KẾT LUẬN
Nói tóm lại, khoa chuyên môn là những đơn vị
trung tâm của một trƣờng đại học, trong đó
giảng viên là nguồn tài sản quan trọng và quý
giá nhất. Văn hóa của khoa do chính giảng
viên tạo ra và duy trì. Nó sẽ có ảnh hƣởng tích
cực đến phong cách làm việc, hiệu quả công
việc và động cơ phấn đấu của chính họ nếu
nhƣ đó là nét văn hóa tốt. Trong nhà trƣờng, có
thể chất lƣợng giảng dạy chƣa cao, khả năng
nghiên cứu khoa học còn thấp, nhƣng việc
thiết lập mối quan hệ hợp tác trong giảng dạy
giữa các giảng viên để tạo thành một nét văn
hóa là điều tất yếu phải thực hiện.
Một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp tác tốt
chắc chắn sẽ tạo ra một môi trƣờng học thuật
lành mạnh và có sự thống nhất về chuẩn mực
văn hóa trong giao tiếp ứng xử hằng ngày.
Lúc đó hầu hết giảng viên sẽ mạnh dạn chia
sẻ ý tƣởng, kinh nghiệm của mình với đồng
nghiệp cũng nhƣ cấp trên. Đồng thời mạnh
dạn nhận xét, góp ý hay thậm chí là chỉ trích
về nhau một cách chân tình để cùng giúp
nhau tiến bộ, nâng cao chất lƣợng giáo dục
của khoa, cũng nhƣ hoàn thiện chính bản thân
họ. Khi tất cả các khoa đều có nét văn hóa
hợp tác trong giảng dạy, chắc hẳn nhà trƣờng
sẽ trở thành một effective learning
organisation và phát triển mạnh, vững chắc
trong thời đại của toàn cầu hóa và nền kinh tế
tri thức hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng văn hóa hợp tác trong giảng dạy ở cấp khoa của trường Đại học - Nguyễn Hữu Quý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 150
XÂY DỰNG VĂN HÓA HỢP TÁC TRONG GIẢNG DẠY Ở CẤP KHOA
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Nguyễn Hữu Quý*
Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Trong thời đại của toàn cầu hóa về giáo dục, các khoa của một trƣờng đại học cần phải trở thành
những tổ chức học tập hiệu quả. Vì vậy, việc xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp tác
chặt chẽ giữa các giảng viên để tạo thành một nét văn hóa hợp tác trong giảng dạy của khoa là một
trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển vững chắc của khoa nói riêng và nhà
trƣờng nói chung.
Bài báo nghiên cứu cơ sở lý thuyết của các tổ chức học tập mà ở đó mọi giảng viên có sự hỗ trợ
lẫn nhau rất hiệu quả trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục. Trên cơ sở đó, cùng với
việc khảo sát ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà Nẵng và một số trƣờng bạn, tác giả phân
tích sự cần thiết của một môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tốt và đƣa ra 5 yếu tố cơ bản không
thể thiếu nếu muốn xây dựng thành công nét văn hóa này tại khoa, cụ thể là: hợp tác tự nguyện và
cởi mở, sinh hoạt chuyên môn định kỳ, quản lý và giao tiếp hài hòa, có văn hóa đánh giá giảng
viên và đối xử bình đẳng giữa các thế hệ giảng viên.
Từ khóa: Tổ chức học tập, Văn hóa hợp tác, Hợp tác trong giảng dạy, Khoa của trường đại học,
Bình đẳng giữa các thế hệ
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các trƣờng đại học là nơi sản sinh và chuyển
tải tri thức cho ngƣời học. Việc nâng cao chất
lƣợng giáo dục nói chung và giáo dục đại học
nói riêng đang nhận đƣợc sự quan tâm rất lớn
của các nhà quản lý giáo dục, giảng viên, sinh
viên và toàn xã hội. Để tồn tại và phát triển bền
vững (sustainable development) trong môi
trƣờng toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức
hiện nay, các trƣờng đại học phải là những tổ
chức học tập (learning organisations), trong đó
các khoa và tập thể giảng viên trong khoa đóng
vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào sự lớn
mạnh của nhà trƣờng.
Để nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng
nghiên cứu khoa học nhằm theo kịp sự phát
triển của xã hội-khoa học và công nghệ, ngƣời
giảng viên đại học không những phải chủ động
trau dồi chuyên môn mà còn phải học tập suốt
đời (lifelong learning). Có nhiều kênh thông
tin để nâng cao trình độ nhƣ thông qua sách,
báo, tài liệu; phƣơng tiện thông tin đại chúng,
các khóa đào tạo bồi dƣỡng,nhƣng quan
trọng và hữu hiệu hơn cả là sự học hỏi, chia sẻ
kinh nghiệm lẫn nhau giữa các giảng viên
Tel: 0905.062.848; Email: nhquy@ac.udn.vn
trong cùng chuyên ngành, tổ bộ môn trong một
khoa theo phƣơng châm “học thầy không tày
học bạn”. Hay thậm chí là cần phải có sự hợp
tác theo chiều dọc tức là giữa giảng viên của
trƣờng đại học này với giảng viên của trƣờng
đại học khác, trong và ngoài nƣớc.
Theo ghi nhận của tác giả bằng cách quan sát
thực tế, trao đổi với đồng nghiệp ở các trƣờng
đại học và cao đẳng thành viên thuộc Đại học
Đà Nẵng cũng nhƣ các trƣờng bạn ở khu vực
miền Trung và Tây Nguyên, dƣới các khía
cạnh đặc trƣng cho một môi trƣờng làm việc
có tính hợp tác nhƣ: hoạt động giảng dạy và
nghiên cứu khoa học, sự tƣơng tác – trao đổi
chuyên môn giữa các giảng viên, sự chia sẻ
nguồn thông tin, cách thức điều hành của lãnh
đạo khoa, thì những yếu tố này đều đang tồn
tại ở các khoa của các trƣờng và hầu hết giảng
viên trong các cuộc trao đổi đều ý thức đƣợc
tầm quan trọng và sự cần thiết của một môi
trƣờng giảng dạy có tính hợp tác cao.
Tuy nhiên, tại Đại học Đà Nẵng, trong khi nét
văn hóa này đang tồn tại rất rõ nét tại một số
khoa có bề dày thành tích trong hoạt động
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, có đội ngũ
cán bộ giảng viên có tinh thần đoàn kết cao và
thƣờng xuyên hỗ trợ lẫn nhau rất tốt, nó vẫn
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 151
còn khá mờ nhạt ở rất nhiều khoa khác, thậm
chí còn có sự cạnh tranh lẫn nhau rõ rệt giữa
các thành viên trong những khoa này khiến
khoa không thể phát triển đƣợc bởi không có
sự đồng thuận và đồng tâm hiệp lực của tập
thể cán bộ giảng viên trong khoa.
Từ lý do đó, bài báo phân tích sự cần thiết
phải xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có
sự hợp tác tốt giữa các giảng viên trong khoa
nhằm đánh thức ý thức tự giác hợp tác của
giảng viên Đại học Đà Nẵng nói riêng và của
tất cả các cơ sở giáo dục đại học nói chung.
Sự phân tích dựa trên cơ sở lý thuyết của các
tổ chức học tập và số liệu khảo sát bằng phiếu
hỏi ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà
Nẵng và một số trƣờng bạn. Việc chọn mẫu
nghiên cứu đƣợc phân bố đồng đều giữa các
đối tƣợng, có sự khác nhau về độ tuổi, thâm
niên công tác, trình độ chuyên môn và chức
vụ trong khoa.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài
viết gồm có 5 phần:
1. Vai trò của khoa trong trƣờng đại học;
2. Xây dựng khoa trở thành một tổ chức học
tập hiệu quả;
3. Sự cần thiết phải có một môi trƣờng giảng
dạy có tính hợp tác tốt ở khoa;
4. Các yếu tố cơ bản cấu thành một môi
trƣờng giảng dạy có tính hợp tác ở cấp khoa
của trƣờng đại học;
5. Một số kiến nghị nhằm xây dựng nét văn
hóa này ở khoa.
VAI TRÕ CỦA KHOA TRONG TRƢỜNG
ĐẠI HỌC
Trong bất kỳ một trƣờng đại học công lập hay
dân lập, bộ máy quản lý hành chính bao gồm
Ban Giám hiệu và các phòng chức năng có vai
trò quan trọng nhƣng khoa - đơn vị trực tiếp
làm công tác chuyên môn, thực hiện các chức
năng không thể thay thế như thiết kế chương
trình đào tạo; xây dựng, phát triển và chỉnh
sửa giáo trình, giảng dạy và nghiên cứu khoa
học - lại có vai trò quyết định đối với sự phát
triển của nhà trƣờng bởi vì khoa là mái nhà của
mọi hoạt động chuyên môn nên nó giữ vai trò
nòng cốt trong một trƣờng đại học (Clark,
1987; Collie & Taylor, 2004). Nhƣ vậy có thể
nói rằng khoa là đơn vị trung tâm tạo ra mọi sự
thay đổi và cải tiến chất lƣợng đào tạo của nhà
trƣờng. Vì vậy, phƣơng hƣớng hoạt động của
khoa cần phải luôn phản ánh rõ vai trò, giá trị
và mục tiêu của nó trong nhà trƣờng nhằm
thực hiện sứ mệnh chung của nhà trƣờng.
Sự phát triển của một trƣờng đại học bắt
nguồn và phụ thuộc vào sự vững mạnh của
từng khoa. Khoa là đơn vị cấu thành nhà
trƣờng nhƣng đồng thời cũng là đơn vị hoạt
động độc lập với bộ máy quản lý riêng, gồm
có Ban chủ nhiệm khoa và các tổ trƣởng
chuyên môn, có nguồn ngân sách và đội ngũ
nhân sự riêng để hoạt động. Để khoa có thể
vững mạnh và đào tạo có chất lƣợng tốt, trƣớc
hết là tập thể cán bộ giảng viên trong khoa
phải đoàn kết tạo thành một thể thống nhất
trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy, việc xây
dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp
tác tốt giữa lãnh đạo khoa với tập thể giảng
viên, giữa các giảng viên với nhau hay giữa
các thế hệ giảng viên nhằm tạo nên nét văn
hóa mang tính chuyên nghiệp của khoa là
điều hết sức cần thiết hiện nay.
XÂY DỰNG KHOA TRỞ THÀNH MỘT TỔ
CHỨC HỌC TẬP HIỆU QUẢ
Ngày nay, các trƣờng đại học cần phải tự xem
mình nhƣ là những doanh nghiệp, tôn chỉ và
mục tiêu phát triển của nhà trƣờng phải đƣợc
xây dựng dựa trên nhu cầu xã hội và mong
đợi của sinh viên. Vì vậy, cần phải xây dựng
các khoa trở thành những tổ chức học tập hiệu
quả (effective learning organisations), nơi
mà mọi thành viên đều có cảm giác đƣợc kích
thích học tập, đƣợc chia sẻ và hỗ trợ
(collaboration and support), nơi mà mọi sáng
kiến đều đƣợc ghi nhận và đánh giá cao
(innovation is encouraged and valued). Để
làm đƣợc điều này thì phƣơng thức hoạt động
và điều hành của ban lãnh đạo khoa phải luôn
chú trọng đến 4 yếu tố cơ bản của mô hình
Balanced Scorecard: i) sinh viên, ii) tài chính,
iii) quy trình nội bộ và iv) không ngừng học
tập (Nguyễn, 2010), đặc biệt nhấn mạnh đến
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 152
yếu tố cuối cùng nhằm mang lại những lợi ích
cao nhất cho sinh viên.
Một khoa đƣợc gọi là an effective learning
organisation khi mọi thành viên trong khoa đều
có ý thức tự giác học tập và học tập có chiến
thuật (learns intentionally and strategically)
(Nevis et al., 1995). Việc học tập có thể là tự
học hoặc học hỏi lẫn nhau thông qua các hoạt
động giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm và sáng
kiến, chuyển giao tri thức, v.v Sự phát triển
của mỗi cá nhân đóng góp vào sự lớn mạnh
chung của nhà trƣờng. Muốn nhƣ vậy, lãnh đạo
khoa cần phải luôn: a) kích thích tƣ duy sáng
tạo và tinh thần học tập không ngừng của mọi
giảng viên, đặc biệt là những giảng viên trẻ vừa
mới đƣợc tuyển dụng về khoa; b) tạo môi
trƣờng thuận lợi cho việc giảng dạy và nghiên
cứu khoa học, ví dụ nhƣ tạo điều kiện về thời
gian lẫn vật chất cho giảng viên đi học sau đại
học, đặc biệt là những ngƣời đi học bằng nguồn
kinh phí tự túc do chƣa đủ trình độ để xin học
bổng đi học ở nƣớc ngoài, mở rộng hợp tác
quốc tế để tìm các nguồn học bổng gửi giảng
viên đi đào tạo tại nƣớc ngoài; c) kích thích
giảng viên có những phản hồi tích cực về tất cả
các vấn đề chuyên môn của đồng nghiệp hay
của khoa (tức là nâng cao khả năng phê bình và
tự phê bình, thẳn thắn nhìn rõ sự thật) nhằm
nâng cao chất lƣợng dạy - học đại học. Khi các
yếu tố trên đƣợc thỏa mãn, chắc chắn giảng viên
sẽ cảm thấy thoải mái trong quá trình giảng dạy
và giao tiếp, nâng cao hiệu quả hợp tác.
SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT MÔI TRƢỜNG
GIẢNG DẠY CÓ TÍNH HỢP TÁC ĐỂ TẠO
THÀNH NÉT VĂN HÓA CỦA KHOA
Khi nghĩ đến việc xây dựng khoa trở thành
một tổ chức mà ở đó các thành viên tích cực
hỗ trợ lẫn nhau, tức là chúng ta đang nhắm
đến việc xây dựng nét văn hóa hợp tác trong
giảng dạy ở khoa bên cạnh các nét văn hóa
khác nhƣ văn hóa giao tiếp, văn hóa đánh giá,
văn hóa ăn mặc.
Bất kỳ một hoạt động đặc trƣng nào đƣợc lặp
đi lặp lại nhiều lần thì sẽ tạo thành nét văn hóa
cho ngƣời hay nhóm ngƣời thực hiện nó. Có
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tuy
nhiên theo UNESCO: “Văn hóa là tập hợp của
những đặc trƣng về tâm hồn, vật chất, tri thức
và xúc cảm của một xã hội hay nhóm ngƣời
trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học
và nghệ thuật, cả cách sống, phƣơng thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và
đức tin” (UNESCO, 2002). Nhƣ vậy có thể
nói, văn hóa là yếu tố đƣợc sinh ra khi một
nhóm ngƣời tập hợp lại trong một môi trƣờng
cụ thể, để làm việc vì những mục đích nào đó.
Do đó, mỗi cơ quan đều có nét văn hóa của
riêng mình và nó tạo thành văn hóa công sở.
Văn hóa công sở có thể hiểu là những giá trị,
niềm tin, sự hiểu biết chung của mọi ngƣời về
môi trƣờng làm việc của mình và lề lối làm
việc của họ. Nó đƣợc hình thành bởi những
ngƣời làm việc trong chính môi trƣờng đó và
luôn đƣợc xem là tài sản vô hình rất có giá trị
của một tổ chức.
Khi nói đến văn hóa hợp tác ở công sở, chúng
ta không thể không nhớ đến tƣ tƣởng về đại
đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”. Từ lời dạy
của Bác, chúng ta có thể suy rộng ra rằng
trong xu hƣớng hội nhập quốc tế về giáo dục
và đào tạo nhƣ hiện nay, mặc dù các giảng
viên đại học vẫn có thể tự làm một số công
việc nhƣng nhìn chung thì họ không thể tự
mình giải quyết mọi công việc với kết quả cao
đƣợc nếu thiếu sự hợp tác với đồng nghiệp.
Bởi vì khi có sự đoàn kết, hợp tác và chia sẻ
trong công việc thì mới thúc đẩy tƣ duy sáng
tạo và trí tuệ của mọi cá nhân, từ đó chất
lƣợng giảng dạy và nghiên cứu khoa học mới
đƣợc nâng lên.
Ở các nƣớc có nền giáo dục tiên tiến nhƣ
Anh, Öc, Hoa Kỳ, sự hợp tác trong giảng dạy
giữa các giảng viên còn đƣợc thể hiện qua mô
hình giảng dạy „Cooperative teaching model‟
tức là hai hay ba giảng viên có cùng sở thích
khoa học (teaching and research interests)
cùng dạy chung một lớp (tất cả đều là giảng
viên chính, có trách nhiệm và quyền hạn
ngang nhau, chứ không phải là giảng viên
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 153
chính và trợ giảng (tutor)). Khi tham gia vào
mô hình giảng dạy này, các giảng viên thực
sự tin tƣởng lẫn nhau (trust) và có niềm tin
rằng mô hình giảng dạy chung sẽ mang lại kết
quả tốt. Những giảng viên này sắp xếp thời
gian để làm việc cùng nhau hằng ngày một
cách cởi mở và tôn trọng lẫn nhau nhƣng
cũng sẵn sàng chỉ trích lẫn nhau (play off),
tuy nhiên đây là sự chỉ trích có tính hợp tác để
giúp nhau cùng tiến bộ. Mô hình này không
những mang lại lợi ích cho giảng viên mà đặc
biệt là cho sinh viên bởi vì họ lĩnh hội đƣợc
một khối lƣợng kiến thức nhiều hơn, đa dạng
hơn và quý giá hơn từ nhóm giảng viên (bản
thân tác giả đã đƣợc trải nghiệm mô hình
giảng dạy này trong thời gian học tập tại Đại
học Queensland, Öc).
Nếu không có sự hợp tác tốt trong giảng dạy,
chắc chắn mức độ thành công trên bục giảng
của mỗi giảng viên sẽ bị giới hạn ở mức thấp.
Trong một số trƣờng hợp, sự bất hợp tác còn
dẫn đến việc giảng viên thiếu tôn trọng lẫn
nhau, chỉ trích nhau, cạnh tranh không lành
mạnh lẫn nhau ngay trong khoa hay trƣớc mặt
sinh viên. Điều này sẽ tạo nên hình ảnh không
tốt ở môi trƣờng học đƣờng. Do vậy, phần thứ
tƣ sau đây sẽ trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào
để xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính
hợp tác tốt ở cấp khoa của các trƣờng đại học?
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CẤU THÀNH MỘT
MÔI TRƢỜNG GIẢNG DẠY CÓ TÍNH
HỢP TÁC TỐT Ở CẤP KHOA CỦA
TRƢỜNG ĐẠI HỌC
Một khoa đƣợc xem là có văn hóa hợp tác trong
giảng dạy (a supportive culture of teaching) khi
nó luôn thúc đẩy tất cả các cá nhân hay nhóm
giảng viên phát triển dựa trên tinh thần hợp tác,
cởi mở, chia sẻ, bình đẳng và trung thực. Đồng
thời phải có sự cảm thông, khoan dung cho mọi
rủi ro, sai lầm nếu có (risk tolerance). Dựa trên
cơ sở lý thuyết của các effective learning
organisations và kết quả khảo sát ý kiến của 40
giảng viên, tác giả đề xuất năm yếu tố cơ bản
cấu thành một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp
tác tốt ở khoa. Mặc dù những số liệu khảo sát
đƣợc có độ tin cậy và chính xác tuy nhiên chỉ
có tính tham khảo cho bài viết. Trong phạm vi
nghiên cứu nhỏ, tác giả không có chủ ý đánh
giá tổng thể môi trƣờng giảng dạy của tất cả
các cơ sở giáo dục.
Hợp tác tự nguyện và cởi mở
Hầu hết các nhà quản lý giáo dục đều ghi
nhận giá trị của phƣơng thức làm việc theo
nhóm (team-work) và tầm quan trọng của một
môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tích cực
giữa các giảng viên trong cùng khoa và (hoặc)
cùng trƣờng. Nhƣng theo cảm nhận trực quan
của tác giả, có một thực tế đang diễn ra hiện
nay tại các trƣờng đại học nói riêng hay nói
rộng ra là tại các cơ quan, tổ chức ở Việt Nam
nói chung là thay vì chia sẻ ý kiến, kinh
nghiệm, tài liệu và bí quyết của mình cho
đồng nghiệp một cách cởi mở để đôi bên cùng
có lợi, thì vẫn có một số đông ngƣời muốn
tích luỹ kiến thức cho riêng mình và hạn chế
giao lƣu với đồng nghiệp càng ít càng tốt hay
nói rõ ra là những ngƣời này không muốn
chia sẻ với đồng nghiệp những gì họ có bởi ở
đâu đó vẫn còn tồn tại tâm lý cạnh tranh, hơn
thua vì quyền lợi. Đây là một thực tế không
thể phủ nhận đƣợc, nhƣng cũng không dễ để
xóa bỏ bởi nó đƣợc tạo nên và ràng buộc bởi
nhiều yếu tố văn hóa từ xƣa đến nay.
Thật vậy, chỉ có 6/40 (15%) giảng viên tham
gia cuộc khảo sát cho biết họ thƣờng xuyên
chia sẻ thông tin, tài liệu hay và mới mà họ có
đƣợc cho đồng nghiệp, 37,5% giảng viên cho
biết chỉ thỉnh thoảng mới chia sẻ và số ngƣời
rất ít khi chia sẻ chiếm 27,5%. Điều đáng lƣu
ý là vẫn còn tới 20% giảng viên chƣa bao giờ
chia sẻ bất cứ thứ gì với đồng nghiệp của
mình. Nhƣ vậy, có thể nhận thấy rằng vẫn
đang tồn tại một khoảng cách khá xa giữa
những tuyên bố hợp tác cởi mở, tƣơng thân
tƣơng ái và một thực tế cạnh tranh trong nhà
trƣờng. Khoảng cách này có thể lớn, có thể bé
tùy vào hoàn cảnh cụ thể và khác nhau của
từng khoa, từng trƣờng.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện
nay, đòi hỏi ngƣời giảng viên phải là những
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 154
nhà khoa học thực thụ, nhất thiết cần phải có
một mạng lƣới kết nối các giảng viên cùng
chuyên ngành, sở thích để chia sẻ thông tin và
trao đổi chuyên môn. 31/40 (77,5%) giảng
viên nghĩ rằng cần thiết phải có sự chia sẻ
trong giảng dạy; tạo dựng cho đƣợc không khí
làm việc cởi mở, trung thực và khoan dung
khi cộng tác với nhau trên tinh thần đôi bên
cùng có lợi để nuôi dƣỡng niềm đam mê
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra,
sự nhiệt tình hỗ trợ và chia sẻ từ Ban chủ
nhiệm khoa, Trƣởng bộ môn cũng không kém
phần quan trọng (29/40).
Nhƣ vậy, chúng ta thấy có sự tƣơng đồng
giữa số giảng viên cho rằng cần phải hợp tác
trong giảng dạy (77,5%) và số giảng viên đã
từng chia sẻ tài liệu cho đồng nghiệp dù
thƣờng xuyên hay ít khi (80%).
Sinh hoạt chuyên môn thường xuyên
Theo Austin & Baldwin (1991), có 3 lợi ích
khi giảng viên trong khoa thƣờng xuyên
tƣơng tác với nhau: i) nâng cao năng lực
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, ii) kích
thích sự phát triển trí tuệ và tƣ duy sáng tạo
và iii) giảm sự cô lập - tách rời theo các
phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. Đồng ý
với Austin & Baldwin, Massy et al. (1994)
cho rằng sự tƣơng tác thƣờng xuyên sẽ là
nhân tố tích cực, hỗ trợ cho việc giảng dạy đạt
hiệu quả cao hơn.
Minh chứng cho các nhận định trên, 45%
giảng viên trả lời “đồng ý” đối với câu hỏi:
“Anh (chị) có cho rằng mọi giảng viên cần
phải tƣơng tác, gặp gỡ nhau thƣờng xuyên tại
khoa để trao đổi về vấn đề chuyên môn hay
không?” và 22,5% giảng viên lựa chọn
phƣơng án trả lời “rất đồng ý”. Tuy nhiên, kết
quả khảo sát thực tế lại không ghi nhận sự
thƣờng xuyên của các buổi sinh hoạt tổ
chuyên môn định kỳ tại khoa. Chỉ có 12,5%
giảng viên cho biết họ sinh hoạt tổ chuyên
môn 1 lần / 1 tuần, 22,5% giảng viên họp tổ
chuyên môn 1 lần / 1 tháng.
Điều đáng ngạc nhiên là có đến 27,5% giảng
viên cho biết chỉ sinh hoạt tổ chuyên môn 1
lần / 1 học kỳ do không có thời gian để tập
hợp tất cả các thành viên lại. Đây là một tỉ lệ
khá thấp, tuy nhiên cũng do một thực tế hiện
nay là tỉ lệ sinh viên trên giảng viên (SV/GV)
ở các trƣờng đại học Việt Nam còn khá cao,
cho nên hầu hết giảng viên phải dạy quá tải,
không có nhiều thời gian gặp nhau ở khoa hay
sinh hoạt chuyên môn. Theo Đại diện của 280
trƣờng đại học, cao đẳng trong cả nƣớc tham
dự hội thảo "Đánh giá - xếp hạng các trƣờng
đại học và cao đẳng" đƣợc tổ chức tại thành
phố Huế vào ngày 16/4/2010, tỷ lệ trung bình
SV/GV của 376 trƣờng đại học, cao đẳng
trong cả nƣớc là 28 SV/1 GV, trong khi tỉ lệ
quy định trung bình chung của Bộ Giáo dục
và Đào tạo cho tất cả các ngành là 20 SV/1
GV (Thanh Niên Online, 2010), còn tỉ lệ cụ
thể cho từng nhóm ngành Khoa học Kỹ thuật-
Công nghệ, Khoa học Xã hội, Y dƣợc và
Nghệ thuật thì khác nhau.
Quản lý và giao tiếp cởi mở
Để tạo đƣợc một môi trƣờng làm việc thân
thiện nhất thiết tất cả giảng viên phải đƣợc
tham gia vào quá trình quản lý khoa tức là cá
nhân từng giảng viên và các tổ chuyên môn
đều phải đƣợc tham khảo ý kiến trƣớc khi khoa
có một chủ trƣơng, quyết định gì đó. Đồng
thời, mọi ý kiến đóng góp của họ, bất kể tuổi
tác - thâm niên công tác - học hàm - học vị,
đều phải đƣợc tôn trọng và cân nhắc. Nếu có
cơ hội đƣợc tham gia vào những hoạt động
nhƣ thế, chắc chắn giảng viên sẽ cảm thấy
tiếng nói của họ có giá trị và khoa là ngôi nhà
thứ hai của chính họ (ownership), khi đó họ sẽ
hết sức hợp tác với nhau, với ban chủ nhiệm
khoa để xây dựng khoa ngày càng vững mạnh.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy chỉ có
37,5% giảng viên có cảm giác ownership đối
với khoa, 30% giảng viên cảm thấy không có
cảm giác đó và 32,5% giảng viên còn lại thể
hiện thái độ bàng quan bằng cách trả lời
“không có ý kiến” khi đƣợc hỏi “Anh (chị) có
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 155
cảm thấy khoa nhƣ là ngôi nhà thứ hai của
mình không?”.
Để giải quyết vấn đề trên, 65% giảng viên tin
rằng điều này phụ thuộc vào phong cách làm
việc và sự cởi mở trong cách điều hành của
ban chủ nhiệm khoa, đặc biệt là Trƣởng khoa.
Một số liệu đáng chú ý và không kém phần thú
vị là có đến 62,5% giảng viên đồng ý hoặc rất
đồng ý rằng uy tín về học thuật, phong cách
làm việc của Trƣởng khoa có ảnh hƣởng rất
lớn đến thái độ làm việc của tập thể giảng viên
đặc biệt là những giảng viên trẻ mới đƣợc
tuyển dụng về khoa, trong khi chỉ 20% giảng
viên chƣa ý thức tầm quan trọng của yếu tố
này. Số liệu khảo sát phù hợp với quan điểm
cho rằng cần phải lựa chọn những ngƣời có
tinh thần hỗ trợ nhân viên và làm việc hiệu quả
vào ban lãnh đạo khoa bởi vì họ nhƣ là những
đầu tàu trong việc huy động sức mạnh tập thể
của toàn bộ giảng viên (Lucas, 1994).
Ngoài ra, uy tín khoa học và phong cách làm
việc của những giảng viên đầu đàn trong khoa
nhƣ các giáo sƣ / phó giáo sƣ, tiến sĩ, giảng
viên chính, tổ trƣởng bộ môn, cũng rất là quan
trọng. Trong đó, đáng chú ý là những giảng
viên có làm công tác hƣớng dẫn tập sự cho
giảng viên trẻ. Tại Hoa Kỳ, các trƣờng học có
chƣơng trình huấn luyện giảng viên trẻ rất
chuyên nghiệp, trong đó chỉ những giảng viên
có uy tín cao về học thuật lẫn kinh nghiệm
sống mới đƣợc chọn lựa để hƣớng dẫn tập sự
cho giảng viên trẻ vì những ngƣời này không
chỉ truyền đạt kinh nghiệm giảng dạy mà còn
hỗ trợ về mặt tâm lý cho các giảng viên trẻ
(Ferguson & Johnson, 2010). Thật vậy, 22/40
giảng viên đƣợc khảo sát cũng xem trọng vai
trò của giáo viên hƣớng dẫn tập sự và tin rằng
tính cách, phong cách làm việc của họ sẽ có
ảnh hƣởng rất lớn đến phong cách và lề lối làm
việc của giảng viên trẻ sau này.
Có văn hóa đánh giá giảng viên
Đánh giá giảng viên là một trong những hoạt
động quan trọng và là thƣớc đo chủ đạo trong
việc đánh giá hiệu quả giảng dạy của giảng
viên nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục. Có
nhiều nguồn đánh giá khác nhau nhƣng bài
viết chỉ đề cập đến việc giảng viên đánh giá
giảng viên trong văn hóa hợp tác ở khoa. Hoạt
động đánh giá giảng viên không phải là mới
mẽ đối với các nƣớc có nền giáo dục tiên tiến
nhƣ Hoa Kỳ, Anh, Öc tuy nhiên còn khá xa lạ
với nền giáo dục của Việt Nam chúng ta. Hiện
nay, ở các trƣờng vẫn đang tồn tại hình thức
đánh giá nhƣ dự giờ định kỳ, thao giảng để thi
giảng viên giỏi hay để đăng ký thi đua nhƣng
nhìn chung là những hoạt động này vẫn còn
mang tính hình thức. 33/40 giảng viên cho
rằng đánh giá của đồng nghiệp là thực sự cần
thiết và có hiệu quả tốt, nhƣng vẫn còn nhiều
hạn chế trong quá trình triển khai hiện nay.
Điều đó cho thấy nền giáo dục của chúng ta
chƣa thực sự có văn hóa đánh giá và chƣa có
văn hóa hợp tác tốt. Theo khảo sát của Massy
et al. (1994), những khoa thƣờng xuyên coi
trọng chất lƣợng giảng dạy và có sự hợp tác
tốt giữa các giảng viên đều là những đơn vị có
truyền thống tốt về hoạt động đánh giá giảng
viên, luôn xem trọng ý kiến đánh giá của
đồng nghiệp, của trƣởng khoa, của các nhà tƣ
vấn giáo dục và của chính sinh viên. Họ luôn
xem đó nhƣ là những lời nhận xét mang tính
hợp tác để mọi ngƣời cùng hoàn thiện bản
thân mình hơn chứ hoàn toàn không mang
tính chất cạnh tranh. Đây là những nguồn
thông tin phản hồi cực kỳ quan trọng đối với
những giảng viên có tinh thần cầu tiến, nhất là
đối với giảng viên trẻ.
Quan hệ bình đẳng giữa các thế hệ giảng viên
Nhƣ chúng ta thấy, trong số nhiều di sản tƣ
tƣởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại, tƣ
tƣởng về bình đẳng dân tộc có ý nghĩa giá trị
nhân văn sâu sắc, đặt nền móng cho việc củng
cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Liên
hệ đến môi trƣờng học đƣờng, cần khuyến
khích phƣơng pháp làm việc theo nhóm,
nhƣng để công việc của nhóm đạt hiệu quả
cao thì cần phải có sự bình đẳng giữa các thế
hệ giảng viên. Điều này có nghĩa là mọi
ngƣời cần phải học cách tôn trọng phẩm giá,
năng lực, ý kiến của đồng nghiệp và làm việc
cùng nhau với tinh thần trách nhiệm cao.
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 156
Kết quả khảo sát cho thấy, khi làm việc theo
nhóm, sinh hoạt chuyên môn theo tổ, 32,5%
cho rằng ý kiến kết luận cuối cùng thƣờng
thuộc về những giảng viên có ý kiến hay,
sáng kiến tốt bất kể họ là ai. Đây là một tín
hiệu vui về sự bình đẳng trong giao tiếp tại
các khoa, tuy nhiên vẫn còn 27,5% cho rằng ý
kiến của Trƣởng khoa, Trƣởng bộ môn luôn
luôn đƣợc coi trọng, cho dù đôi khi nó chƣa
đƣợc thấu đáo; tiếp theo là ý kiến của giảng
viên có nhiều kinh nghiệm (20%) và 20% còn
lại chia đều cho 2 đối tƣợng là giảng viên lớn
tuổi và ngƣời có học vị cao.
Ở một khía cạnh khác, trong các buổi sinh
hoạt chuyên môn, nếu chƣa hài lòng về đồng
nghiệp (là những ngƣời trẻ tuổi, ít kinh
nghiệm hơn) thì các giảng viên lớn tuổi-có
nhiều kinh nghiệm nên nhã nhặn chia sẻ,
hƣớng dẫn chứ không nên gay gắt hay tỏ thái
độ ngay trong cuộc họp. Ngoài ra, không nên
hạ thấp uy tín, năng lực của đồng nghiệp
trƣớc sinh viên (ví dụ nhƣ phủ nhận thẳng
thừng những thông tin mà giảng viên nào đó
đã cung cấp cho sinh viên trong thời gian
trƣớc). Trên đây là hai điều tối kỵ vì sẽ gây
ảnh hƣởng đến uy tín của giảng viên và phá
vỡ sự hợp tác cần thiết trong nội bộ khoa.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Để thực hiện tốt đƣợc năm yếu tố cơ bản nêu
trên, nhà trƣờng nói chung và khoa nói riêng
cần phải luôn quan tâm đến các vấn đề sau đây:
1. Giảm tải giờ lên lớp để giảng viên có thời
gian trao đổi chuyên môn, nghiên cứu khoa
học và tƣ vấn học tập cho sinh viên. Hoạt
động tƣ vấn học tập cho sinh viên cũng là một
trong những hoạt động cơ bản, có tính bắt
buộc đối với giảng viên ở các nƣớc phát triển.
2. Có chế độ khen thƣởng hợp lý và kịp thời
đối với những giảng viên có thành tích giảng
dạy và nghiên cứu khoa học, có tinh thần hợp
tác và chia sẻ với đồng nghiệp (có thể thực
hiện bằng cách bình chọn hằng tháng). Khi
nhận đƣợc sự động viên kịp thời thì những
giảng viên này càng tích cực xây dựng một
môi trƣờng giảng dạy có tính hợp tác hơn
nhằm tạo thành nét văn hóa đặc trƣng trong
môi trƣờng học đƣờng.
3. Tạo cơ hội để giảng viên của các khoa có
sự giao lƣu với nhau (không chỉ liên quan đến
chuyên môn mà tất cả những vấn đề khác
trong cuộc sống) bởi vì hợp tác là nhân tố
thúc đẩy sự sáng tạo, sự tin tƣởng lẫn nhau
giữa các thành viên.
4. Trong quá trình sinh hoạt chuyên môn,
mọi ngƣời cần phải biết lắng nghe, thấu hiểu
và chia sẻ lẫn nhau. Sự hợp tác sẽ có hiệu quả
nhất khi các bên cùng hƣớng tới việc xây
dựng một mối quan hệ tự nguyện, mọi ngƣời
đều có kĩ năng lắng nghe một cách tích cực.
Và đặc biệt là tổ trƣởng bộ môn hay trƣởng
khoa phải là ngƣời thực sự có vai trò quan
trọng trong tổ chức.
5. Chỉ tuyển dụng những ứng viên có tinh
thần hợp tác, có khả năng làm việc theo nhóm,
có khả năng nghiên cứu khoa học một cách
độc lập, có kỹ năng giải quyết vấn đề, sẵn sàng
chia sẻ kiến thức với đồng nghiệp vào làm
giảng viên của trƣờng. Không khuyến khích
tuyển dụng những ngƣời theo chủ nghĩa cá
nhân và có tâm lý cạnh tranh, hơn thua. Để
phát hiện đƣợc những tố chất này, hội đồng
tuyển dụng của các trƣờng hoàn toàn có thể
làm đƣợc bằng cách đặt các câu hỏi liên quan
đến kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng giải
quyết vấn đề, động lực và tham vọng của các
ứng viên trong quá trình phỏng vấn.
6. Đối với những giảng viên đang trong thời
gian tập sự, khoa cần chọn lựa kỹ và cử những
giảng viên có tinh thần hợp tác tốt, sống hoà
nhã, có khả năng làm việc theo nhóm, có khả
năng nghiên cứu khoa học tốt, hƣớng dẫn tập
sự cho những giảng viên trẻ bởi vì đây là yếu
tố rất quan trọng. Một giáo viên hƣớng dẫn tập
sự thân thiết sẽ dễ dàng giúp giảng viên trẻ tạo
lập quan hệ với đồng nghiệp, đồng thời họ
cũng là ngƣời làm cầu nối cho sự hợp tác, cộng
tác và phát triển của giảng viên trẻ sau này.
Trong nhiều tình huống, những đặc tính tốt của
ngƣời giáo viên hƣớng dẫn sẽ ảnh hƣởng và có
hiệu quả tích cực đến giảng viên trẻ. Muốn
ngƣời mới có tinh thần hợp tác trong công
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 157
việc, hãy chắc chắn rằng ngƣời hƣớng dẫn
cũng có đƣợc tinh thần đó.
7. Ban chủ nhiệm các khoa không nên quá coi
trọng sự thành công của bất kỳ một cá nhân
nào, cho dù ngƣời đó là ai, vì điều này sẽ làm
ảnh hƣởng đến mối quan hệ giữa các đồng
nghiệp. Muốn quá trình quản lý hƣớng tới việc
thúc đẩy sự hợp tác, bản thân nó phải mang
tính hợp tác và đƣợc đánh giá bằng cách ứng
xử mang tính hợp tác. Tức là mọi ngƣời trong
khoa đều có vai trò nhƣ nhau, bình đẳng nhƣ
nhau trong quá trình thảo luận, làm việc,
không dựa trên ý kiến chủ quan hay địa vị của
một cá nhân nào để áp đặt lên tập thể trong quá
trình làm việc theo nhóm. Tức là thay vì những
cuộc thảo luận mang tính cấp trên - cấp dƣới,
giữa giảng viên lớn tuổi và giảng viên trẻ,
chúng ta hãy khuyến khích việc thảo luận
mang tính hợp tác và bình đẳng. Dần dần,
những thói quen làm việc này dễ khắc sâu và
tạo thành văn hóa hợp tác của khoa.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, khoa chuyên môn là những đơn vị
trung tâm của một trƣờng đại học, trong đó
giảng viên là nguồn tài sản quan trọng và quý
giá nhất. Văn hóa của khoa do chính giảng
viên tạo ra và duy trì. Nó sẽ có ảnh hƣởng tích
cực đến phong cách làm việc, hiệu quả công
việc và động cơ phấn đấu của chính họ nếu
nhƣ đó là nét văn hóa tốt. Trong nhà trƣờng, có
thể chất lƣợng giảng dạy chƣa cao, khả năng
nghiên cứu khoa học còn thấp, nhƣng việc
thiết lập mối quan hệ hợp tác trong giảng dạy
giữa các giảng viên để tạo thành một nét văn
hóa là điều tất yếu phải thực hiện.
Một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp tác tốt
chắc chắn sẽ tạo ra một môi trƣờng học thuật
lành mạnh và có sự thống nhất về chuẩn mực
văn hóa trong giao tiếp ứng xử hằng ngày.
Lúc đó hầu hết giảng viên sẽ mạnh dạn chia
sẻ ý tƣởng, kinh nghiệm của mình với đồng
nghiệp cũng nhƣ cấp trên. Đồng thời mạnh
dạn nhận xét, góp ý hay thậm chí là chỉ trích
về nhau một cách chân tình để cùng giúp
nhau tiến bộ, nâng cao chất lƣợng giáo dục
của khoa, cũng nhƣ hoàn thiện chính bản thân
họ. Khi tất cả các khoa đều có nét văn hóa
hợp tác trong giảng dạy, chắc hẳn nhà trƣờng
sẽ trở thành một effective learning
organisation và phát triển mạnh, vững chắc
trong thời đại của toàn cầu hóa và nền kinh tế
tri thức hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Austin, A. E. & Baldwin, R. G. (1991).
Faculty Collaboration: Enhancing the Quality of
Scholarship and Teaching. ASHE-ERIC Higher
Education Report no. 7. Washington, D.C.: School
of Education and Human Development, George
Washington University.
[2]. Clark, B. R. (1987). The Academic Life:
Small Worlds, Different Worlds. Princeton:
Carnegie.
[3]. Collie, S. L. & Taylor, A. L. (2004).
Improving teaching quality and the learning
organisation. Tertiary Education and Management,
số 10, tr.139-155.
[4]. Ferguson, C. J. & Johnson, L. (2010).
Building Supportive and Friendly School
Environments: Voices from Beginning Teachers.
Childhood Education, số 86 (5), tr. 302-306.
[5]. Lucas, A. F. (1994). Strengthening
Departmental Leadership: A Team-Building
Guide for Chairs in Colleges and Universities.
San Francisco:Jossey-Bass.
[6]. Massy, W. F., Wilger, A. K. & Colbeck, C.
(1994). Overcoming „Hollowed‟ Collegiality.
Change, số 26 (4), tr.11–20.
[7]. Nevis, E. C., Dibella, A. J. & Gould, J. M.
(1995). Understanding Organisations as Learning
Systems. Sloan Management Review, tr. 73-85.
[8]. Nguyễn, H. Q. (2010). Áp dụng mô hình
Balanced Scorecard trong việc quản lý trƣờng đại
học. Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà
Nẵng, số 37, tr.116-123
[9]. UNESCO (2002). Universal Declaration on
Cultural Diversity.
rsal_decla.shtm.
[10]. Thanh Niên Online (2010). Tỉ lệ sinh viên
trên giảng viên còn cao.
6/20100418231746.aspx.
Nguyễn Hữu Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 150 - 158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 158
ABSTRACT
BUILIDING A SUPPORTIVE CULTURE OF TEACHING AT FACULTY OF THE
UNIVERSITY
Nguyen Huu Quy
Da Nang University
Nowadays, in the time of globalization in education, every university‟s department should become the
effective learning organizations. Therefor, building a cooperative teaching environment to create a
supportive culture of teaching at each department is one of the most crucial elements contributing
significantly to the departments‟ and university‟s sustainable development.
This article studies theoretical frameworks of learning organizations where lecturers cooperate and work
together effectively to improve education quality. Based on the above theoretical foundation and data
collected from a questionnaire investigation of 40 lecturers who are teaching at the University of Danang
and some others, the author wants to analyze the necessity of a cooperative teaching climate and give out
five important factors creating a supportive culture of teaching within a department, such as: cooperating
voluntarily and friendly, having regular meetings at department, managing and communicating
harmoniously, having a culture of peer evaluation of teaching and behaving equally between generations of
lecturer.
Key words: learning organisations, supportive culture, cooperative teaching, university department,
generation equity
Tel: 0905.062.848; Email: nhquy@ac.udn.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32739_36581_218201294159150158_2628_2052654.pdf