Xu hướng toàn cầu hoá và vai trò của xã hội thông tin

Đội ngũcán bộtriển khai: Có đủtrình độnghiệp vụ đểtiếp nhận và qun lý hệ thống thông tin trên Internet, đáp ứng yêu cầu tưvấn cho Lãnh đạo doanh nghiệp vềphương án triển khai cụthể đm bo phù hợp với điều kiện cụthểcủa doanh nghiệp

pdf32 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1915 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xu hướng toàn cầu hoá và vai trò của xã hội thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í dụ. 192.55.239) chỉ cho biết nơi mà hệ thống được kết nối, gọi là subnet-mạng con. Ví dụ như, tất cả các máy của Wesleyan University nằm trong mạng con có địa chỉ là 129.133. Họ có thể có các con số địa chỉ từ 129.133.10.10, 129.133.230.19, tức là tới 65 ngàn địa chỉ khác nhau. Tên miền và số Các máy tính trên mạng có thể được tìm thấy với hoặc là FQDN hoặc địa chỉ Internet. Làm thế nào để có thể nhớ được tất cả các máy này. Thực tế là Internet được thiết kế để người ta còn có thể sử dụng phương pháp khác. Do con người cảm thấy việc nhớ địa chỉ bằng chữ dễ hơn bằng số nên mỗi FQDN được chỉ đến một địa chỉ Internet. Mỗi tên miền được một máy tính trong mạng đó phục vụ, nó sẽ cung cấo tất cả các thông tin để có thể chuyển từ một tên miền sang một địa chỉ IP và ngược lại. Ví vụ như khi người ta nói đến một địa chỉ foosun.bar.com, máy tính tên miền biết nó phải hỏi hệ thống foovax.bar.com về các hệ thống con nằm trong bar.com. Nó có thể tìm hiểu xem địa chỉ Internet foosun.bar.com có thông tin gì; nếu mà tên foosun.bar.com thực sự tồn tại, foovax sẽ được gửi trở lại với các con số IP của nó. Và tất cả các điều này được thực hiện một cách lặng lẽ. 3.2 E-mail Thư điện tử (e-mail) là một công cụ đơn giản để trao đổi tin tức giữa các cá nhân hoặc một nhóm người. Email là một dịch vụ phổ biến nhất trong các dịch vụ của Internet, nó chuyển các thông điệp qua các mạng thông tin. Các thông Trang 11/32 điệp có thể là các lời nhắn do bạn gõ từ bàn phím hoặc các tệp tin lưu trên đĩa. Hầu hết các máy chủ lớn, các máy chủ mini và các mạng máy tính đều có hệ thống thư điện tử. Một số hệ thống thư điện tử chỉ hoạt động trên một máy tính hoặc một mạng máy, nhưng số khác lại có các cổng nối với các hệ thống máy tính khác, cho phép người sử dụng có thể gửi thư điện tử đi khắp nơi trên thế giới. Các công ty đang trang bị máy tính đồng bộ khai thác thư điện tử rất triệt để vì nó rất nhanh, linh hoạt và tin cậy. Các thông điệp đã gửi đi được lưu trữ ở trong các hộp thư điện tử cho đến khi người nhận đến lấy nó về. Để xem bạn có thư hay không, bạn có thể phải kiểm tra hộp thư của bạn thường xuyên, mặc dù có nhiều hệ thống có thể sẽ báo cho bạn biết nếu bạn có thư mới. Sau khi đọc thư, bạn có thể lưu nó vào một file văn bản, gửi cho người khác hoặc xoá nó. Bạn cũng có thể in ra giấy nếu thấy cần phải có một bản sao bằng giấy. Tất cả các dịch vụ trực tuyến và các nhà cung cấp dịch vụ đều cung cấp dịch vụ thư điện tử và hầu hết cũng có các cổng nên bạn có thể trao đổi thư điện tử với người sử dụng trên hệ thống khác. Thường thì mất khoảng một vài giây cho đến vài phút để thư có thể tới đích. Đây là hiệu quả đặc biệt được sử dụng để trao đổi trong một nhóm vì bạn có thể gửi một thư đến tất cả mọi người trong nhóm. Trong những năm gần đây, việc sử dụng thư điện tử tăng vọt lên. Theo dự tính thì có khoảng 25 triệu người sử dụng gửi đi 15 tỷ thông điệp mỗi năm. Địa chỉ thư điện tử Thư điện tử được nhắc đến như là một địa chỉ; địa chỉ thư điện tử của bạn cung cấp to bộ các thông tin cần thiết để người ta có thể gửi thư cho bạn từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Thư điện tử thông thường có dạng chứa ký tự @. Ví dụ, dể gửi thư cho Jim Morrison trên hệ thống south.america.org, một địa chỉ có thể là jm@south.america.org. Một thư điện tử có cấu trúc nhất định From bush@hq.mil Sat May 25 17:06:01 1991 Received: from hq.mil by house.gov with SMTP id AA21901 (4.1/SMI for dan@house.gov); Sat, 25 May 91 17:05:56 -0400 Date: Sat, 25 May 91 17:05:56 -0400 From: The President Message-Id: To: dan@senate.gov Trang 12/32 Subject: Meeting Hi Dan .. we have a meeting at 9:30 a.m. with the Joint Chiefs. Please don't oversleep this time. Khi một địa chỉ thư điện tử không đúng theo một cách nào đó (tên hệ thống sai, tên mi không tồn tại …), thì thư sẽ được chuyển lại cho người gửi, giống như khi Bưu điện gửi trả lại thư cho bạn khi bạn đề sai địa chỉ lên phong bì thư. Thông điệp khi trả lại sẽ nói rõ nguyên nhân không đến được đích; lỗi thường gặp là địa chỉ thư gửi đến một tài khoản không tồn tại. From: Mail Delivery Subsystem Date: Sat, 25 May 91 16:45:14 -0400 To: mg@gracie.com Cc: Postmaster@cs.widener.edu Subject: Returned mail: User unknown ----- Transcript of session follows ----- While talking to cs.widener.edu: >>> RCPT To: <<< 550 ... User unknown 550 lsimpson... User unknown ----- Unsent message follows ----- Received: by cs.widener.edu id AA06528; Sat, 25 May 91 16:45:14 -0400 Date: Sat, 25 May 91 16:45:14 -0400 From: Matt Groening Message-Id: To: lsimpson@cs.widener.edu Subject: Scripting your future episodes Reply-To: writing-group@gracie.com ... verbiage ... Trang 13/32 Toàn bộ nội dung bức thư nhận lại nguyên vẹn, kể cả các tên máy chủ mà thư đã đi qua. Danh sách địa chỉ - Mailing list Khi muốn gửi một thư cho nhiều địa chỉ người ta thường sử dụng một mailing list. Mailing list là một địa chỉ đại diện cho nhiều địa chỉ thư điện tử. Khi người ta muốn gửi thư cho một nhóm người với cùng một nội dung thì chỉ cần điền vào phần người nhận (To) tên của mailing list, máy chủ thư sẽ tự động nhân bản thư điện tử này theo danh sách mailing list đã được lập. 3.3 WWW và ngôn ngữ HTML Một hệ thống các máy chủ Internet hỗ trợ một loại văn bản với khuôn dạng đặc biệt. Các văn bản ở khuôn dạng đặc biệt này gọi là HTML (HyperText Markup Language) nó hỗ trợ các liên kết đến các văn bản, hình ảnh, âm thanh, các file video khác. Có nghĩa là ta có thể "nhảy" từ văn bản này sang văn bản khác chỉ với việc bấm chuột lên các đường dẫn. Không phải tất cả các máy chủ Internet đều thuộc vào World Wide Web. Có một số chương trình ứng dụng gọi là Web browsers giúp cho việc truy cập World Wide Web dễ dàng hơn; Hai trong số các chương trình phổ dụng nhất là Netscape Navigator and Microsoft Internet Explorer. Nói một cách đơn giản, World Wide Web là một phương thức để chia sẻ tài nguyên của nhiều người trong cùng một khoảng thời gian. Thậm chí ở các khoảng cách rất xa trên thế giới. Bắt nguồn từ một công cụ để nghiên cứu, trở nên một công cụ tuyệt vời không thể lường trước được, với sự ra đời của Mosaic và các chương trình duyệt web đồ hoạ, web trở nên một công cụ truyền tin cho lực lượng đông đảo vô cùng. Các trang web có thể chứa thông tin dạng văn bản, tranh ảnh, âm thanh, video, các liên kết FTP cho việc tải xuống các phần mềm và nhiều hơn nữa… Bạn có thể tạo ra các văn bản sống động, có thể được cập nhật hàng tuần, hàng ngày hoặc thậm chí hàng giờ giúp cho những người xem trang web thu được các thông tin khác nhau mỗi khi họ đến xem các trang web của bạn. URL URL - Uniform Resource Locator, là một địa chỉ trên web mà bạn đã xem. Nếu có ai đó đưa cho bạn một địa chỉ của trang web của họ, họ có thể nói là www.k42.com. Hầu hết các chương trình web browsers yêu cầu bạn phải thêm http:// vào phần trước của địa chỉ URL và nhờ đó chương trình hiểu là bạn đang muốn tới một trang web. Do đó, bạn phải ra lệnh cho web browser của mở địa chỉ để có thể xem được trang web mà bạn Trang 14/32 cần. Ghi nhớ là bạn cũng cần phải kết nối tới các site FTP sử dụng chương trình browser, do đó bạn phải ghi rõ ftp:// đối với các site FTP. Cần phải luôn nhớ là không phải mọi người mở các trang web giống nhau. Một số người sử dụng Netscape, Internet Explorer, Mosaic hoặc các chương trình browsers khác hỗ trợ đồ hoạ. Một số khác lại chỉ sử dụng chương trình lynx, chỉ hỗ trợ văn bản và không có đồ hoạ. Nhiều thành viên của các nhóm trên Internet chỉ lấy các thông tin trên web qua thư điện tử. Tốc độ modem và loại kết nối cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến cách nhìn trang WWW của bạn. 3.4 Bài thực hành số 3 Chương. 4. Thương mại điện tử 4.1 Khái niệm Thương mại điện tử (e-commerce) là một sự kết hợp giữa các công nghệ và dịch vụ tạo điều kiện cho quá trình tự động hoá của các giao dịch thương mại và các thông tin liên quan trong một công ty và giữa công ty với khách hàng và nhà cung cấp của mình. Nói một cách đơn giản hơn, thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại; nói chính xác hơn, thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Thương mại điện tử mở ra các hoạt động hiệu quả cho kết quả trong những khoảng thời gian ngắn hơn, cải thiện sự phản hồi với khách hàng và làm giảm chi phí điều hành. Hầu hết các công ty đang đầu tư vào thương mại điện tử ngày nay mong muốn một hệ thống có thể quản lý được dòng các giao dịch thương mại nội tại và qua các kênh phân phối. Một kênh phân phối có thể bao gồm các tổ chức bán hàng và marketing, các nhà sản xuất, các nhà thầu phụ, các nhà cung cấp nguyên vật liệu, những người bán lẻ, các nhà sản xuất thiết bị đầu tiên và những người tiêu dùng. Trong kênh phân phối còn có các cơ quan chính phủ để kiểm soát thuế quan và các nhu cầu an ninh, các công ty bảo hiểm để bảo vệ hàng tồn kho, các công ty phân phối và hậu cần để vận chuyển hàng hoá và cuối cùng là các ngân hàng để cho quá trình thanh toán. 4.2 Các loại hình thương mại điện tử Thương mại điện tử được chia thành bốn loại khác nhau : Doanh nghiệp – Doanh nghiệp Doanh nghiệp – Người tiêu dùng Doanh nghiệp – Chính quyền Trang 15/32 Người tiêu dùng – Chính quyền Mối liên hệ giữa bốn loại hình thương mại điện tử được thể hiện trên hình sau : d o a n h n g h iÖ p c h Ýn h q u y Òn d o a n h n g h iÖ p n g−ê i t iª u d ï n g Hình số 1: Các loại hình thương mại điện tử Một ví dụ về loại hình "Doanh nghiệp – Doanh nghiệp" có thể là một công ty sử dụng một mạng để đặt hàng từ người cung cấp của họ, nhận các hoá đơn bán hàng và thanh toán tiền. Loại hình thương mại điện tử này đã được hình thành khá thành công từ vài năm nay, đặc biệt là sử dụng hệ thống trao đổi thông tin điện tử qua các mạng tư nhân hoặc mạng giá trị gia tăng. Loại hình "Doanh nghiệp – Người tiêu dùng" là loại kinh doanh bán lẻ trên cơ sở mạng thương mại điện tử rộng rãi. Loại này đã phát triển rộng khắp cùng với sự phát triển của mạng lưới Internet toàn cầu. Giờ đây có rất nhiều "sạp" hàng trên khắp mạng Internet bày bán đủ các loại hàng tiêu dùng, từ bánh qui và rượu vang cho đến máy vi tính hay ô tô. Loại hình " Doanh nghiệp – Chính quyền" bao gồm tất cả các giao dịch giữa các công ty và các tổ chức Chính phủ. Ví dụ như ở Mỹ, những khoản sắp mua của Chính phủ được thông báo rộng rãi trên Internet và các công ty có thể đáp lại bằng điện tử. Hiện nay, loại hình này vẫn còn chưa phát triển, nhưng nó sẽ có thể phát triển rất nhanh do các Chính phủ dùng ảnh hưởng của mình để khuyến khích sự phát triển và phổ cập thương mại điện tử. Loại hình "Người tiêu dùng – Chính quyền" vẫn chưa được hình thành. Tuy nhiên, tiếp sau sự phát triển của cả loại hình Kinh doanh – Người tiêu dùng và Kinh doanh – Chính quyền, các chính phủ có thể mở rộng ảnh hưởng của điện tử tới các khu vực như là các khoản thanh toán phúc lợi xã hội và các khoản thu về thuế thu nhập tự khai. 4.3 Các đặc điểm của thương mại điện tử (t-5) Các mạng thương mại điện tử quản lý sự trao đổi các giao dịch, nó quản lý các đơn đặt hàng, thông báo chuyển hàng, các hoá đơn bán hàng và tất cả các tài liệu cần thiết cho công việc kinh doanh. Trong thương mại điện tử, các giao Trang 16/32 dịch chuyển đi giữa các ứng dụng 24 giờ một ngày, bảy ngày trong một tuần tuỳ theo các sự việc hoặc các lịch hẹn trước. Việc trao đổi bằng điện tử các giao dịch này không có sự can thiệp của con người, làm giảm thời gian hoàn thành mỗi quá trình trong kênh phân phối và cuối cùng là làm giảm chu kỳ tổng thể. Giảm chu kỳ tổng thể có nghĩa là ta có thể sản xuất thêm được mà không làm tăng tổng chi phí. 4.4 Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử. (t-5) Trong quá trình giao dịch, có nhiều loại phương tiện kỹ thuật đã tham gia, bao gồm: Điện thoại Điện thoại là một phương tiện phổ thông, tiện dụng và tham gia rất phổ biến trong các giao dịch thương mại. Tuy nhiên, nó đã bộc lộ những hạn chế như : chỉ truyền tải được âm thanh, chi phí giao dịch đường dài vẫn còn cao, kết thúc của các giao dịch vẫn cần giấy tờ ... Máy điện báo (Telex) và máy Fax. Máy Fax đã thay thế hẳn các phương thức chuyển giấy tờ truyền thống. Ngày nay, người ta đã chấp nhận các bản hợp đồng chuyển qua máy Fax. Nhưng máy Fax lại không thể truyền tải được âm thanh, hình ảnh ba chiều, chi phí chuyển Fax qua điện thoại đường dài cũng rất cao. Truyền hình. Truyền hình đóng vai trò khá quan trọng trong thương mại. Cụ thể là quảng cáo hàng hoá trên truyền hình đã thu hút rất nhiều người xem truyền hình và sau đó trở thành người mua hàng. Tuy nhiên truyền hình lại là một phương tiện kỹ thuật một chiều, qua truyền hình, khách hàng không thể tìm kiếm được các sản phẩm mình cần, không thể liên hệ, giao dịch với người bán về các điều khoản cụ thể. Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử. Thanh toán là một khâu quan trọng mang tính chất mấu chốt của quá trình thương mại. Ngày nay, thanh toán tiền qua các phương tiện kỹ thuật điện tử đã trở nên rất phổ biến. Việc chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác được thực hiện một cách tự động thông qua mạng lưới các ngân hàng. Máy rút tiền tự động, thẻ tín dụng các loại, thẻ mua hàng, thẻ thông minh đang được sử dụng rộng rãi ngày nay chính là các phương tiện thanh toán điện tử. Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ. Mạng nội bộ là toàn bộ các máy tính của một tổ chức được kết nối với nhau thông qua một hệ thống dây cáp và các thiết bị điều khiển. Liên mạng nội bộ Trang 17/32 chính là các mạng nội bộ ở xa nhau được nối với nhau qua đường điện thoại hay một loại cáp đặc biệt. Thông qua mạng, người ta cũng có thể thực hiện được các giao dịch thương mại trực tuyến như trao đổi thông tin về hàng hoá, giá cả, rao mua, rao bán... Internet và Web. Internet được gọi là mạng toàn cầu hay "mạng của các mạng". Các máy tính nối vào mạng Internet có thể trao đổi với nhau dữ liệu, thư điện tử ... trên cơ sở các tiêu chuẩn truyền dẫn dữ liệu trong môi trường Internet. Đó chính là giao thức tiêu chuẩn TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol) do Bộ Quốc Phòng Mỹ khởi thảo và phát triển. Tất cả các máy tính hay mạng LAN muốn kết nối với Internet phải tuân theo giao thức tiêu chuẩn TCP/IP. Sau đó, người ta đã phát triển thêm giao thức chuẩn quốc tế HTTP (HyperText Transfer Protocol). Giao thức này truyền các siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ HTML (HyperText Markup Language) tạo ra thêm rất nhiều dịch vụ khác nhau, trong đó dịch vụ World Wide Web gọi tắt là Web sử dụng các siêu liên kết văn bản tham chiếu tới nhiều văn bản khác nhau, cho phép người ta tự động truy nhập được nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, với nhiều loại hình thông tin khác nhau : văn bản, hình ảnh, âm thanh ... Chính nhờ có Internet và dịch vụ Web, việc trao đổi thông tin, quảng cáo sản phẩm, kinh doanh ... trên Internet trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết đối với tất cả mọi người. Internet cũng chính là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình toàn cầu hoá trở nên hiện thực. Trên Internet không hề có giới hạn về địa lý, tất cả mọi người đều bình đẳng. Đây chính là điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tự vươn mình cao hơn, xa hơn với chi phí nhỏ nhất. 4.5 Các lợi ích của thương mại điện tử • Tăng hiệu suất công việc • Tiết kiệm chi phí • Các quá trình kinh doanh hợp lý hon • Dịch vụ khách hàng tốt hon • Các cơ hội cho các doanh nghiệp mới 4.6 Các vấn đề liên quan trong việc sử dụng mạng thương mại điện tử a) Các vấn đề về tài chính Thuế quan và hệ thống thuế Chính phủ các nước đều nhận thấy rằng việc giảm thuế quan đem lại lợi ích cho nền kinh tế và công dân của các nước có mậu dịch tự do. Do đó, Internet Trang 18/32 thực sự là một phương tiện toàn cầu, nó mang rất ít ý nghĩa đối với việc áp dụng thuế quan với hàng hoá và dịch vụ phát ra trên Internet. Hơn nữa, trên Internet không có các địa giới rõ ràng và cố định của việc di chuyển hàng hoá, trong khi nó vẫn có thể quản lý các thuế quan đối với các sản phẩm được đặt hàng trên Internet nhưng cuối cùng lại được phân phối trên mặt đất hoặc qua đường hàng không. Trong tương lai, Internet được tuyên bố là một môi trường phi thuế quan khi mà nó được sử dụng để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ. Nguyên tắc này có thể được thiết lập nhanh chóng trước khi các nước đánh các khoản thuế quan và trước khi các hình thái quyền lợi được bảo đảm để bảo vệ các khoản thuế quan đó. Thanh toán điện tử Khoa học công nghệ mới đã làm cho Internet có khả năng thanh toán tiền hàng và các dịch vụ qua mạng toàn cầu. Một số phương pháp có thể kết nối với hệ thống ngân hàng và thanh toán điện tử hiện tại, kể cả hệ thống thẻ tín dụng ... với các giao diện mới trên Internet. Các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển như nước ta thường gặp bất lợi là tình trạng viễn thông khó khăn và phải chịu cước phí viễn thông quá cao. Tỷ lệ điện thoại cho đầu người thấp. Thâm nhập tới các mạng thông tin truyền thống rất khó và giá cao quá không kham nổi. Ngay thâm nhập vào Internet, một phương tiện rẻ gần như cho không ở các nước phát triển, thì chi phí cũng vẫn cao. Sự thiếu hụt khả năng thâm nhập dễ dàng với giá phải chăng vào các mạng thông tin điện tử này là một chướng ngại to lớn đối với các doanh nghiệp cần thông tin nhanh và chính xác về thị trường và về cơ hội kinh doanh. Các vấn đề về pháp luật i. "Luật thương mại thống nhất" cho thương mại điện tử Nhìn chung, các bên đối tác đều có thể tiến hành kinh doanh với nhau qua Internet với các điều kiện thoả thuận. Các bên tham gia thị trường cần phải đưa ra các điều luật để chi phối thương mại điện tử. Sau đây là một số nguyên tắc có thể làm cơ sở cho các dự thảo bộ luật sẽ chi phối mạng thương mại điện tử toàn cầu : Trang 19/32 Hình số 5 : Các nguyên tắc làm cơ sở cho bộ luật về thương mại điện tử ii. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ Về quyền sở hữu trí tuệ Thương mại trên Internet sẽ thường liên quan tới việc bán hàng và cấp phép cho các quyền sở hữu trí tuệ. Để khuyến khích quá trình này, người bán phải biết rằng quyền sở hữu trí tuệ của họ sẽ không bị đánh cắp và người mua cũng phải biết rằng họ đang giữ các sản phẩm xác thực. Các thoả thuận quốc tế xác nhận bản quyền tác giả, bằng sáng chế và bảo vệ nhãn hiệu thương mại là rõ ràng và có hiệu lực do đó cần được bảo vệ tránh khỏi gian lận và sao chụp bất hợp pháp. Về quyền tác giả Có một số hiệp ước xác định các qui tắc quốc tế về việc bảo vệ bản quyền tác giả, các hiệp ước này liên kết gần như tất cả các nước thương mại chính và cung cấp cho họ các công cụ để bảo vệ theo luật pháp của họ đối với mỗi bản quyền tác phẩm và các băng ghi âm. Bằng sáng chế Sự phát triển của cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu phụ thuộc vào cuộc cách mạng trong các lĩnh vực của công nghệ như phần mềm máy tính, phần cứng và viễn thông. Một hệ thống sáng chế chức năng hiệu quả khuyến khích và bảo vệ các cuộc cách mạng sáng chế trong các lĩnh vực này là rất quan trọng cho sự thành công toàn diện của thương mại qua Internet. Nhãn hiệu thương mại và các tên vùng Các quyền về nhãn hiệu thương mại có phạm vi quốc gia và có thể có xung đột khi xuất hiện các nhãn hiệu thương mại giống nhau cho cùng một loại hàng hoặc dịch vụ thuộc về các bên đối tác khác nhau ở các đất nước khác nhau. Các nước cũng có thể áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau để xác định sự vi phạm nhãn hiệu. Sự xung đột xuất hiện trên cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu, nơi mà các bên thứ ba đã đăng ký các tên vùng Internet giống hoặc tương tự như là nhãn hiệu Trang 20/32 thương mại đã đăng ký theo luật pháp. Một tên vùng Internet đóng vai trò như là một điểm để nhận biết trên Internet. Thông thường thì các điểm nhận biết như các địa chỉ không được bảo vệ về mặt bản quyền sở hữu trí tuệ. iii. Sự bí mật Các nguyên tắc về sự bí mật chỉ ra ba giá trị để có thể chi phối cách thu thập, đưa ra và sử dụng trực tuyến các thông tin cá nhân là : thông tin bí mật, thông tin nguyên trạng và thông tin chất lượng. Trước hết, sự mong đợi hợp lý của một cá nhân về các bí mật liên quan tới việc truy nhập để sử dụng thông tin cá nhân của anh ta cần phải được đảm bảo. Thứ hai, các thông tin cá nhân không được thay đổi hoặc huỷ bỏ tuỳ tiện. Và thứ ba là các thông tin cá nhân cần phải đảm bảo chính xác, đúng lúc, trọn vẹn và xác đáng cho các mục đích cung cấp và sử dụng chúng. Theo các nguyên tắc này, người tiêu dùng có quyền được bồi thường nếu họ bị thiệt hại do việc sử dụng tuỳ tiện các thông tin cá nhân của họ hoặc khi mà các quyết định được đưa ra trên cơ sở các thông tin cá nhân không chính xác, quá hạn, không trọn vẹn và không xác đáng. iv. An toàn thông tin Cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu cần phải được đảm bảo và đáng tin cậy. Nếu những người dùng Internet không tin tưởng rằng các quá trình truyền thông và dữ liệu của họ không bị truy nhập hoặc sửa đổi trái phép, họ sẽ có thể không sử dụng Internet làm công cụ cho quá trình thương mại. Các vấn đề về gia nhập thị trường v. Cơ sở hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin Thương mại điện tử toàn cầu phụ thuộc vào một mạng lưới viễn thông toàn cầu hiện đại và liên tục và các máy tính và các công cụ thông tin kết nối với nó. Đáng tiếc là ở nhiều quốc gia, các chính sách về viễn thông đang ngăn cản sự phát triển của các mạng lưới số hoá tiên tiến. Các khách hàng thấy rằng các dịch vụ viễn thông thường là quá đắt, hạn chế về đường truyền và các dịch vụ thì không đầy đủ và không đáng tin cậy. Cũng như vậy, ở nhiều nước vẫn còn duy trì các rào chắn thương mại để nhập khẩu công nghệ thông tin, gây khó khăn cho cả người buôn bán và các khách hàng mua các máy tính và mạng mà họ cần thiết để tham gia vào thương mại điện tử. Thị trường mở thực sự sẽ dẫn tới tăng cạnh tranh, cải thiện cơ sở hạ tầng viễn thông, khách hàng có nhiều lựa chọn hơn, giá giảm và tăng cường đồng thời cải thiện các dịch vụ. Hơn nữa, các nước có mức độ phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông khác nhau có thể ngăn cản quá trình toàn cầu hoá và việc sử dụng một số dịch vụ của Internet. vi. Nội dung Có bốn điểm cần ưu tiêu: Trang 21/32 Qui định về nội dung : Các công ty mong muốn kinh doanh qua Internet và cung cấp dịch vụ truy nhập Internet quan tâm tới trách nhiệm pháp lý trên cơ sở các chính sách khác nhau của mỗi đất nước mà thông tin của họ có thể đưa tới. Nội dung của các phần nước ngoài : Một số nước hiện đang yêu cầu một tỷ lệ nhất định về thời gian truyền tin dành cho các nội dung thực hiện trong nước. Các quốc gia cũng quyết định điều chỉnh nội dung của Internet và đưa ra các hạn chế dưới áp lực của Chính phủ hơn là dưới các kết cấu điều hoà phát tin. Qui định về quảng cáo : Quảng cáo cho phép các phương tiện tương tác đưa ra nhiều hơn các sản phẩm và dịch vụ với giá cả chấp nhận được cho một lượng thính giả toàn cầu rộng rãi hơn. Qui định về việc chống gian lận : Để nhận thấy được tiềm năng thương mại và văn hoá của Internet, những người sử dụng phải tin tưởng rằng các dịch vụ và hàng hoá chào mời là khá tiêu biểu, rằng họ sẽ nhận được cái mà họ đã trả tiền, và rằng nếu không phải như vậy thì họ sẽ có chỗ trông cậy vào hoặc được đền bù. vii. Các tiêu chuẩn kỹ thuật : Các tiêu chuẩn chính là yếu tố cản trở sự thành công về mặt lâu dài của Internet vì chúng cho phép hoà trộn các sản phẩm và dịch vụ của các nhà cung cấp khác nhau. Chúng cũng khuyến khích sự cạnh tranh và làm giảm tính chắc chắn trong thị trường toàn cầu. Để đảm bảo cho sự phát triển của thương mại điện tử toàn cầu trên Internet, các tiêu chuẩn cần phải chắc chắn về độ tin cậy, khả năng điều khiển, dễ sử dụng và phù hợp với các qui mô khác nhau trong các lĩnh vực : • Thanh toán điện tử • Bảo mật (tính tin cậy, độ chắc chắn, bảo toàn dữ liệu, điều khiển truy cập) • Bảo mật của các dịch vụ cơ sở hạ tầng • Hệ thống quản lý bản quyền điện tử • Công nghệ mạng tốc độ cao • Các đối tượng số và chuyển đổi dữ liệu Chương. 5. Thương mại điện tử 5.8 Những ưu điểm của thương mại điện tử Sự lớn mạnh nhanh chóng của thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp thực hiện được là nhờ : chi phí mua thấp hơn, giảm tồn kho, chu kỳ kinh doanh Trang 22/32 ngắn hơn, dịch vụ khách hàng có hiệu quả hơn, chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị giảm, cơ hội bán hàng phong phú hơn. Chi phí mua hàng thấp hơn : Việc mua các vật tư hoặc dịch vụ ở một hãng có thể là một quá trình có nhiều thủ tục và tốn kém. Các công ty giảm chi phí mua hàng bằng cách hợp nhất quá trình mua và tăng cường mối quan hệ với các nhà cung cấp để có thể hưởng lợi nhờ giảm giá khi mua nhiều và kiểm tra sát sao quá trình sản xuất. Họ tìm kiếm các nguồn cung cấp với giá rẻ, họ sử dụng trao đổi dữ liệu điện tử qua các mạng riêng để giảm các chi phí nhân lực, in ấn và thư tín. Internet có một khả năng tiềm tàng để giảm hơn nữa các chi phí mua hàng bằng cách tự động hoá các nghiệp vụ mà trước kia phải làm thủ công. Nó mở ra cánh cửa để kinh doanh bằng điện tử cho các nhà cung cấp mới và cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp mà trước đó chỉ dùng các công cụ truyền thống là máy fax và điện thoại trong giao tiếp kinh doanh. Những khả năng giao tiếp thời gian thực và phạm vi toàn cầu đang dẫn tới sự ra đời một thị trường trực tuyến cho các vật tư sản xuất và không sản xuất. Các doanh nghiệp ở Mỹ đã chi khoảng 250 tỷ đôla mỗi năm cho các loại vật tư, dịch vụ và không dùng đến trong quá trình sản xuất. Việc mua các văn phòng phẩm, thiết bị máy tính, các phụ tùng thay thế dành cho bảo trì, sửa chữa và hoạt động của các thiết bị và một quá trình thủ công điển hình và có thể là rất tốn kém và kém hiệu quả. Wiznet Purchasing Extranet kết nối những người mua từ trên 50.0000 catalo công nghiệp của các nhà sản xuất, 5 triệu bản dữ liệu và các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm từ 30.000 nhà cung cấp. Mỗi tuần, hệ thống Purchasing Extranet tạo ra tới trên 130.000 yêu cầu thông tin sản phẩm và trên 14.000 thư điện tử trao đổi giữa các nhà cung cấp và các nhà chuyên môn tìm kiếm nguồn hàng. Vào mùa thu năm 1997, ChemConnect Trading Exchange đã có trên 1500 nhà sản xuất, nhà phân phối và thương gia sử dụng các dịch vụ của mình để quảng cáo bán hoá chất, thông báo yêu cầu đặt giá và bán hàng ế, hoá chất kém phẩm chất và các sản phẩm phụ. Trong tháng 9 năm 1997, các cuộc đấu giá trên "Chemicals Wanted" có tổng giá trị lên đến 320 triệu đô la Giảm tồn kho Đưa ra những dự báo chính xác hơn về những gì bán được và không bán được có thể làm tăng vòng quay của hàng trong kho và giữ đúng loại hàng trong kho. Internet và các mạng riêng có thể được sử dụng để đảm bảo rằng thông tin được mang lại cho người cần nó và đúng lúc người ta cần nó. Trang 23/32 Khoảng 2 năm trước, công nghiệp hàng không mới bắt đầu chuyển các phụ tùng thay thế trong kho chứa của họ trở lại cho các nhà cung cấp. Hãng Boeing đã thấy lượng đặt hàng tăng rất nhanh, mà hầu hết là cho các đơn hàng "ưu tiên" hoặc "gấp". (Các đơn hàng ưu tiên càng kéo dài thì các máy bay có thể bị mắc cạn lâu hơn). Boeing phản ứng lại bằng cách đưa lượng tồn kho gần hơn tới những khách hàng của mình, lưu hàng trong kho trên cơ sở những nhu cầu của khách hàng từ trước đến giờ. Nó cũng giảm thời gian phản hồi đối với các đơn hàng từ 10 ngày xuống còn ngày hôm sau và từ trong ngày xuống còn 2 giờ đối với các đơn hàng ưu tiên. Kinh nghiệm cho thấy lượng tồn kho hợp lý là chuyển hàng khi các công ty hàng không cần nó nhất. Kết hợp giữa kinh nghiệm quá khứ với những thông tin tương tự trong tương lai có thể còn có hiệu quả hơn trong việc đamr bảo lượng tồn kho chính xác cho các phụ tùng cần thiết. Do việc tu sửa các máy bay là khá thường xuyên nên rất nhiều nhu cầu tương lai có thể tiên liệu được, nhưng các thông tin đó nhất thiết phải được trao đổi giữa các công ty hàng không và các nhà cung cấp. Hãng Boeing hình dung ra một hệ thống trong đó các hãng hàng không kết hợp chặt chẽ các nhu cầu cho quá trình sửa chữa theo lịch và các hoạt động theo lịch trực tiếp vào trong quá trình xử lý việc đặt hàng các phụ tùng thay thế của họ. Ví dụ như nếu cần một phụ tùng, hệ thống trước tiên có thể kiểm tra cơ sở dữ liệu trong kho và nếu tìm thấy thì ấn định phụ tùng đó cho đơn hàng sau này. Nếu phụ tùng cần thiết không tìm thấy, một đơn hàng sản xuất có thể được lập ra và gửi cho nhà cung cấp trong khoảng thời gian hợp lý. Tất cả các liên hệ trong chuỗi sẽ được phục vụ tốt hơn - các hãng hàng không có thể có các phụ tùng khi cần (và cũng có thể theo dõi tình trạng của các phụ tùng mà họ đã đặt hàng), Boeing có thể lập kế hoạch tồn kho của họ tốt hơn (hiện giờ, khoảng 50% các đơn hàng của Boeing là ở mức độ ưu tiên cao - nếu không tìm thấy phụ tùng trong tồn kho của mình, hãng Boeing cần phải đặt hàng ngay, đôi khi điều này cũng có nghĩa là chi phí sản xuất và vận chuyển cao hơn ảnh hưởng bất lợi đến lợi nhuận của hãng Boeing, và các nhà cung cấp của hãng Boeing cũng có lợi trong việc đáp lại ít hơn các đơn hàng gấp. Để cho chiến lược này thành công, liên lạc từ hãng hàng không với nhà sản xuất máy bay rồi với nhà cung cấp là rất quan trọng. Với những tiềm năng của Internet có thể tiếp cận với các thành viên với chi phí thấp, nó có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công chiến lược này. Trên 75% máy tính cá nhân được bán thông qua nhà phân phối thứ ba. Nhưng những hãng bán hàng trực tiếp rẻ tiền, cụ thể là Dell và Gateway, đang mở Trang 24/32 rộng thị phần. Compaq, Hewlett-Packard, IBM và các đại lý của họ cũng đang đẩy mạnh các phản hồi của họ và thương mại điện tử đóng một vai trò quan trọng. Chỉ mới ra đời vào giữa những năm 80, tới những năm 90, cả hai công ty Dell và Gateway 2000 đã trở thành các công ty với thị giá nhiều tỷ đô la nhờ việc bán hàng trực tiếp tới các doanh nghiệp và các cá nhân thông qua catalô, điện thoại và gần đây là qua Internet. Thêm nữa, họ còn đưa ra mô hình "sản xuất theo đơn hàng" khác hẳn với mô hình cổ truyền "sản xuất theo kế hoạch tồn kho". Trong mô hình sản xuất theo đơn hàng, một máy tính được sản xuất chỉ sau khi có khách hàng đặt hàng mua. Do giá cả của các mạch tích hợp và các bộ phận chính của máy tính giảm liên tục nhờ có các tiến bộ công nghệ mới, việc trì hoãn đặt hàng các linh kiện này có thể giảm đáng kể giá thành chung của sản phẩm. Nhờ có những sáng kiến này, Dell và Gateway có lợi thế hơn hẳn về vòng quay hàng tồn kho so với đối thủ của họ. Mấy năm vừa rồi, hãng Compaq, IBM và HP đã bắt đầu sửa đổi phương pháp bán hàng và tồn kho của họ theo hướng giảm chi phí và cùng đó đưa ra nhiều giá trị hơn cho các khách hàng cuối. Internet đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược của họ. Nó được sử dụng để xác định, mua các linh kiện, liên kết các nhà cung cấp vào mô hình tồn kho tính theo phút và thiết kế hệ thống thông tin, cộng tác với các nhà cung cấp-đại lý trên cơ sở các dự báo và các kế hoạch sản xuất xác đáng và linh hoạt hơn. Hậu cần có hiệu quả hơn Việc đáp ứng một đơn hàng cho một sản phẩm và chuyển cho khách hàng trong khoảng thời gian đã hen trước với một chi phí thấp nhất có thể chính là mục tiêu của hoạt động logistics của một công ty. Trong một số trường hợp, điều này có thể liên quan đến việc sử dụng nhà kho và các yêu cầu quan trọng khác (nơi mà các sản phẩm từ những nơi khác nhau trên thế giới được chất lên xe tải hoặc công-ten-nơ cùng với các sản phẩm khác để chuyển đến cùng một nơi). Một đơn vị logistics điển hình làm việc với các khách hàng đại lý và các hãng vận tải, các công ty chuyển hàng và các công ty đóng gói. Tuỳ theo sản phẩm từ đâu tới, nó được chuyển tới bằng đường thư chuyển nhanh, bằng xe tải hay tàu thuỷ, một số sản phẩm có thể được chuyển từ điểm này sang điểm khác trong vài giờ, số khác lại có thể mất vài tuần. Khả năng theo dõi một sản phẩm qua từng công đoạn từ nhà máy cho tới tận khách hàng cuối cùng làm cho việc khai thác ngoại các chức năng của khâu logistics từ bên ngoài trở nên hiện thực hơn. Các đơn hàng đặt qua điện thoại, fax hoặc Internet liên hệ bằng điện tử với hệ thống logistics nội bộ của công ty. Trang 25/32 Nếu sản phẩm có trong kho, một lệnh xuất hàng tự động đưa ra, sản phẩm được đưa lên xe tải hoặc gửi tới nhà khách hàng. Mỗi quá trình này đều được ghi lại trong hệ thống để kiểm duyệt do đó bất cứ ai muốn xem quá trình dịch chuyển – dù là đại diện dịch vụ khách hàng ở bộ phận logistics của công ty hay nhà sản xuất, hoặc chính bản thân khách hàng có thể biết được hàng đang ở đâu và bao giờ thì tới nơi. Internet không chỉ hỗ trợ hoạt động kinh doanh của khâu logistics trong công ty mà nó còn mang tới nhiều cơ hội kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp sử dụng Internet, trong đó có L.L Bean, Insight Direct và các công ty khác tìm kiếm đối tác để cung cấp và phân phối các sản phẩm của họ. Ngay cả việc bán lẻ các hàng hoá hữu hình trên Internet cũng đã có rất nhiều cơ hội cho các công ty vận chuyển. Chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị thấp hơn Một người bán hàng riêng lẻ có thể theo dõi được số lượng khách hàng mà anh ta có thể tới tận nơi thăng viếng hoặc gọi điện thoại. Càng có nhiều khách hàng thì càng phải có lực lượng bán hàng mạnh. Thậm chí các công ty tiếp thị trực tiếp, cũng phải tăng thêm nhân viên khi mà lượng đặt hàng tăng lên. Đối lại, việc kinh doanh trên Web có thể thêm các khách hàng mới với chi phí tăng thêm rất ít hoặc thậm chí không mất thêm gì. Nguyên nhân là do chức năng bán hàng của nó được đặt trong một máy chủ chứ không phải là một kho chứa hàng hoặc những người bán hàng thực thụ. Nó chỉ bị giới hạn bởi năng lực của máy chủ trả lời các yêu cầu và đơn hàng. Hãng Boise Cascade - trị giá 2 tỷ đô la - chuyên phân phối các sản phẩm trên Web từ năm 1997 đã có một catalô điện tử với khoảng 10.000 hàng hoá. Boise chỉ trông đợi khoảng 1 hoặc 2 phần trăm khách hàng của họ đặt hàng qua mạng trong năm đầu tiên. Thực tế là đã có tới 4% khách đặt hàng. Tới cuối năm 1998, Boise tiên đoán rằng sẽ có khoảng 10% khách hàng sẽ đặt hàng qua Web. Và vốn xây dựng site này đã được thu hồi. Boise đã chi khoảng dưới 100 ngàn đô la để xây dựng web site này. Sau 6 tháng hoạt động, nó đã tiết kiệm được hơn 1 triệu đô la do việc giảm thời gian các đại diện phục vụ khách hàng nhận đơn hàng qua điện thoại. 5.9 Tương lai Các doanh nghiệp sử dụng Internet để mua, bán, phân phối và hỗ trợ sản phẩm và các dịch vụ đã thực sự giảm được chi phí và tăng cơ hội bán hàng. Và lợi ích chỉ tăng khi mạng lưới kinh doanh điều khiển sự tăng trưởng của thương mại điện tử. Trang 26/32 Các quá trình kinh doanh làm nổi bật lên ba vấn đề như là những rào cản tiềm tàng cho việc chấp nhận rộng rãi thương mại Internet: thiếu một môi trường pháp lý có thể tiên liệu được, chính phủ sẽ tăng thuế quá cao trên Internet, và sự không chắc chắn về sự thực hiện, độ tin cậy và tính an toàn của Internet. Các công ty đang có các xu hướng khác nhau trong việc chỉ ra những hạn chế hiện thời về mặt kỹ thuật. Một số người sử dụng Internet để mua các loại hàng giá trị thấp, những vật tư gián tiếp trong khi họ vẫn mua các loại hàng giá trị cao và vật tư trực tiếp thông qua các mạng giá trị gia tăng. Một số người tạo ra các extranet hoặc các mạng riêng ảo để hạn chế số lượng truy cập cho một số ngành kinh doanh nhất định và các đối tác của họ. Chính phủ Mỹ hỗ trợ việc phát triển cả các hình thức thương mại nội địa và toàn cầu, các điều luật thương mại chấp nhận, tạo điều kiện và bắt buộc các giao dịch điện tử toàn cầu. Chính phủ cũng hỗ trợ các pháp chế ngăn cấm đưa ra những loại thuế phân biệt đối xử trên Internet và đương nhiên là các loại hàng hoá và dịch vụ được truyền bằng điện tử qua các nước không phải chịu thuế hải quan. Chương. 6. Khai thác thông tin trên Internet Lượng thông tin trên Internet phát triển hàng ngày, thậm chí hàng giờ, hàng phút. Ngày nay người ta có thể tìm thấy gần như bất cứ loại thông tin gì mà con người nghĩ đến, từ tin tức thời sự cho đến các công trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên tổ chức thông tin trên Internet mang tính tự phát bởi người ta có thể đưa lên Internet bất cứ thông tin gì. Ngày nay số trang web trên Internet đã lên tới … trang. Do vậy, để khai thác thông tin trên Internet có hiệu quả công cụ được mọi người sử dụng nhiều nhất để có được các thông tin cần thiết là các “máy tìm kiếm” – Search Engine. Máy tìm kiếm là một chương trình ứng dụng có nhiệm vụ tìm các văn bản theo một số từ khoá cho trước và liệt kê kết quả tìm kiếm về các văn bản mà có chứa từ khoá này. Thông thường, một máy tìm kiếm thường hoạt động bằng việc gửi ra Internet một chương trình nhỏ với mục đích lấy về càng nhiều văn bản càng tốt. Một chương trình khác gọi là chương trình xếp thứ tự, sau đó sẽ đọc các văn bản này và tạo ra một danh mục trên cơ sở các từ có chứa trong mỗi văn bản. Mỗi máy tìm kiếm sử dụng một thuật toán riêng để thực hiện công việc này để đảm bảo cho việc đưa ra các kết quả có ý nghĩa. Tham khảo : Trang 27/32 The Major Search Engines Why are the services below considered to be the Major Search Engines? They are all either well-known or well-used. For webmasters, these services are the most important places to be listed, because they can potentially generate so much traffic. For searchers, these well-known, commercially-backed search engines generally mean more dependable results. These search engines are more likely to be well-maintained and upgraded when necessary, to keep pace with the growing web. Not all of the services below are "true" search engines that crawl the web. For instance, Yahoo and the Open Directory both are "directories" that depend on humans to compile their listings. In fact, most of the services below offer both search engine and directory information, though they will prodominately feature one type of results over the other. AOL Search AOL Search allows its members to search across the web and AOL's own content from one place. The "external" version, listed above, does not list AOL content. The main listings for categories and web sites come from the Open Directory (see below). Inktomi (see below) also provides crawler-based results, as backup to the directory information. Before the launch of AOL Search in October 1999, the AOL search service was Excite-powered AOL NetFind. AltaVista AltaVista is consistently one of the largest search engines on the web, in terms of pages indexed. Its comprehensive coverage and wide range of power searching commands makes it a particular favorite among researchers. In addition to crawler-based web page matches, it also offers news search, shopping search, multimedia search and human-powered directory results from LookSmart (see below). AltaVista opened in December 1995. It was owned by Digital, then run by Compaq (which purchased Digital in 1998), then spun off into a separate company which is now controlled by CMGI. Ask Jeeves Ask Jeeves is a human-powered search service that aims to direct you to the exact page that answers your question. Direct Hit Direct Hit measures what people click on in the search results presented at its Trang 28/32 own site and at its partner sites, such as HotBot. Sites that get clicked on more than others rise higher in Direct Hit's rankings. Thus, the service dubs itself a "popularity engine." Aside from running its own web site, Direct Hit provides the main results which appear at HotBot (see below) and is available as an option to searchers at MSN Search. Direct Hit is owned by Ask Jeeves (above). Some Direct Hit information appears at Ask Jeeves. See the Using Direct Hit Results page to learn more about Direct Hit. Excite Excite offers a medium-sized crawler-based web page index, as well as access to human-powered directory results from LookSmart. Excite was launched in late 1995. It grew quickly in prominence and consumed two of its competitors, Magellan in July 1996, and WebCrawler in November 1996. Magellan was discontinued in April 2001. WebCrawler continues to operate as a separate service, but it provides the same results at the Excite.com site itself. FAST Search FAST Search consistently has one of the largest indexes of the web. FAST also offers large multimedia and mobile/wireless web indexes, available from its site. The site, also known as AllTheWeb.com, is a showcase for FAST's search technologies. FAST's results are provided to numerous portals, including those run by Terra Lycos. FAST Search launched in May 1999. Google Google is a search engine that makes heavy use of link popularity as a primary way to rank web sites. This can be especially helpful in finding good sites in response to general searches such as "cars" and "travel," because users across the web have in essence voted for good sites by linking to them. The system works so well that Google has gained wide-spread praise for its high relevancy. Google also has a huge index of the web and provides some results to Yahoo and Netscape Search. viii. Google - Searching 1,610,476,000 web pages HotBot HotBot is a favorite among researchers due to its many power searching features. In most cases, HotBot's first page of results comes from the Direct Hit service (see above), and then secondary results come from the Inktomi search engine, which is also used by other services. It gets its directory information from the Open Directory project (see below). HotBot launched in May 1996 as Wired Digital's entry into the search engine market. Lycos Trang 29/32 purchased Wired Digital in October 1998 and continues to run HotBot as a separate search service. IWon Backed by US television network CBS, iWon has a directory of web sites generated automatically by Inktomi, which also provides its more traditional crawler-based results. iWon gives away daily, weekly and monthly prizes in a marketing model unique among the major services. It launched in Fall 1999. Inktomi Originally, there was an Inktomi search engine at UC Berkeley. The creators then formed their own company with the same name and created a new Inktomi index, which was first used to power HotBot. Now the Inktomi index also powers several other services. All of them tap into the same index, though results may be slightly different. This is because Inktomi provides ways for its partners to use a common index yet distinguish themselves. There is no way to query the Inktomi index directly, as it is only made available through Inktomi's partners with whatever filters and ranking tweaks they may apply. LookSmart LookSmart is a human-compiled directory of web sites. In addition to being a stand-alone service, LookSmart provides directory results to MSN Search, Excite and many other partners. Inktomi provides LookSmart with search results when a search fails to find a match from among LookSmart's reviews. LookSmart launched independently in October 1996, was backed by Reader's Digest for about a year, and then company executives bought back control of the service. Lycos Lycos started out as a search engine, depending on listings that came from spidering the web. In April 1999, it shifted to a directory model similar to Yahoo. Its main listings come from the Open Directory project, and then secondary results come from the FAST Search engine. Some Direct Hit results are also used. In October 1998, Lycos acquired the competing HotBot search service, which continues to be run separately. MSN Search Microsoft's MSN Search service is a LookSmart-powered directory of web sites, with secondary results that come from Inktomi. RealNames and Direct Hit data is also made available. Netscape Search Netscape Search's results come primarily from the Open Directory and Trang 30/32 Netscape's own "Smart Browsing" database, which does an excellent job of listing "official" web sites. Secondary results come from Google. At the Netscape Netcenter portal site, other search engines are also featured. Northern Light Northern Light is another favorite search engine among researchers. It features a large index of the web, along with the ability to cluster documents by topic. Northern Light also has a set of "special collection" documents that are not readily accessible to search engine spiders. There are documents from thousands of sources, including newswires, magazines and databases. Searching these documents is free, but there is a charge of up to $4 to view them. There is no charge to view documents on the public web -- only for those within the special collection. Northern Light opened to general use in August 1997. Open Directory The Open Directory uses volunteer editors to catalog the web. Formerly known as NewHoo, it was launched in June 1998. It was acquired by Netscape in November 1998, and the company pledged that anyone would be able to use information from the directory through an open license arrangement. Netscape itself was the first licensee. Lycos and AOL Search also make heavy use of Open Directory data. RealNames The RealNames system is meant to be an easier-to-use alternative to the current web site addressing system. Those with RealNames-enabled browsers can enter a word like "Nike" to reach the Nike web site. To date, RealNames has had its biggest success through search engine partnerships. See the Using RealNames Links page for more information about RealNames. Yahoo Yahoo is the web's most popular search service and has a well-deserved reputation for helping people find information easily. The secret to Yahoo's success is human beings. It is the largest human-compiled guide to the web, employing about 150 editors in an effort to categorize the web. Yahoo has well over 1 million sites listed. Yahoo also supplements its results with those from Google (beginning in July 2000, when Google takes over from Inktomi). If a search fails to find a match within Yahoo's own listings, then matches from Google are displayed. Google matches also appear after all Yahoo matches have first been shown. Yahoo is the oldest major web site directory, having launched in late 1994. Trang 31/32 Chương. 7. Điều kiện ứng dụng thương mại điện tử Để ứng dụng có hiệu quả thương mại điện tử vào doanh nghiệp, cẩn phải xem xét một số điều kiện mang tính chất quyết định như sau: Môi trường kinh doanh phù hợp : Trình độ dân trí cao, các thói quen mua hàng có chuẩn mực, đông đo số lượng người mua và người bán có các điều kiện tham gia thương mại điện tử thuận lợi như có phương tiện truy cập Internet, kiến thức về tin học nói chung và Internet nói riêng... Môi trường pháp lý : Hệ thống các văn bản dưới luật điều chỉnh các hoạt động liên quan đến thương mại điện tử, Hệ thống chuẩn công nghiệp và thương mại quốc gia, Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quyền riêng tư. Hạ tầng cơ sở vật chất-kỹ thuật : Có một hệ thống thông tin và truyền thông hoạt động tốt, Có một hệ thống mạng cục bộ kết nối với Internet. Lãnh đạo doanh nghiệp: Ban Giám đốc doanh nghiệp phải am hiểu và giỏi về ứng dụng công nghệ thông tin và thạo ngoại ngữ, trước hết là tiếng Anh, tin tưởng và dám đầu tư lâu dài cho thương mại điện tử. Đồng thời họ là thủ lĩnh trong việc sử dụng và ứng dụng thương mại điện tử trong môi trường kinh doanh hiện đại. Loại hình doanh nghiệp: Do trình độ hiểu biết về ứng dụng công nghệ thông tin trong nền kinh tế của chúng ta còn hạn chế nên mô hình thương mại điện tử này chỉ có thể phát huy được hiệu quả khi nó được ứng dụng trong các doanh nghiệp có các điều kiện như sau : • Có số lượng sản phẩm/dịch vụ phong phú, đa dạng; • Đã có quá trình sử dụng công nghệ thông tin lâu dài ở trình độ cao; • Đã có hoặc có khả năng tập hợp được đội ngũ cán bộ thực hiện có chất lượng; • Có người lãnh đạo đóng vai trò tiên phong; • Có khả năng đầu tư một lần và đầu tư lâu dài cho việc ứng dụng mô hình thương mại điện tử. Tuy nhiên, một bộ phận các doanh nghiệp nhỏ nhưng lại có sản phẩm truyền thống độc đáo như thủ công - mỹ nghệ, các sản phẩm của các ngành nghề thủ công truyền thống sẽ khó có thể tham gia do không thể đầu tư nhiều tiền và lâu dài. Do đó một Hiệp hội hoặc một Công ty có kh năng cung cấp dịch vụ là một giải pháp tối ưu. Một Công ty có đủ các điều kiện trên có thể đứng ra tổ chức "Trung tâm thương mại ảo", "Chợ ảo" để các doanh nghiệp nhỏ, hộ cá thể Trang 32/32 ... cũng có thể tham gia trưng bày, giới thiệu các sản phẩm/dịch vụ của mình trên Internet với chi phí thấp và có nhu cầu cập nhật thông tin phục vụ kịp thời phản ứng của thị trường. Đội ngũ cán bộ triển khai: Có đủ trình độ nghiệp vụ để tiếp nhận và qun lý hệ thống thông tin trên Internet, đáp ứng yêu cầu tư vấn cho Lãnh đạo doanh nghiệp về phương án triển khai cụ thể đm bo phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, có kh năng tự đào tạo các kiến thức về mạng, ngôn ngữ HTML (Hypertext Markup Languague:ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bn), Internet, c sở dữ liệu trên Internet, có kh năng tập hợp các thông tin của doanh nghiệp và diễn đạt các thông tin một cách có khoa học trong c sở dữ liệu và trên trang web, ý thức được tầm quan trọng của bí mật thông tin trong doanh nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbaigiang_tmdt_lelinhluong_1633.pdf
Tài liệu liên quan