp cận tương đối tốt với thị trờng nước ngoài, bởi lẽ có tới 90 % sản phẩm chế biến của các doanh nghiệp được tiêu thụ ở nước ngoài thông qua con đường xuất khẩu. Các doanh nghiệp quá tập trung vào xuất khẩu mà bỏ quên thị trường trong nước, nên sản phẩm trái cây nhập khẩu có cơ hội chiếm lĩnh thị trường trong nước (2) Hiện trạng xuất khẩu trái cây a) Xuất khẩu chính ngạch - Sản lượng và chủng loại + Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu rau quả chính ngạch đạt mức 631 triệu USD, trong đó trái cây chỉ đạt 260 triệu USD. Thị trường xuất khẩu trái cây lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, đạt 139,7 triệu USD, chiếm 53,7% tổng kim ngạch. Tiếp theo là Hà Lan (6,1%), Nga (5,4%), Mỹ (4,1%), Thái Lan (3,5%), Nhật (3,2%), Indonesia (3,2%), Hàn Quốc (2,4%) và Singapore (2,0%). Trong năm kim ngạch xuất khẩu trái cây Việt Nam sang các thị trường Nam Phi, Rumani, Hy Lạp đều tăng trưởng tăng, tuy nhiên cũng có các thị trường giảm rất mạnh như: Jamaica và Ai Cập (giảm 100%), Philippines (giảm 90%) và Iran (giảm 88%). + Trong năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2012 chỉ mới đạt được 860 triệu USD, riêng trái cây chính ngạch đạt 430 triệu USD. + Dự báo năm 2013, khả năng xuất khẩu trái cây chính ngạch vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đạt 360 triệu USD. + Thanh long là mặt hàng luôn đứng đầu trong hơn 40 loại trái cây được xuất khẩu, chiếm hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây (năm 2011, 107 triệu USD, 5 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu thanh long đạt 130.600 tấn, kim ngạch 78,9 triệu USD, tăng 3,7% về lượng và 24,1% kim ngạch so cùng kỳ năm 2012). Ngoài ra, các mặt hàng trái cây chủ lực được thị trường xuất khẩu ưa chuộng gồm có 6 nhóm cây ăn quả chính là chuối, xoài, nhãn, vải-chôm chôm, quả có múi (bưởi, cam, quýt, chanh) và dứa - Khó khăn và nguyên nhân + Chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, quy định về kiểm dịch thực vật và các rào cản kỹ thuật chưa được doanh nghiệp quan tâm đúng mức. Để có thể thâm nhập vào được các thị trường khó tính thì doanh nghiệp cần có được giấy chứng nhận GAP. + Hoạt động dự báo thị trường còn nhiều hạn chế trong việc dự báo nhu cầu dài hạn vì giá nông sản trên thị trường quốc tế biến đổi thất thường. + Hiện nay việc liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị xuất khẩu chưa chặt chẽ, sự gắn kết giữa công ty xuất khẩu và người sản xuất còn yếu, các công ty xuất khẩu chưa xây dựng được vùng nguyên liệu riêng, chủ yếu mua qua trung gian. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu khách hàng với số lượng lớn, ổn định và thường xuyên. + Khâu sản xuất, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, chế biến còn chậm phát triển, việc thu hái, phân loại, đóng gói, bao bì... chủ yếu còn qua biện pháp thủ công. + Các loại trái cây xuất khẩu của Việt Nam có giá thành cao hơn trái cây cùng loại của các nước trong khu vực do chưa có vùng chuyên canh và phải qua nhiều khâu trung gian, làm tăng giá. Chi phí vận chuyển đường biển và đường hàng không cao hơn so với các nước... làm giảm khả năng cạnh tranh. + Công nghệ sau thu hoạch và bảo quản còn lạc hậu gây cản trở xuất khẩu đến các thị trường xa (Mỹ, Canada, Chi lê, Úc, New Zealand). Vẫn còn tình trạng xuất khẩu trái cây dưới nhãn mác và bao bì của khách hàng nước ngoài. Chưa chú trọng xây dựng thương hiệu và quảng bá trái cây Việt Nam đến người tiêu dùng thế giới b) Xuất khẩu tiểu ngạch - Sản lượng, chủng loại + VN có xuất nhập khẩu tiểu ngạch với 3 nước là Lào, Campuchia và TQ. Trong đó, giao thương với TQ chiếm tỷ lệ lớn nhất, một phần do ta có đường biên giới rộng lớn với nước này (7 tỉnh). Đây là hình thức XK tự doanh, DN tự tổ chức đưa hàng hóa đến các cửa khẩu biên giới để XK. Với các chính sách đặc biệt đó, DN ít khi ký kết hợp đồng XK, việc thanh toán thường bằng cách trao đổi hàng hoặc bằng nội tệ của nước nhập khẩu, không qua ngân hàng (NH)… Do đó, rủi ro luôn được chuyển cho người bán chứ không phải người mua. + Xuất khẩu bằng đường tiểu ngạch chiếm 1/3 trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có nghĩa là trong gần 30 tỉ USD kim ngạch của năm 2010, có 10 tỉ USD hàng hóa qua lại bằng đường tiểu ngạch. + Chủng loại trái cây xuất khẩu tiểu ngạch chủ yếu là thanh long, vải thiều và nhãn. Bên cạnh đó là xoài, bưởi, chôm chôm… - Thuận lợi + Thủ tục xuất khẩu tiểu ngạch khá đơn giản chỉ cần một tờ khai tiểu ngạch, chịu phí biên mậu là có thể xuất được hàng, không cần hóa đơn, chứng từ thanh toán, hợp đồng ngoại thương như qua đường chính ngạch. + Buôn bán tiểu ngạch giúp DN trong nước bán được hàng hóa một cách nhanh chóng, thuận tiện và giảm chi phí, tiện thanh toán, thu tiền ngay và dễ trốn thuế. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp là chắc chắn chịu thua thiệt. - Khó khăn và nguyên nhân +Mặc dù thuận lợi về địa lý cùng với Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - TQ đã được ký kết tạo điều kiện trao đổi hàng hóa hơn trước. Nhưng do năng lực cạnh tranh của hàng hóa TQ tốt hơn đã biến những thuận lợi trên thành bất lợi đối với VN. + Việc không cần chứng từ thanh toán, hóa đơn, hợp đồng khiến cho rủi ro của xuất khẩu chính ngạch cao hơn nhiều lần như hàng đến nơi không bán được, đem hàng quay về thì chi phí vận chuyển còn khiến lỗ vốn nặng hơn, có rất nhiều lô hàng bị tiêu hủy do không bán được. + Xuất tiểu ngạch được thu tiền ngay, nhưng không có hợp đồng nên thường xuyên bị ép giá. Nông sản VN xuất sang TQ rất lớn, khi TQ muốn nhập thì họ ép giá, khi nhập đủ họ dừng lại, giá rớt, hàng ứ đọng, thiệt hại là rất lớn c) Xuất khẩu sang Trung Quốc - Sản lượng, chủng loại + Trung Quốc là thị trường tiêu thụ rau củ quả lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu mới nhất trong 9 tháng đầu năm 2013, kim ngạch xuất khẩu rau củ quả qua Trung Quốc ước đạt hơn 225 triệu USD, tăng trên 43% so với cùng kỳ năm ngoái, gấp 4,5 lần so với thị trường đứng thứ hai (Nhật Bản) và gấp 6 lần so với thị trường đứng thứ ba (Mỹ) + Các mặt hàng trái cây thường xuyên được xuất qua thị trường Trung Quốc bao gồm: thanh long, chuối, dứa, mít sấy khô, xoài, dừa, nhãn, vải, dưa hấu, v.v…. + Trong những năm gần đây, các sản phẩm trái cây sấy khô đang rất được người tiêu dùng Trung Quốc ưa thích, nên thay vì xuất khẩu trái cây tươi, doanh nghiệp + Việt Nam đã chuyển hướng sang áp dụng các công nghệ chế biến sấy khô hoặc đóng hộp để đáp ứng nhu cầu này. Ngoài ra, nhóm sản phẩm mới này giúp giải quyết một vấn đề lớn của trái cây Việt Nam là giải quyết bớt lượng trái cây dồn ứ vào vụ thuận để chuyển sang cung cấp cho vụ nghịch, tránh tình trạng được mùa mất giá, theo nhận định của ông Nguyễn Lâm Viên, Tổng Giám đốc công ty CP Vinamit - Nguyên nhân: Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất về xuất khẩu trái cây của Việt Nam vì ba lý do chính sau: thị trường lớn, khoảng cách địa lý gần gũi thuận tiện cho việc bảo quản và vận chuyển sản phẩm, đồng thời yêu cầu của khách hang cũng không quá cao so với các thị trường khó tính như Nhật hoặc Châu Âu - Những điểm bất lợi có thể ảnh hưởng đến giá trị trái cây Việt Nam + Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, ví dụ nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc ảnh hưởng nghiêm trọng việc sản xuất trái cây của nông dân Việt Nam, phần lớn các giao dịch theo con đường tiểu ngạch nên ít được sự bảo hộ của luật pháp, các doanh nghiệp Việt chịu nhiều thiệt thòi trong việc vận chuyển, thanh toán với các bạn hang Trung Quốc + Sự lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc dễ dẫn đến tình trạng bị ép giá, nhiều rủi ro vì xuất khẩu tiểu ngạch, và sức khoẻ nền nông nghiệp sản xuất trái cây Việt Nam trong tay thương lái Trung Quốc. + Với 80% sản lượng trái cây sấy khô của Việt Nam được xuất sang Trung Quốc, các doanh nghiệp địa phương cũng phải nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm, thuyết phục người dân chuyển từ sử dụng phân hoá học sang phân hữu cơ để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm (3) Tiểu kết: Đánh giá ngắn gọn về hiện trạng ngành kinh doanh trái cây a) Về trồng cây Nhìn chung, quy mô và hình thức doanh nghiệp trồng cây ăn trái ở nước ta chưa có sự tập trung, còn dàn trải, diện tích đất trồng nhỏ hẹp, manh mún, bị chia cắt. Tuy nhiên, sản lượng khá lớn và chủng loại đa dạng. Bên cạnh đó, kỹ thuật trồng trọt còn thô sơ, chưa ứng dụng các biện pháp trồng trọt tiên tiến, chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và chuẩn mực xuất khẩu của quốc tế. Ngoài ra, sản phẩm cây trồng sử dụng nhiều phân bón hoá học, thuốc bảo vệ, thuốc trừ sâu gây hại cho sức khỏe của người tiêu dùng. Thu hoạch và phân phối chưa có sự quy hoạch tập trung, chủ yếu do tư nhân bộc phát, chưa đạt được mức tối ưu. Cùng với những chính sách chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài và rủi ro về thiên tai, dịch bệnh đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của ngành nông nghiệp. Hiện tại Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có ra quyết định thi hành “Rải vụ 12 loại trái câu chủ lực”, “dồn điền, đổi thửa”, nhưng những chính sách này chưa thật sự được thực thi nghiêm túc và mang lại kết quả như mong đợi. b) Về kinh doanh xuất khẩu trái cây - Xuất khẩu trái cây tuy tăng về mặt sản lượng và giá trị xuất khẩu nhưng chưa xứng với tiềm năng và nếu tiếp tục sẽ khó phát triển lâu dài bền vững, 90% trái cây tiêu thụ trong nước, chỉ có 10% xuất khẩu. Những khó khăn cần giải quyết là + Chưa đủ tiêu chuẩn kỹ thuật của các thị trường khó tính + Công nghệ đóng gói, bao bì, bảo quản, chế biến, dự báo thị trường chưa tốt + Liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị xuất khẩu chưa chặt chẽ + Thương hiệu chưa được chú trọng xây dựng + Xuất khẩu chính ngạch chưa đóng vai trò quan trọng trong khi xuất khẩu tiểu ngạch rủi ro cao, thường hay bị ép giá, khi tranh chấp nhận thua thiệt. + Xuất khẩu chủ yếu vào thị trường Trung Quốc do lượng tiêu thụ lớn, yêu cầu không cao, vận chuyển tiện lợi, xuất khẩu phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc, ở thế bị động và chịu thiệt thòi c) Nguyên nhân chính gây rớt giá - Cung vượt quá cầu, dẫn đến tình trạng được mùa mất giá của nông dân. - Cạnh tranh không lành mạnh, giành mua giành bán của doanh nghiệp Việt Nam dễ dẫn đến tình trạng bị ép giá và cạnh tranh lẫn nhau. Liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị yếu nên khó bảo đảm sự ổn định về giá. - Thương lái Trung Quốc ép giá vì là bạn hàng lớn nhất, có khả năng thao túng thị trường. - Sản phẩm chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế nên khó xâm nhập các thị trường mới và có giá trị cao. - Khả năng dự báo thị trường không tốt, nên việc điều phối cung cầu trên thị trường chưa thực sự tốt. 2.2. Tương quan với các vấn đề có liên quan (1) Tầm quan trọng đối với cuộc sống người nông dân. Hơn 80% dân số nước ta hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tại các vùng nông thôn.Nông nghiệp đóng góp trên 20% GDP trong các năm qua. Ngành cây ăn trái và xuất khẩu cây ăn trái chiếm một vị thế khá quan trọng trong tổng sản phẩm nông nghiệp. Do đó việc phát triển của xuất khẩu cây ăn trái cực kì quan trọng, giúp tăng thu nhập, qua đó cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Hơn nữa việc phát triển sản xuất trái cây xuất khẩu sẽ góp phần đáng kể thay đổi kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội nông thôn, giúp thay đổi bộ mặt nông thôn một cách tích cực (2) Chính sách, chiến lược của Nhà nước a) Chính sách đất đai Có nhiều chính sức của Nhà nước liên quan đến đất đai, tuy nhiên ba chính sách sau đây được coi là có ảnh hưởng lớn nhất đối với việc sử dụng đất nông nghiệp: - Chính sách sở hữu đất nông nghiệp ở Việt Nam được phân chia thành hai quyền: quyền sở hữu (thuộc về Nhà nước - đại diện cho chủ sở hữu toàn dân) và quyền sử dụng (chủ yếu thuộc về nông dân). Từ chế độ sở hữu đặc biệt như trên dẫn đến một số hệ quả sau: + Quyền sử dụng đất trở thành món hàng có giá trên thị trường, tuy nhiên trong thực tế, thị trường cho loại hàng hóa đặc biệt này chưa được tổ chức quy củ và chưa có dịch vụ thích ứng nên hạn chế khả năng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của nông dân. +Vai trò chồng chéo của Nhà nước đối với đất đai: chủ sở hữu, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng v.v + Vai trò của người nông dân trong giao dịch đất nông nghiệp bị hạn chế: người nông dân chỉ sử dụng đất vào mục đích sản xuất, Nhà nước toàn quyền quy hoạch và thu hồi đất nông nghiệp, và thời hạn giao đất nông nghiệp cho nông dân hiện hành là quá ngắn so với thời gian giao đất phi nông nghiệp. - Chính sách giá đất nông nghiệpđược quy định tại Điều 12 Luật Đất đai năm 1993, năm 2003 và mới nhất là Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16-11-2004 của Chính phủ. Tuy nhiên việc thi hành chính sách giá đất một cách minh bạch và hiệu quả còn gặp nhiều khó khăn, do sự thiếu minh bạch của thông tin thị trường đất và làn sóng đầu cơ bất động sản vượt ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Do đó, người nông dân hoặc là ở trạng thái chậm phản ứng hoặc bất bình do nhận thưc sự thiệt thòi trong các giao dịch liên quan đến đất nông nghiệp. - Chính sách khuyến khích tập trung đất còn tồn tại nhiều điểm bất cập: + Đầu những năm 90, chính sách khoán đất nông nghiệp theo chế độ bình quân về diện tích lẫn hạng đất khiến đất nông nghiệp bị chia nhỏ và manh mún. + Mô hình dồn điền đổi thửa cũng như mô hình nông trường, hợp tác xã, sau này dù có tác động nhất định nhưng chưa thể tạo động lực cho sản xuất quy mô lớn, do trình độ quản lý công còn hạn chế. b) Các chính sách về nông nghiệp nói chung và trồng cây ăn trái nói riêng - Ngành nông nghiệp chịu sự điều tiết sâu sắc của hệ thống chính sách của Nhà nước, trong đó, ngoài chính sách đất đai, một số chính sách sau cũng tác động mạnh đến nông nghiệp: + Chính sách đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thônđược cụ thể hóa qua một loạt các văn bản, như: Nghị định 41/2010/NĐ-CP, Nghị định 61/2010/NĐ-CP nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và các chính sách hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn v.v. Tổng vốn đầu tư bố trí cho nông nghiệp, nông thôn bình quân trong 3 năm 2006 - 2008 là 146.575 tỷ đồng (bình quân mỗi năm là 48.858 tỷ đồng), bằng 45,2% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ. Sau khi Nghị quyết 26 ra đời, mức đầu tư cho lĩnh vực này tăng lên rõ rệt: tính chung trong 3 năm (2009-2011), tổng vốn đầu tư công bố trí cho khu vực này là 285.465 tỷ đồng, bằng 52% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, gấp 1,95 lần so với giai đoạn 2008 về trước + Chính sách tín dụng nông nghiệp ban hành theo Nghị định số 41/2010/NĐ- CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, mang lại nhiều chuyển biến tích cực, trong đó, mở rộng các tổ chức tín dụng bên ngoài Ngân hàng NN-PTNT (Agribank), mở rộng đối tượng cho vay, tạo điều kiện hơn cho khách hàng vay không tài sản đảm bảo hay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cùng lúc quy định chi tiết về các lĩnh vực phát triển nông thôn v.v. - Ngoài những chính sách nông nghiệp chung, ngành trái cây phụ thuộc vào một số chính sách đặc thù như: + Quy hoạch và thực hiện quy hoạch vùng sản xuất trái cây là rất cần thiết, quyết định năng lực cạnh tranh của ngành trái cây phụ thuộc vào năng suất trái cây, lượng nguyên liệu và sản phẩm hàng hoá tạo ra. Việc quy hoạch vùng cây từ trước đến nay gần như không có quy hoạch chiến lược tổng thế cho các vùng trồng cây ăn trái trọng điểm mà chỉ bao gồm các quy hoạch nhỏ lẻ mang tính địa phương, do đó tình trạng “tự cạnh tranh” diễn ra giữa các loại trái cây, nhất là vào mùa thu hoạch, xảy ra hết sức thường xuyên. Cho mãi tới gần đây, Thủ tướng Chính phủ mới ra quyết định số 899/ QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” cùng đó là quyết định số 1648/QĐ-BNN-TT phê duyệt quy hoạch vùng cây ăn quả chủ lực trồng tập trung và định hướng rải vụ một số cây ăn quả ở Nam Bộ đến năm 2020. BẢNG + Hệ thống hạ tầng cơ sở (thuỷ lợi, giao thông, điện, kho bãi, chợ đầu mối). và sự tiếp cận tới các dịch vụ công như thuỷ lợi, khuyến nông, bảo vệ thực vật, tín dụng là một việc lớn cần được nhà nước quan tâm, hỗ trợ đầu tư xây dựng mới, tạo điều kiện cho việc sản xuất kinh doanh chế biến trái cây. Tuy nhiên chính sách đầu tư hạ tầng nông nghiệp nói chung và cho ngành trái cây nói riêng chưa hề có giải pháp đồng bộ, dẫn tới hệ thống hạ tầng bao gồm đường giao thông, thủy lợi, hệ thống điện ở các vùng trồng cây ăn trái chưa đáp ứng được như cầu phát triển của ngành. Theo khảo sát dưới đây thì đa số trạng thái của hệ thống hạ tầng các vùng trồng cây ai trái trọng điểm đang ở mức trung bình và thấp. Tỷ lệ số người sản xuất trái cây đánh giá về chất lượng cơ sở hạ tầng của các địa phương năm 2010 (Đơn vị %) Nguồn: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trái cây Việt Nam – Ninh Đức Hùng – Đỗ Kim Chung” + Chính sách thương mại – xuât khẩu: Chính phủ chưa có đủ một bộ chính sách đồng bộ để khuyến khích hay điều tiết việc xuất khẩu trái cây. Bằng chứng là việc mới cho ra đời quy hoạch vùng sản xuất 12 loại quả xuất khẩu chiến lược mãi đến 2013 gần đây mới được triển khai, trong khi sản phẩm là cái gốc của mọi chiến lược về các mặt hàng hàng hóa. Do đó, chính sách xuất khâu trái cây của nước ta là một bộ phận của các hiệp định đàm phán thương mại song phương đa phương như WTO các FTAs v.v Tuy nhiên việc đàm phán và triển khai các cam kết liên quan chưa được thực hiện đúng mức khiến cho việc lưu chuyển thông tin chính sách chậm, không có tác dụng hỗ trợ người sản xuất kinh doanh trái cây nói riêng, theo sát được lột trình thực hiện cam kết quốc tế. c) Các chính sách hỗ trợ khác. - Ngoài các chính sách đã nêu, Nhà nước còn những chính sách khác để hỗ trỡ phát triển, quản lý sản xuất nông nghiệp như chính sách thuế, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các đia phương, chính sách kiểm soát chất lượng sản phẩm, quản lý kinh doanh và chất lượng phân bón, v.v.Tóm lại, hệ thống chính sách và văn bản pháp luật về nông nghiệp nói chung còn chưa đồng bộ, nằm rải rác, do đó cần được Luật hóa, làm mình minh bạch hóa việc sản xuất kinh doanh trái cây. d) Chiến lược phát triển công nghiệp hóa xem nhẹ nông nghiệp - Trong quá trình trước đổi mới, nhận thức vị trí vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn còn bất cập, chỉ coi là thứ phối hợp, thứ yếu, và để lại hậu quả đến hiện nay. Dẫn đến việc thiếu sự đầu tư bài bản để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Việc xem nhẹ vai trò đã dẫn đến việc không có một mô hình phát triển nông nghiệp phù hợp, cụ thể là việc liên tiếp vướng mắc trong tổ chức sản xuất nông nghiệp, theo hộ, theo nông trường, hợp tác xã v.v. Từ nhận thức sai lầm và nền tảng lý luận không đầy đủ là cơ sở cho hệ thống chính sách không nhất quán, không giúp phát triển nông nghiệp Việt Nam lên xứng với tiềm năng sẵn có. (3) Kinh doanh trái cây trong thời đại toàn cầu hóa a) Nhu cầu thế giới - Theo dự báo của Tổ chức Nông – lương thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thị trường thế giới hàng năm tăng khoảng 3,6%, trong khi đó thì khả năng tăng trưởng sản xuất chỉ là 2,6% nên thị trường thế giới đối với mặt hàng rau quả luôn ở tình trạng cung không đủ cầu, dễ tiêu thụ và giá cả luôn trong tình trạng tăng. Các nước càng phát triển công nghiệp thì nhu cầu nhập khẩu rau lại càng tăng, đời sống càng được nâng cao thì nhu cầu đối với các loại hoa tươi càng tăng.Có thể khẳng định rằng thị trường thế giới đối với rau quả là rất có triển vọng. b) Xu thế trái cây xanh, sạch - Nhu cầu của con người ngày càng mở rộng và đòi hòi cao hơn về chất lượng, đặc biệt là đối với thực phẩm. Trái cây cũng không năm ngoài ngoại lệ, từ nhu cầu ăn trái cây an toàn, đến trái cây sạch, với sự phát triển về nhận thức, nhu cầu về trái cây hữu cơ, được canh tác một cách bền vững, ngày càng trở nên là một thị trường đầy hứa hẹn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trái cây. - Ở Việt Nam, rau , trái cây sạch chủ yếu để xuất khẩu, trong nước trước nhiều vụ việc liên quan đến chất lượng VSATTP, thì nhu cầu nội dịa cũng ngày càng tăng cho mặt hàng trái cây sạch. - Hiện tại ở Việt Nam, Nhà nước cũng đã triển khai các bộ tiêu chí đánh giá rau, trái cây, trong đó nổi bật nhất là VietGAP. Tuy nhiên tiêu chuẩn của VietGAP chưa được các thị trường chấp nhận rộng rãi. Do đó, việc áp dụng GlobalGAP (tiêu chuẩn thực phẩm sạch toàn cầu) ở Việt Nam sẽ là lợi thế lớn. c) Cơ hội và thách thức khi phải mở cửa thị trường trái cây trong khuôn khổ WTO - Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường mới, rộng lớn với mức ưu đãi thuế cho các nước đang phát triển.Từ đó tiếp cận được khách hàng tiềm năng và xây dựng được thương hiệu cho mình. Gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức như: - Ngành trái cây Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với sản phẩm của các nước như Trung Quốc, Thái Lan... Hiện nay vùng nguyên liệu còn nhỏ lẻ manh mún, người sản xuất trái cây của Việt Nam chưa có ý thức sản xuất trái cây theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP. Năng suất, chất lượng trái cây của ta chưa cao, mẫu mã chưa đẹp, sản lượng chưa lớn.Công nghệ chế biến còn lạc hậu. Các quốc gia sẽ có những hàng rào kỹ thuật khắt khe hơn đối với trái cây nhập khẩu từ Việt Nam. Các nhà phân phối cũng chưa quan tâm đến việc sản xuất và cung ứng trái cây. Từ những thách thức trên đã tạo cơ hội cho trái cây ngoại dễ xâm nhập thị trường Việt Nam. - Theo dự báo của Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6%/năm, trong khi đó mức cung chỉ tăng khoảng 2,5%/năm. Trong đó, nhu cầu nhập khẩu trái cây nhiệt đới rất cao.Đây là điều kiện thuận lợi để trái cây Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu. - Việt Nam có lợi thế vùng về khí hậu đó là khí hậu nhiệt đới, đất đai phù hợp có thể trồng các loại trái cây nhiệt đới để xuất khẩu; nhân công nông nghiệp giá rẻ, đường bờ biển dài, nhiều cảng biển tạo điều kiện cho giao thông đường biển; nhiều ưu đãi của nhà nước, có loại trái cây như thanh long chỉ có mình Việt Nam xuất khẩu (4) Chính sách hấp dẫn đầu tư nước ngoài a) Chính sách chung về hấp dẫn đầu tư nước ngoài Thủ tục cấp phép đầu tư vẫn còn rườm rà và chưa minh bạch, có thể mất 1-2 để đăng ký mới cho doanh nghiệp nước ngoài muốn hoạt động trong lãnh vực nông nghiệp. Cụ thể, có đến 40% doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn trả lời là đối với họ việc “loại bỏ hoặc hạn chế thủ tục quan liêu” trong đối xử đối với doanh nghiệp là quan trọng nhất để giúp họ phát triển sản xuất kinh doanh. 76% doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn cho rằng thủ tục phức tạp là trở ngại cho khả năng phát triển của doanh nghiệp trong 5 năm tới, trong đó 33% cho là đặc biệt trở ngại. Do bất cập cả ở tầm chính sách vĩ mô và vi mô. Các chính sách vĩ mô từ trước tới nay chủ yếu vẫn ủng hộ sự phát triển của các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu hoặc tạo ra cơ hội lợi nhuận lớn cho các ngành phi sản xuất tài chính, chứng khoán, bất động sản nên như bạn thấy các doanh nghiệp tư nhân lớn nhất của Việt Nam cũng như các tập đoàn nước ngoài lớn phần lớn đều có mặt trong các ngành này cả. Có rất ít doanh nghiệp lớn và các nhà đầu tư nước ngoài có tiếng tăm trên trường quốc tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn còn rất nghèo nàn so với thành thị để đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư. Điện cung cấp cho nông thôn mất thường xuyên, mới dùng để thắp sáng và chưa phục vụ cho tưới tiêu, sản xuất. Nguồn cung cấp nước sạch cho sinh hoạt ở nông thôn vẫn còn thiếu, chưa nói đến hệ thống cung cấp nước cho sản xuất.Mới chỉ có 43% diện tích cây rau màu và cây công nghiệp được tưới chủ động. b) Phân tích OLIC dưới góc nhìn của một nhà đầu tư nước ngoài, xem có muốn đầu tư vào kinh doanh trái cây tại Việt Nam hay không? (Nên đưa ra một trường hợp cụ thể, chẳng hạn trái Thanh long để phân tích) Đối với một số mặt hàng sẽ rất thu hút đầu tư nước ngoài, như sản xuất thanh long, vì có một số lợi thế OLIC dưới đây: - Ownership: người sản xuất tại Việt Nam là người nông dân sở hữu đất đai, nhà xưởng, tư liệu sản xuất, quy trình sản xuất, máy chiếu xạ… - Location: + Cạnh tranh hệ thống: Chính phủ VN bắt đầu có ý thức đầu tư phát triển, hỗ trợ nông nghiệp. + Nhân công giá rẻ, có nhiều cảng biển thuận lợi xuất khẩu. - Khí hậu, đất đai phù hợp với cây thanh long. - Internalization: + VN được ưu đãi về thuế quan khi mới gia nhập WTO. - Competition: + Thanh Long của Việt Nam chiếm gần 100% thị trường thanh long toàn cầu. Do đó, đầu tư sản xuất Thanh Long ở Việt Nam là một lựa chọn hấp dẫn. Cần nghiên cứu kĩ hơn để ra quyết định đầu tư. (5) Công nghiệp chế biến - 90% Sản phẩm chế biến được xuất khẩu, số còn lại được tiêu thụ trong nước. Các sản phẩm tiêu biểu như các sản phẩm mít sấy khô, vải dứa đóng lon v.v. Hiện nay gần như 100% những doanh nghiệp hoạt động trong ngành trái cây Việt Nam đã được cấp chứng chỉ áp dụng hệ thống phân tích mối nguy hại và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã từng bước xây dựng hệ thống chứng chỉ tiêu chuẩn quốc tế (ISO) cho mỗi loại sản phẩm. Do đó sản phẩm chế biến xuất khẩu được tới các thị trường như Nga Mỹ Thụy Sỹ và Đức v.v - Nguyên liệu là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp chế biến trái cây. + Chỉ có số ít doanh nghiệp chế biến trong ngành chủ động được nguồn nguyên liệu, tức là phần lớn nguyên liệu của quá trình sản xuất được tự sản xuất hoặc có hợp đồng dài hạn với người nông dân. Số còn lại hoàn toàn phụ thuộc vào thương lái trong quá trình sản xuất, ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất và khả năng sinh lời + Các doanh nghiệp chế biến gặp thường hay gặp vấn đề mùa vụ, do đó luôn có thách thức trong việc đa dạng hóa sản phẩm chế biến, cô đặc đông lạnh, nước ép v.v cho đến chủng loại trái cậy, dứa, mít vải, nhãn, xoài thanh long v.v, . Do đó để ận dụng tối đa dây truyền sản xuất, phát huy công suât thiết kế, luôn có cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp để dành nguồn nguyên liệu - Kĩ thuật – công nghệ chế biến: Công nghệ sản xuất hiện đại sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp chế biến hiện nay vẫn sử dụng hệ thống dây chuyền chế biến cũ, dây chuyền công nghệ chế biến mà các công ty này sử dụng đợc sản xuất những năm 1990s lạc hậu và chất lượng thấp. Trong khi những doanh nghiệp sử dụng công nghệ của những quốc gia tiên tiến như công nghệ của nước Đức, Nhật v.v mới có được lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, đảm bảo đà cho doanh nghiệp phát triển. 2.3. Dự đoán, dự kiến sự phát triển. Nếu các điều kiện hiện tại bao gồm chính sách và năng lực của ngành cây ăn trái Việt Nam nói hcung không thay đổi, trong điều kiện thị trường thế giới như hiện tại, tùy vào đặc thù của một số loại trái cây có thể dự đoán xu hướng phát triển như sau: - Đối với một số loại trái cây có lợi thế vùng rõ rệt, ví dụ như thanh long, chiếm gần 100% thị phần thanh long thế giới, điều kiện tự nhiên và kĩ thuật giống, canh tác là những lợi thế lớn thì vị thế của quả thanh long vẫn giữ được. - Đối với đa số các loại quả khác, như chôm chôm hay vải v.v. bị sự cạnh tranh gay gắt và trực tiếp từ Thái Lan, hơn nữa có nhiều quả thay thế từ khu vực Nam Mỹ, nếu không cải cách việc sản xuất và chế biến tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao thì sẽ bị tụt hậu so với thế giới. 2.4. Xác định trọng tâm (vấn đề của vấn đề) (1) Các vấn đề a) Đất đai nhỏ, manh mún không có điều kiện tập trung cho sản xuất lớn Khi tiến hành giao đất lần đầu cho hộ nông dân vào những năm 1993, để giảm xung đột, Nhà nước đã giao đất cho hộ theo chế độ bình quân cả về diện tích lẫn hạng đất. Hệ quả là đất nông nghiệp được giao cho hộ gia đình nông dân rất manh mún, đa phần các hộ gia đình có quy mô diện tích dưới 1 ha. Hệ quả: làm cho giá thành sản phẩm cao do năng suất thấp, chất lượng giảm, không ổn định về số lượng lẫn chất lượng, thiếu an toàn và gây tổn thất rất lớn cho nông dân và doanh nghiệp. Đồng thời, trái cây của ta khó có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc, Thái lan, Philippines, Indonesia … Cạnh tranh không lành mạnh, giành mua, giành bán và bị doanh nhân Trung Quốc thao túng: Sự lệ thuộc vào bạn hàng lớn Trung Quốc dẫn đến doanh nhân Trung Quốc thao túng thị trường sản xuất trong nước, ép giá, ép buộc vào các mô hình nhiều rủi ro như xuất khẩu tiểu ngạch. Ngoài ra, do sự liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị chưa tốt, các hiệp hội nghề nghiệp chưa phát huy vai trò gắn kết giữa các doanh nghiệp trong nước, dẫn đến tình trạng các công ty trong nước giành mua giành bán, cạnh tranh không lành mạnh, vô tình càng làm tình trạng ép giá them trầm trọng. b) Sản lượng thấp, chất lượng không đồng đều và không đáp ứng tiêu chuẩn VSAT của thị trường nhập khẩu Chủ yếu do các nguyên nhân sau: a) Trình độ chuyên môn của chủ hộ Phần lớn các hộ còn làm theo kinh nghiệm truyền thống, tức là thế hệ trước truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ sau, đó cũng là một cách làm tốt cần đợc phát huy, tuy nhiên cách làm đó lại hạn chế được tiếp cận đến những phương pháp sản xuất mới. b) Điều kiện kinh tế đến sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trái cây Những hộ có điều kiện kinh tế khá trở lên, thường đầu tư đầy đủ và kịp thời những điều kiện để sản xuất trái cây, ví dụ như đầu tư mua giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuê nhân công... từ đó đem lại năng suất và sản lượng cao hơn so với hộ nghèo và trung bình. c) Ảnh hưởng từ khuyến nông Hoạt động cơ bản của khuyến nông là các chủ hộ được tham gia vào các chương trình tập huấn, trình diễn và chia sẻ thông tin về thị trường. Do đó, có sự khác nhau rõ rệt về năng suất và giá thành giữa hộ thường xuyên và chưa thường xuyên tham gia hoạt động khuyến nông. d) Nguồn cung cấp giống Giống cây trồng chưa đa dạng, chưa được nghiên cứu và phát triển, thiếu sự ứng dụng các công nghệ mới và tiên tiến vào sản xuất giống. e) Chất lượng sản phẩm trái cây chưa đạt VietGAP Ở các địa phương sản xuất trái cây, đặc biệt là dứa, thanh long và chôm chôm bước đầu đã và đang triển khai, sản xuất trái cây theo quy trình VietGAP. Do đó, có sự khác nhau cơ bản giữa các nhóm hộ được tham gia tập huấn và hướng dẫn làm theo VietGAP so với nhóm hộ chưa tham gia VietGAP c) Thiếu sự hỗ trợ và định hướng của Nhà nước Từ các phân tích chính sách ở phần 1.3.2, có thể thấy do lý luận phát triển chưa hoàn chỉnh, công tác xây dựng chính sách chưa chuyên nghiệp, thiếu các nghiên cứu phân tích căn cứ cụ thể, thiếu hệ thống giám sát theo dõi, thống kê số liệu đáng tin cậy và kịp thời nên có một số chính sách thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá, một số chủ trương chính sách không hợp lý thiếu tính khả thi nhưng không được điểu chỉnh bổ sung kịp thời, khó đưa vào cuộc sống, gây ra nhiều bức xúc trong sản xuất kinh doanh, người nông dân và doanh nghiệp không thấy được nhiều sự hỗ trợ tích cực cũng như các định hướng có tầm nhìn dài hạn, đặt lợi ích của người nông dân và người sản xuất lên hàng đầu. Ngoài ra việc tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Nhìn chung, chủ trương chính sách ban hành nhiều nhưng thực hiện chưa hết mức do thiếu nguồn lực tài chính, nhân lực tương ứng, thiếu kiểm tra, đôn đốc. Trách nhiệm của các cấp uỷ và chính quyền các cấp không được làm rõ và xử lý nghiêm túc khi không thực hiện tốt, còn tình trạng làm được đến đâu hay đến đó, chạy theo thành tích. Cộng với việc chậm chạp trong cải cách hành chính và quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, khiến cho chất lượng chính sách đã chưa cao còn triển khai chưa tốt. d) Chưa hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài Tuy Việt Nam có lợi thế vùng rất lớn, nhưng các chính sách lại không khuyến khích, thậm chí cản trở việc đầu tư nước ngoài vào phát triển nông nghiệp, như các chính sách về quyền sử dụng đất, và chính sách phát triển cơ sở hạ tầng yếu kém. Chưa có chính sách hỗ trợ áp dụng kỹ thuật cao vào nông nghiệp. (2) Vấn đề của vấn đề Làm sao để cung cấp với số lượng lớn và ổn định trái cây có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn VSAT TP cho thị trường xuất khẩu? Các vấn đề nêu trên có quan hệ nhân-quả và tương quan phức tạp với nhau, nhưng có một điểm chung đó là xuất phát trực tiếp hoặc gián tiếp từ việc thiếu/chưa thích hợp của chính sách, định hướng, hỗ trợ của Nhà nước. Vậy nên nhóm cho rằng vấn đề cốt lõi và khởi nguồn là từ chính sách, chiến lược của Nhà nước, các vấn đề còn lại cũng không kém phần quan trọng dẫn đến việc khi được mùa, trái cây VN nói chung đều bị rớt giá, cũng không thể xuất khẩu với số lượng lớn và đều đặn được 3. Xác định giải pháp (4 đ) 3.1. Các giải pháp thích hợp để đạt được mục tiêu: bao gồm 4 giải pháp sau đây: A. Sửa đổi chính sách đất đai tạo điều kiện tập trung đất cho sản xuất lớn B. Mở cửa, ưu đãi doanh nghiệp nước ngoài đầu tư liên doanh với doanh nghiệp VN C. Cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất trồng trọt nông nghiệp dài hạn D. Phải giải quyết cùng một lúc các vấn đề theo thứ tự ưu tiên: a) Sửa đổi chính sách, chiến lược: - Tạo điều kiện tập trung đất, hình thành các doanh nghiệp mạnh sản xuất và kinh doanh trái cây - Khuyến khích liên doanh với nước ngoài với mục tiêu tiếp nhận công nghệ trồng trọt đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế và phân phối tại thị trường quốc tế - Có các chính sách ưu đãi thích hợp trong khuôn khổ WTO (chú ý ưu đãi trái cây xanh sạch) b) Có các giải pháp hiệu quả cho các điểm yếu của ngành kinh doanh trái cây 3.2. Cần thiết? Trong 4 giải pháp nêu ở trên thì giải pháp D là giải pháp gốc. Bởi đặc thù ngành nông nghiệp của Việt Nam, cần sự hỗ trợ và định hướng tốt của Chính phủ, kinh nghiệm tương tự cũng đã được chứng minh ở các nước như Thái Lan, Nhật Bản v.v. Do đó giải quyết vấn đề xuất khẩu trái cây ở Việt Nam theo thứ tự ưu tiên như phương án D sẽ giúp giải quyết từng bước các vấn đề cốt lõi đó là canh tác lớn, liên doanh nước ngoài, chính sách, hoàn thiện chuỗi cung ứng. 3.3. Giải pháp nào hiệu quả nhất? Nếu giải pháp A thực hiện một mình, dù là có thể việc tham gia đầu tư của khối tư nhân có thể giải quyết được một số vấn đề về sản xuất kinh doanh, nhưng không thể cải cách được về mặt chính sách. Nên không thể giải quyết tận gốc và toàn diện như giải pháp D 3.4. Phù hợp với năng lực thực hiện? (1) Sửa đổi chính sách, chiến lược: Sửa đổi chính sách phát triển công nghiệp hóa coi nhẹ nông nghiệp, đổi mới nông nghiệp được nâng cao ngang bằng đổi mới công nghiệp, từng bước để nông nghiệp làm thế mạnh chính của Việt Nam a) Tạo điều kiện tập trung đất, hình thành các doanh nghiệp mạnh sản xuất và kinh doanh trái cây: Kiến nghị sửa đổi: Chuyển đổi quyền sử dụng đất thành quyền sở hữu đất. Bỏ thời hạn sử dụng đất là 20 năm (hoặc 50 năm đối với cây lâu năm), chỉ quy định trách nhiệm giao đất của nông dân khi quốc gia đòi hỏi và phải có đền bù thỏa đáng. Quy hoạch mỗi vùng chuyên biệt từng loại cây thế mạnh riêng của vùng đó, theo hướng thực hiện “dồn điền đổi thửa” dựa trên nguyện vọng muốn đổi thửa trong khu vực trồng cây nào của người dân. Xây dựng hệ thống cho đăng ký công khai thửa đất mình có và nguyện vọng đổi, cơ quan hành chính cấp xã, huyện sau khi tập hợp đủ thông tin tiến hành sắp xếp và thực hiện dồn điền đổi thửa, phải có sự đồng thuận của người dân và công khai mô hình sắp xếp của cơ quan hành chính Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Có chính sách đào tạo nhân lực chất lượng cao (Đầu tư vào các trường đại học về công trình nghiên cứu nông nghiệp) Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và kinn doanh trái cây nói riêng và nông nghiệp nói chung bằng các chính sách tín dụng với lãi suất ưu đãi. Định hướng phát triển doanh nghiệp kinh doanh tự chủ vùng nguyên liệu b) Khuyến khích liên doanh với nước ngoài với mục tiêu tiếp nhận công nghệ trồng trọt đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế và phân phối tại thị trường quốc tế: Ưu đãi về thuế, thời gian sử dụng đất, cho các doanh nghiệp mới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là những công ty có trình độ ứng dụng kỹ thuật cao. Gỡ bỏ các chính sách, thủ tục rườm rà trong xuất nhập khẩu. Hỗ trợ vốn vay, tín dụng cho các nhà nông áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP vào sản xuất. c) Có các chính sách ưu đãi thích hợp trong khuôn khổ WTO - Cung cấp trái cây xanh sạch cho thị trường toàn cầu: Năm 2001, xuất khẩu rau, quả và trái cây đạt 330 triệu USD, thì năm 2002 chỉ còn 219 triệu USD, năm 2005 còn 235 triệu USD. Số nước nhập khẩu trái cây VN cũng giảm từ 42 nước xuống còn 36. Sự sụt giảm đó chủ yếu đến từ khi gia nhập WTO, các quốc gia thành viên phải tuân thủ quy định mặt hàng rau quả và trái cây tươi phải đảm bảo vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. 10 năm trở lại đây, Việt nam đã khắc phục được một phần tình trạng này, tuy nhiên để tiếp tục mở rộng thị phần xuất khẩu trái cây Việt Nam, Chính phủ cần có chính sách quản lý chất lượng nghiêm ngặt hơn đối với mặt hàng trái cây xuất khẩu, khuyến khích áp dụng các chuẩn quốc tế đối với canh tác như GlobalGAP v.v - Đối với người trồng và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu: Nhà nước cần tạo các chính sách hỗ trợ và định hướng việc sản xuất kinh doanh trái cây, chính sách đâu tư vào các mảng mà khối tư nhân khó có thể làm được như xây dựng hạ tầng cho canh tác trái cây, đào tạo nông dân, hỗ trợ thuế xuất trong giới hạn WTO. Tránh các biện pháp bảo hộ nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước trước sự xâm nhập của doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời kiểm soát việc xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, không để xảy ra những vụ kiện liên quan đến bán phá giá, ảnh hưởng tới sức tiêu thụ trái cây Việt Nam. - Thị trường: Chính phủ nên thi hành các chính sách giúp thị trường trái cây nói chung trở nên linh hoạt, thông tin minh bạch, cạnh tranh lành mạnh giữa trong nước và cả quốc tế. Không nên điều tiết thị trường bằng các biện pháp hành chính như quota v.v (2) Nhóm các giải pháp hiệu quả cho các điểm yếu a) Cho sản xuất sản lượng lớn - Tiến hành tập trung đất đai, chấm dứt tình trạng sản xuất, canh tác trên diện tích đất manh mún, có chính sách mạnh tay hơn để đẩy mạnh người dân hoàn tất việc "dồn điền, đổi thửa" để tăng quy mô trồng trọt. - Nhà nước đưa ra các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp lớn mạnh trong sản xuất trái cây để khuyến khích các doanh nghiệp này gia tăng sản xuất, tăng thu nhập. b) Cho chất lượng trái cây hướng đến tiêu chuẩn xanh - sạch - Ứng dụng công nghệ sinh học trong việc phát triển giống cây trồng cho năng suất cao và khả năng chống bệnh cao.Như vậy trái cây có khả năng tự kháng bệnh cao, hạn chế việc phun thuốc trừ sâu và ít bón phân hóa học. - Khuyến khích người sản xuất áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất và hướng đến mục tiêu Global GAP. Với chương trình kiểm tra xuyên suốt của VietGap từ khâu chuẩn bị nông trại, canh tác, đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ, kể cả các yếu tố liên quan như môi trường, các chất hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, bao bì, điều kiện làm việc, phúc lợi của người lao động góp phần làm ra những sản phẩm sạch, đạt tiêu chuẩn, chiếm lĩnh được lòng tin của người tiêu dùng, từ đó mang lại đầu ra ổn định cho người sản xuất cây ăn trái. c) Cho thu hoạch, bảo quản - Áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trong việc thu hoạch tại nguồn và sau thu hoạch, ví dụ như các trang thiết bị hiện đại để thu hoạch trái cây được nhanh hơn, giảm thiểu hư hao, rơi rụng, giảm bớt sức lao động của con người, đẩy nhanh quá trình thu hoạch. - Đầu tư cơ sở hạ tầng, các biện pháp kỹ thuật, công nghệ bảo quản cho thu hoạch một cách bài bản. Trái cây sau khi thu hoạch xong cần được bảo quản trong môi trường phù hợp trong khi chờ vận chuyển bán ra thị trường. Những kho lạnh, nhà làm mát là nhữngphương tiện đắc lực giúp bảo quản trái cây tươi lâu. d) Công nghiệp chế biến - Có chiến lược xây dựng nguồn nguyên liệu bền vững cho các doanh nghiệp chế biến , tạo đầu vào ổn định, thường xuyên để đảm bảo duy trì hoạt động và khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp chế biến. - Khuyến khích doanh nghiệp trong nước liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài để chuyển giao công nghệ chế biến tiên tiến của thế giới. - Liên kết các tác nhân trong chuỗi cung ứng, từ người sản xuất, thương lái tới doanh nghiệp chế biến. - Khuyến khích các doanh nghiệp chế biến đưa vào áp dụng các tiêu chuẩn VSAT, từ Việt Nam tới quốc tế. 3.5. Có gây tác động tiêu cực quá đáng cho các bên liên quan? (1) Có vi phạm quy định của WTO? Không. Các chính sách nói trên đa phần đều nằm trong trợ cấp Hộp xanh lá cây, tức là được phép áp dụng không giới hạn, như: đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, đầu tư giáo dục nguồn nhân lực nông nghiệp,… Mặt khác, Việt Nam là nước đang phát triển được hưởng những “hình thức đối xử đặc biệt”, trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài (cước phí vận chuyển, nâng phẩm cấp để xuất khẩu…) và trợ cấp vận tải nội địa và quốc tế cho hàng xuất khẩu sẽ không bị xếp vào các hình thức trợ cấp xuất khẩu bị cấm (2) Mất bình đẳng hay ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác? Không. Các giải pháp theo hướng tối ưu hóa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm hoặc cải cách thủ tục hành chính, đường lối chính sách theo hướng tích cực. Vậy nên các tác động ngoại vi tiêu cực đến các lĩnh vực sản xuất khác là rất nhỏ đối với nhóm giải pháp nhằm khắc phục, tăng hiệu quả của các điểm yếu; đối với nhóm giải pháp sửa đổi chính sách, chiến lược, phạm vi tác động sẽ trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên các giải pháp đề xuất gây ra tác động tích cực, riêng về việc xác định không tiếp tục theo chính sách công nghiệp hóa coi nhẹ nông nghiệp, các ngành công nghiệp có thể bị ảnh hưởng trong việc nhận được các ưu đãi, thu hút đầu tư,… nhưng từ đó sẽ chắt lọc được các doanh nghiệp hoạt động thực sự hiệu quả chứ không phát triển ồ ạt không tập trung vào thế mạnh, khi mà cơ sở hạ tầng còn chưa tương xứng. (3) Có ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lựa chọn của người tiêu dùng, người đóng thuế? Không. Người tiêu dùng sẽ lựa chọn dựa trên tương quan giá cả và chất lượng sản phẩm, các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá bán mang đến lợi ích cho người tiêu dùng, và người tiêu dùng sẽ tự lựa chọn chứ không chịu ép buộc hay chính sách khuyến khích, đánh vào lòng trắc ẩn nào gây tác động đến hành vi tự lựa chọn. 3.6. Tiểu kết về giải pháp được lựa chọn Các giải pháp được thực hiện theo thứ tự ưu tiên để giải quyết cùng lúc các vấn đề đã nêu ở phần 1, theo đó: Sửa đổi chính sách, chiến lược là bước đầu tiên để làm nền tảng, cơ sở cho các yếu tố khác, giải pháp khác có thể thực thi, từ đó thực hiện các giải pháp khắc phục, cải thiện và thay đổi cho hiệu quả các điểm yếu của ngành kinh doanh trái cây. Trong đó các giải pháp chính về chính sách, chiến lược như: Chuyển đổi thành quyền sở hữu đất, bỏ thời hạn sử dụng đất nông nghiệp, quy hoạch các vùng trồng trái cây, dồn điền đổi thửa, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực nông nghiệp chất lượng cao, hỗ trợ chính sách tín dụng, cải thiện chính sách đầu tư, minh bạch trong các thủ tục, ưu đãi thuế cho nhưng doanh nghiệp đầu tư chuyển giao công nghệ tiên tiến, định hướng theo tiêu chuẩn VietGAP và tiến xa hơn là GlobalGAP, hỗ trợ tìm thị trường đầu ra cho thị trường xuất khẩu qua các hiệp định song phương, đa phương, đơn giản thủ tục xuất nhập khẩu, xây dựng thương hiệu Việt Nam qua những hoạt động như hội chợ quốc tế, cập nhật và đào tạo các kiến thức luật pháp, thương mại quốc tế cho doanh nghiệp, nghiên cứu nhu cầu thị trường và đưa ra các dự báo,… Các giải pháp hiệu quả cho điểm yếu kinh doanh trái cây bao gồm: ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, sản xuất dựa trên lợi thế quy mô để có được sản lượng lớn với chi phí thấp; về mặt chất lượng sản phẩm, cả vùng trồng cây dù với nhiều thửa thuộc chủ sở hữu khác nhau đều theo một quy trình chuẩn mực (VietGAP/GlobalGAP), ứng dụng công nghệ sinh học trong việc phát triển giống cây trồng cho năng suất cao và khả năng chống bệnh cao; công tác thu hoạch cũng cần áp dụng công nghệ và kĩ thuật tiên tiến về sau thu hoạch cho việc thu hoạch ngay tại nguồn, đầu tư hạ tầng. biện pháp kĩ thuật, công nghệ bảo quản cho thu hoạch một cách bài bản, phân phối có thể phát triển các mô hình tiêu thụ, xuất khẩu tại chỗ trái cây cho du lịch, như mô hình Thái Lan áp dụng; Đa dạng thị trường xuất khẩu, tránh lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc, tổ chức các nghiệp đoàn xuất khẩu trái cây, kết nối doanh nghiệp cùng ngành để đảm bảo việc thương lượng giá bán với các đối tác nước ngoài, đồng thời đa dạng hóa danh mục xuất khẩu bằng các sản phẩn chế biến, đặc biệt là sản phẩm trái cây sấy khô, vừa giải quyết được vấn đề bảo quản, gia tăng giá trị, vừa góp phần giảm tình trạng "được mùa mất giá", xây dựng thương hiệu cho trái cây Việt Nam xuất khẩu, chú trọng vào các mặt hàng có thế mạnh như thanh long, chôm chôm v.v. đồng thời xây dựng chuỗi cung ứng để trái cây Việt Nam có thể tiếp cận người tiêu dùng thế giới qua các sản phẩm giá trị gia tăng; Công nghiệp chế biến trái cây cần có chiến lược xây dựng nguồn nguyên liệu bền vững cho các doanh nghiệp chế biến, khuyến khích DN trong nước liên doanh với DN nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài để chuyển giao công nghệ chế biến tiên tiến của thế giới, liên kết các tác nhân trong chuỗi cung ứng, từ người sản xuất, thương lái tới doanh nghiệp chế biến, khuyến khích các doanh nghiệp chế biến đưa vào áp dụng các tiêu chuẩn VSATTP Gợi ý cho người bạn (2 đ) Vận dụng tiêu chí định vị doanh nghiệp để gợi ý người bạn cần ưu tiên những tiêu chí nào để thành lập một doanh nghiệp kinh doanh trái cây một cách hiệu quả, phù hợp với giải pháp đã lựa chọn. Dựa trên kết quả nghiên cứu của dự án này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như sau nhằm xây dựng một doanh nghiệp kinh doanh trái cây hiệu quả tại thị trường Việt Nam: - Tận dụng xu hướng xuất khẩu trái cây sấy khô hiện nay để phát triển kinh doanh ở các thị trường lớn. Trái cây sấy khô được người dùng yêu thích, dễ bảo quản và vận chuyển đến các thị trường xa về mặt địa lý, ngoài ra giải quyết hiệu quả lượng trái cây ứ đọng từ chính vụ để dùng cho các giai đoạn trái vụ. - Tìm kiếm những thị trường ngách chưa được phát triển nhiều ở Việt Nam để khai thác, nhằm xây dựng thế mạnh cạnh tranh với mặt hàng khác biệt, cụ thể là chôm chôm sấy khô và măng cụt sấy khô. Một trong những công ty hàng đầu tại Việt Nam như Vinamit hiện vẫn chưa đầu tư vào hai mặt hàng này, các sản phẩm chủ đạo chủ yếu là chuối, táo, mít, khoai sấy khô, v.v… - Tính khả thi của dự án là có vì đã có những sản phẩm tương tự được sản xuất tại Thái Lan, nên doanh nghiệp có thể đi tham quan, học hỏi dây chuyền sản xuất tại nước ngoài. - Một trong những yếu tố cần quan tâm là thuyết phục hộ gia đình trồng trái cây chuyển từ sử dụng phân hoá học sang phân hữu cơ để đảm bảo các tiêu chuẩn Vệ Sinh An Toàn Thực Phẩm theo chuẩn thế giới, nhằm xâm nhập vào các thị trường khó tính. Ngoài ra, các tiêu chuẩn sản xuất cần được xây dựng theo mô hình VietGAP, và trong tương lai sắp tới là Global GAP. - Chiến lược phát triển kinh doanh trước mắt có thể nhắm đến một trong những thị trường lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, sau đó là đến các thị trường khó tính như Nhật Bản, Châu Âu, Mỹ, v.v…. các thị trường khó tính này sẽ đảm bảo sự đa dạng về khách hàng, tránh tình trạng lệ thuộc và bị ép giá của đối tác Trung Quốc, đồng thời khai thác các giá trị gia tăng của các thị trường tiên tiến. - Nhằm đảm bảo năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần đảm bảo vùng sản xuất ổn định, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho quy trình sản xuất. Xây dựng hệ thống liên kết với thương lái và hộ gia đình trồng trái cây, tạo điều kiện đào tạo về các tiêu chuẩn thế giới đến các đối tượng trên. - Trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp, có thể cân nhắc khả năng liên doanh với các doanh nghiệp Thái Lan có kinh nghiệm trong lĩnh vực này để được tiếp nhận công nghệ quốc tế hoặc mở cửa vào các thị trường khác. - Đào tạo kỹ năng cán bộ về năng lực điều hành, vận hành, ngôn ngữ, kiến thức thương mại quốc tế, khung pháp luật của WTO để làm việc hiệu quả với đối tác nước ngoài, xây dựng thế mạnh cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác đã ổn định trong thị trường. - Đầu tư xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của doanh nghiệp và đề cao tính xanh sạch của sản phẩm để đạt tỉ suất lợi nhuận cao khi bán ở thị trường nước ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Cần tăng cường vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn” – Ngô Việt Hương – Trường Đại học Hồng Đức - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 17/2013 2. “Chính sách ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn: Chưa đủ hấp dẫn doanh nghiệp” – Phương Hà phỏng vấn TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT) 3.“ Chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn giai đoạn 2011-2020” – Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn 4. “Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn” được Chính phủ đã ban hành ngày 12/4/2010. 5.”WTO - Thêm khó khăn cho trái cây Việt Nam” – Hồng Hạnh – Sài Gòn Giải Phóng 6. “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trái cây Việt Nam” – Ninh Đức Hùng – Đỗ Kim Chung – Đại học nông nghiệp Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfipl3_baitieuluantmqt_nhom2_1687.pdf