KẾT LUẬN
Từ kết quả thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm, đã xác định được khả năng kết hợp của
hai nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Anammox
trong cùng một thiết bị để xử lý ammonium
trong nước thải giết mổ.
Ở cùng tải trọng N-NH4 nước thải đầu vào
thì tải trọng thấp và lưu lượng nước thải cao có
hiệu quả loại N-NH4 tốt hơn so với tải trọng cao
hơn và lưu lượng nước thải thấp hơn.
Mô hình thí nghiệm hoạt động hiệu quả với
hiệu suất xử lý đạt 92% ở tải trọng 0,04 kgNNH4/m3.ngày và 87,8% ở tài trọng 0,14 kgNNH4/m3.ngày
Do hai nhóm vi khuẩn này có đặc tính sinh
lý khác nhau nên việc sử dụng giá thể (mô hình
sinh học dính bám) tỏ ra thích hợp cho hai
nhóm vi khuẩn này hoạt động chung trong cùng
thiết bị. Với giá thể là sợi polyacrylic thì hiệu
quả xử lý ammonium tốt hơn giá thể là sợi bông
tắm
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý ammonium trong nước thải giết mổ bằng việc sử dụng kết hợp quá trình nitrit hóa một phần/anammox - Lê Công Nhất Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 105-110
105
XỬ LÝ AMMONIUM TRONG NƯỚC THẢI GIẾT MỔ BẰNG VIỆC
SỬ DỤNG KẾT HỢP QUÁ TRÌNH NITRIT HÓA MỘT PHẦN/ANAMMOX
Lê Công Nhất Phương(*), Lê Thị Cẩm Huyền, Nguyễn Huỳnh Tấn Long
Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (*)vshnd@yahoo.com
TÓM TẮT: Nước thải chứa một lượng lớn nitơ chưa qua xử lý mà xả thải trực tiếp ra các nguồn nước
tiếp nhận sẽ gây tác động xấu đến môi trường nước. Công nghệ dựa vào sự kết hợp quá trình nitrit hóa
một phần và Anammox đang được phát triển và nghiên cứu ứng dụng để xử lý N-NH4 trong nước thải.
Nghiên cứu xử lý ammonium nước thải giết mổ bằng quá trình nitrit hóa một phần/anammox trong một bể
phản ứng, sử dụng giá thể poly acrylic và sợi bông tắm. Kết quả cho thấy mô hình hoạt động hiệu quả với
hiệu suất xử lý đạt 92% ở tải trọng 0,04 kgN-NH4/m3.ngày và 87,8% ở tải trọng 0,14 kgN-NH4/m3.ngày.
Từ khóa: Anammox, Nitrosomonas, giá thể, nitrit hóa, nước thải giết mổ.
MỞ ĐẦU
Các hệ thống xử lý nitơ trong nước thải cho
đến nay chủ yếu dựa vào quá trình nitrat
hóa/khử nitrat hóa được đánh giá là có hiệu quả
và chi phí thấp. Công nghệ xử lý nitơ truyền
thống này không thích hợp xử lý nước thải có
nồng độ ammonium cao, đồng thời cần tiêu thụ
một lượng carbon hữu cơ.
Quá trình nitrat hóa (tự dưỡng hiếu khí):
NH4+ NH2OH NO2- NO3-.
Quá trình khử nitrat (dị dưỡng thiếu khí):
NO3- NO2- NO N2O N2.
Sự phát hiện phản ứng anammox mở một
hướng phát triển kỹ thuật xử lý nitơ mới. Quá
trình này có thể sử dụng để xử lý nước sau ép
bùn, nước thải công nghiệp chế biến thủy hải
sản, nước thải chăn nuôi heo, nước thải các lò
mổ gia súc gia cầm, nước thải chế biến thực
phẩm và nước thải thuộc da... Công nghệ này đã
được ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới và
Việt Nam cũng được triển khai nghiên cứu ứng
dụng trong những năm gần đây. Công nghệ xử
lý ammonium khi ứng dụng vi khuẩn Anammox
thì phải tiến hành thông qua hai bước. Bước thứ
nhất, ammonium được oxy hóa một phần thành
hydroxyamin hoặc nitrit với oxy là chất nhận
điện tử (tự dưỡng hiếu khí). Bước thứ hai,
hydroxyamin hoặc nitrit với vai trò là chất nhận
điện tử sẽ phản ứng với lượng ammonium còn
lại để tạo nên khí nitơ (tự dưỡng kỵ khí). Kết
hợp hai quá trình này gọi là quá trình nitrit hóa
một phần/anammox [3] (hình 1).
Hình 1. Chu trình chuyển hóa các hợp chất nitơ
N2
Nitơ
hữu cơ
NH4+
NH2OH
NO2-
NO
N2O
N2H4
NO3-
Nitrat hóa
Khử nitrat
Cố định đạm đồng hóa
Nitrit hóa
Anammox
Pha khí pha lỏng
Le Cong Nhat Phuong, Le Thi Cam Huyen, Nguyen Huynh Tan Long
106
Việc kết hợp 2 loại vi khuẩn hiếu khí, kỵ
khí của quá trình nitrit hóa một phần/anammox
trong cùng một bể phản ứng là một thử thách về
mặt công nghệ. Trong quá trình hoạt động
chung như vậy, hai nhóm vi khuẩn trên đã tạo
nên một lớp bông bùn mà bên trong là những
nhóm vi khuẩn kỵ khí. Ưu điểm của cách này là
vừa tiết kiệm được năng lượng sục khí, vừa ít
tốn mặt bằng (hình 2).
Hình 2. Lớp màng sinh học trong quá trình Canon [1]
Trong nghiên cứu này, công nghệ nitrit
hóa/anammox được sử dụng trong cùng một bể
phản ứng, thử nghiệm 2 loại giá thể dính bám
poly acrylic và sợi bông tắm để nghiên cứu khả
năng xử lý ammonium trong nước thải giết mổ.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Vật liệu
Nước thải đầu vào của mô hình thí nghiệm
được thu sau quá trình xử lý yếm khí của một
cơ sở lò mổ có tính chất như bảng 1.
Sinh khối Anammox và Nitrosomonas sử
dụng 5 lít (SS = 8000 mg/L) được cung cấp từ
đề tài nghiên cứu của Lê Công Nhất Phương
(2008) [4].
Mô hình thí nghiệm được vận hành trên hai
loại giá thể để vi sinh vật bám dính, sinh trưởng
và phát triển là sợi poly acrylic và sợi bông tắm
(hình 3).
Bảng 1. Đặc trưng của nước thải giết mổ sau xử
lý kỵ khí
STT Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị
1 N-NH4 mg/L 60,4-128,4
2 N-NO2 mg/L 0-0,1
3 N-NO3 mg/L 0-1,1
4 COD mg/L 114,4 - 201
5 pH 7-8,4
6 Nhiệt độ oC 28-30
7 Tổng Photpho mg/L 0,5-5,6
Sợi poly acrylic Sợi bông tắm
Hình 3. Giá thể sử dụng trong thí nghiệm
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 105-110
107
Thiết bị phản ứng có dạng hình hộp chữ
nhật phía trên để hở gồm 2 ngăn: ngăn phản ứng
có kích thước dài × rộng × cao tương ứng là 350
× 150 × 300 mm (thể tích hữu dụng 15 lít) và
ngăn lắng 150 × 100 × 300 mm (thể tích
hữu dụng 4,4 lít). Tại ngăn phản ứng, giá thể
được sắp đặt để tạo điều kiện cho vi khuẩn
dính bám.
Hình 4. Mô hình thí nghiệm
Vận hành mô hình
Nước thải được bơm định lượng cấp liên tục
vào ngăn phản ứng. Mô hình xử lý được cấp khí
thông qua bơm khí từ đáy ngăn phản ứng cung
cấp oxi cho vi khuẩn hoạt động. Nước thải đầu
vào sẽ đi từ đầu ngăn phản ứng ở phía đáy, di
chuyển đến cuối ngăn phản ứng và chảy qua
ngăn lắng từ phía trên, tiếp tục đi lên phía trên
ngăn lắng và chảy qua miệng ống ra ngoài mô
hình (hình 4).
Nghiên cứu tiến hành các giai đoạn thí
nghiệm như bảng 2.
Bảng 2. Các giai đoạn thí nghiệm
Giai đoạn Lưu lượng (L/ngày) Giá thể Ghi chú
1 10 - 20 và 30 Poly acrylic
2 10 Poly acrylic Tăng nồng độ N-NH4
nước thải vào
3 10 Sợi bông tắm Tăng nồng độ N-NH4
nước thải vào
Phương pháp phân tích
N-NO2 được xác định bằng phương pháp so
màu sử dụng thuốc thử Griss. N-NO3 được xác
định băng phương pháp so màu dựa trên phản
ứng của nitrat với axit disunfophenol tạo thành
nitrofenoldisunfonic trong môi trường kiềm có
màu vàng đặc trưng, đo tại bước sóng 410 nm.
Các chỉ tiêu khác được phân tích theo Standard
methods for the examination of water and
wastewater, phiên bản thứ 20 (Clescerl et al,
1999): N-NH4(4500-NH3 F), N-NO2 , N-NO3,
SS(2540 D), VSS (2540 E), độ kiềm (2320 B),
COD(5220 B); COD được điều chỉnh theo chất
cản trở N-NO2 (-1,1 mg/L COD cho 1 mg/L N-
NO2). pH và DO được đo bằng thiết bị đo cầm
tay tương ứng.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Hiệu quả xử lý N-NH4
Quá trình vận hành mô hình thí nghiệm cho
thấy có sự giảm rõ rệt nồng độ ammonium của
nước thải (hình 5). Ở tải trọng 0,04 kg
N-NH4/m3.ngày (lưu lượng 10 L/ngày, nồng độ
N-NH4 đầu vào trung bình 61,6 mg/L), nồng độ
N-NH4 sau phản ứng dao động trong khoảng
0,6-11,9 mg/L. Hiệu quả xử lý N-NH4 tăng dần
từ 80,3% lên 99%, ổn định trong khoảng 96,7-
99%. Khi tăng lưu lượng nước thải vào ngăn
phản ứng gấp đôi (20 L/ngày) tương ứng tải
trọng 0,08 kgN-NH4/m3.ngày; nồng độ N-NH4
đầu ra và hiệu quả xử lý dao động trong khoảng
1-12,7 mg/L và 78,7-98,4%, hiệu suất xử lý
trung bình 90,3%. Ở tải trọng ammonium đầu
Le Cong Nhat Phuong, Le Thi Cam Huyen, Nguyen Huynh Tan Long
108
vào 0,14 kgN-NH4/m3.ngày (mô hình vận hành
30 L/ngày) với N-NH4 đầu vào trung bình 70
mg/L, hiệu quả xử lý dưới 90,8%, giá trị trung
bình là 87,8%.
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2
Hình 5. Sự thay đổi nồng độ N-NH4
Qua số liệu trên cho thấy, hiệu suất xử lý
giảm dần khi tăng tải trọng ammonium nước
thải đầu vào, tuy nhiên, về khả năng loại N-NH4
thì thực tế hiệu quả xử lý tốt hơn.
Trong thí nghiệm đánh giá hiệu quả xử lý
của mô hình khi nồng độ N-NH4 nước thải đầu
vào thay đổi, kết quả cho thấy, mô hình có sự
thích nghi với sự tăng của nồng độ ammonium.
Ở giai đoạn 2 này, mô hình được vận hành thay
đổi ở 4 giá trị tải trọng 0,07-0,09-0,11-0,13
kgN-NH4/m3.ngày, hiệu suất loại ammonium
trung bình đạt được tương ứng 86,2%-78,5%-
74,2%-66,8% (hiệu suất cao nhất tương ứng là
90,5%-84,5%-81,8%-72,8%). Cũng như giai
đoạn 1, tuy hiệu suất loại N-NH4 giảm, nhưng
thực tế, khả năng loại N-NH4 tốt hơn, các giá trị
tải trọng loại trung bình N-NH4 tương ứng
0,059-0,069-0,08-0,084 kgN-NH4/m3.ngày (giá
trị tải trọng loại cao nhất lần lượt 0,064-0,076-
0,092-0,093 kgN-NH4/m3.ngày).
Qua 2 giai đoạn thí nghiệm, kết quả cho
thấy rằng, hiệu suất xử lý của mô hình cao hơn
khi tăng tải trọng ammonium nước thải đầu vào
bằng cách tăng lưu lượng nước thải so với cách
tăng nồng độ ammonium. Điều này có thể liên
quan đến sự thích nghi chậm với nồng độ N-
NH4 của sinh khối (bảng 3).
Bảng 3. Bảng hiệu suất và tải trọng loại N-NH4 ở giai đoạn 1 và 2
Giai đoạn Hiệu suất (%)
Tải trọng N-NH4
nước thải đầu vào
(kgN-NH4/m3.ngày)
Tải trọng loại N-NH4
(kgN-NH4/m3.ngày)
1 92 0,04 0,038
1 90,3 0,08 0,073
1 87,8 0,14 0,123
2 86,2 0,07 0,059
2 78,5 0.09 0,069
2 74,2 0,11 0,08
2 66,8 0,13 0,084
Trong thí nghiệm sử dụng giá thể sợi bông
tắm, khả năng loại ammonium của mô hình
cũng được ghi nhận (hình 6).
Tương tự giai đoạn 2, giai đoạn này mô
hình vận hành với tải trọng tăng dần bằng cách
tăng nồng độ N-NH4 nước thải vào ngăn phản
ứng: 0,04-0,07-0,09-0,11 kgN-NH4/m3.ngày, kết
quả đạt được hiệu suất loại ammonium trung
bình tương ứng là 88%-80,6%-76,4%-72,5% và
tải trọng loại trung bình lần lượt là 0,036-0,055-
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 105-110
109
0,066-0,078 kgN-NH4/m3.ngày.
Trong giai đoạn thí nghiệm 2 và 3, kết quả
cho thấy, hiệu quả xử lý của mô hình sử dụng
giá thể sợi polyacrylic tốt hơn giá thể sợi bông
tắm (hiệu suất xử lý 86,2% so với 80,6% ở tải
trọng 0,07 kgN-NH4/m3.ngày). Trong thí
nghiệm cũng ghi nhận sự dính bám của sinh
khối vi khuẩn vào mạng lưới sợi polyacrylic,
trong khi đó giá thể sợi bông tắm không có sự
dính bám mà chỉ tập trung thành từng lớp dày
nằm trong các lớp giá thể.
Trong các giai đoạn thí nghiệm, một lượng
nhỏ N-NO2 (0,1-0,5 mg/L) sinh ra sau quá trình
xử lý được ghi nhận. Trong khi đó, lượng N-NO3
sinh ra nhiều, tỉ số giữa N-NH4 tiêu thụ/N-NO3
sinh ra ở 3 giai đoạn thí nghiệm lần lượt là 1-0,44;
1-0,3 và 1-0,3. Nồng độ DO trong ngăn phản ứng
ghi nhận được có giá trị DO < 0,5 mg/L.
Hình 6. Sự thay đổi nồng độ N-NH4 ở giai đoạn thí nghiệm 3
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiệu quả xử lý N-
NH4 của mô hình đạt 87,8-92% ở tải trọng 0,04-
0,14 kgN-NH4/m3.ngày. Một kết quả nghiên cứu
cùng công nghệ xử lý với nghiên cứu này sử
dụng nước thải giết mổ của Reginatto (2005) [5]
cũng đạt hiệu quả xử lý đến 95% ở tải trọng
0,033-0,067 kgN-NH4/m3.ngày. Ở Việt Nam,
một nghiên cứu quá trình nitrit hóa - anammox
xử lý nước thải chăn nuôi cũng đạt hiệu quả xử
lý N-NH4 cao 80-95% ở tải trọng 0,17-0,33
kgN-NH4/m3.ngày (bảng 4).
Bảng 4. Tải trọng và hiệu suất xử lý N-NH4 của một số nghiên cứu
Quá trình Nước thải Tải trọng kgN-NH4/m3.ngày
Hiệu suất
(%) Tác giả
Nitrit hóa - Anammox Nước thải giết mổ 0,04-0,14 87,8-92 Nghiên cứu này
Nitrit hóa - Anammox Nước thải giết mổ 0,033-0,067 40-95
V. Reginatto et al.
[5]
Nitrit hóa - Anammox
(SBR)
Nước thải
chăn nuôi 0,054-0,108 95 E.Choi et al. [2]
Nitrit hóa - Anammox Nước thải
chăn nuôi 0,17-0,33 80-95 Phương [4]
Le Cong Nhat Phuong, Le Thi Cam Huyen, Nguyen Huynh Tan Long
110
KẾT LUẬN
Từ kết quả thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm, đã xác định được khả năng kết hợp của
hai nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Anammox
trong cùng một thiết bị để xử lý ammonium
trong nước thải giết mổ.
Ở cùng tải trọng N-NH4 nước thải đầu vào
thì tải trọng thấp và lưu lượng nước thải cao có
hiệu quả loại N-NH4 tốt hơn so với tải trọng cao
hơn và lưu lượng nước thải thấp hơn.
Mô hình thí nghiệm hoạt động hiệu quả với
hiệu suất xử lý đạt 92% ở tải trọng 0,04 kgN-
NH4/m3.ngày và 87,8% ở tài trọng 0,14 kgN-
NH4/m3.ngày
Do hai nhóm vi khuẩn này có đặc tính sinh
lý khác nhau nên việc sử dụng giá thể (mô hình
sinh học dính bám) tỏ ra thích hợp cho hai
nhóm vi khuẩn này hoạt động chung trong cùng
thiết bị. Với giá thể là sợi polyacrylic thì hiệu
quả xử lý ammonium tốt hơn giá thể là sợi bông
tắm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Capuno R. E. Jr., 2007. Mathematical
modeling for nitrogen removal via a
nitritation: anaerobic ammonium oxidation-
coupled biofilm in a hollow fiber membrane
bioreactor and a rotating biological
contactor. PhD Thesis, Faculty of the
Virginia Polytechnic Institute and State
University.
2. Choi E., Eum Y., 2002. Strategy for
nitrogen removal from piggery waste. Water
Science and Technology, 46(6-7): 347-354.
3. Nguyễn Huỳnh Tấn Long, 2010. Nghiên
cứu thực nghiệm ảnh hưởng của oxy hòa tan
và bicarbonate trong xử lý nito nước thải
chăn nuôi heo bằng quá trình nitrat hóa bán
phần/anammox. Luận án Thạc sĩ, Viện Môi
trường và Tài nguyên, tp. Hồ Chí Minh.
4. Lê Công Nhất Phương, 2008. Nghiên cứu
ứng dụng nhóm vi khuẩn Anammox trong
xử lý nước thải nuôi heo. Luận án Tiến sĩ,
Viện Môi trường và Tài Nguyên, tp. Hồ Chí
Minh.
5. Reginatto V., Teixeira R. M., Pereira F.,
Schmidell W., Furigo Jr. A., Menes R.,
Etchebehere C., Soares H. M., 2005.
Anaerobic ammonium oxidation in a
bioreactor treating slaughterhouse
wastewater. Brazilian Journal of Chemical
Engineering, 22(4): 593-600.
AMMONIUM TREATMENT IN SLAUGHTER-HOUSE WASTEWATER USING
THE COMBINATION OF PARTIAL NITRITATION/ANAMMOX PROCESS
Le Cong Nhat Phuong, Le Thi Cam Huyen, Nguyen Huynh Tan Long
Institute of Tropical Biology, VAST
SUMMARY
Wastewater rich in nitrogen compounds wastewater would have a negative impact on water source
without treatment. The technology based on the combination of partial nitritation and anammox was
developed to treat ammonium in wastewater. Study of ammonium removal in slaughter-house wastewater in 1
single reactor using poly acrylic and bath ball carriers was conducted. Experimental results showed that the
model operated well with ammonium removal efficiency reaching 92% and 87.8% at N-NH4 loading rate of
0.04 kgN-NH4/m3.d and 0.14 kgN-NH4/m3.d, respectively.
Keywords: Anammox, carrier, nitrification, nitrosomonas, slaughter-house wastewater.
Ngày nhận bài: 21-6-2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1782_5702_1_pb_0546_2016709.pdf