Học sinh 3. Học sinh đã xây dựng một mô hình toán phù hợp với tình huống, giải bài
toán đúng và chuyển kết quả toán sang kết quả thực tế hợp lý, tuy nhiên không thấy thể
hiện bước phản ánh. Do đó các năng lực giao tiếp với toán học; sử dụng kí hiệu, thuật14 NGUYỄN THỊ TÂN AN
ngữ toán học và thực hiện các phép toán; biểu diễn và giải quyết vấn đề đạt mức tối đa
là 9. Năng lực phân tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận chỉ đạt mức độ 6.
Hình 3. Bài làm của học sinh 3
6. KẾT LUẬN
Hiểu biết định lượng là khả năng sử dụng kiến thức và kĩ năng toán một cách hiệu quả
trong nhiều tình huống thực tế chứa đựng yếu tố định lượng. Việc sử dụng các tình
huống như vậy qua thời gian dài, liên tục trong điều kiện lớp học bình thường sẽ cho
phép quan sát sự phát triển các năng lực HBĐL của học sinh (Kaiser, 2006). Do đó,
chúng tôi hy vọng rằng với việc tạo ra thang đánh giá các năng lực HBĐL sẽ cung cấp
một công cụ để đánh giá và phát triển các năng lực này của học sinh thông qua giải
quyết các tình huống toán học hóa.
11 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng thang đánh giá năng lực hiểu biết định lượng của học sinh khi giải quyết tình huống toán học hóa - Nguyễn Thị Tân An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(29)/2014: tr. 5-15
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG
CỦA HỌC SINH KHI GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG TOÁN HỌC HÓA
NGUYỄN THỊ TÂN AN
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Bài báo đề cập đến sáu năng lực hiểu biết định lượng theo quan
điểm của Niss (2003) và Turner (2011), gồm giao tiếp với toán học, phân
tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận, sử dụng kí hiệu thuật ngữ toán
học và thực hiện các phép toán, biểu diễn, giải quyết vấn đề. Các năng lực
này có thể được đánh giá riêng lẻ, nhưng qua phân tích các hoạt động của
quá trình toán học hóa, chúng tôi nhận thấy các tình huống toán học hóa
chứa đựng yếu tố định lượng đòi hỏi học sinh phải phối hợp cả 6 năng lực
trên trong quá trình giải quyết vấn đề thực tế. Vì vậy, dựa trên thang đánh
giá của Hiệp hội các trường Đại học Mỹ ACC&U (2009), bài báo đề xuất
thang đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng của học sinh một cách phù
hợp khi giải quyết tình huống toán học hóa.
Từ khóa: Hiểu biết định lượng, Năng lực hiểu biết định lượng, Tình huống
toán học hóa
1. GIỚI THIỆU
Trong lớp học toán, giáo viên thường tập trung dạy khái niệm, công thức, qui tắc, thuật
toán để trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng giúp giải quyết các hiện tượng
toán học cơ bản như giải phương trình, bất phương trình, vẽ đồ thị Tuy nhiên trong
thực tế, các tình huống có thể sử dụng toán học để giải quyết thường đa dạng, phức tạp,
các vấn đề không xuất hiện cùng với các quy tắc, chỉ dẫn, gợi ý mà thường đòi hỏi học
sinh phải có khả năng tìm ra kiến thức toán liên quan, khả năng chuyển đổi tình huống
được cho theo ngôn ngữ toán học và phải kết hợp nhiều nội dung toán khác nhau. Khả
năng để có thể áp dụng các kiến thức toán cơ bản vào các ngữ cảnh hàng ngày là biểu
hiện của hiểu biết định lượng.
Mặc dù yêu cầu về hiểu biết định lượng (HBĐL) chỉ mới xuất hiện ở cuối thế kỉ 20,
nhưng HBĐL ngày càng giành được nhiều sự quan tâm trong giáo dục toán và là một
trong những năng lực HS cần được trang bị ở nhà trường, điều này cũng chi phối việc
đánh giá và ảnh hưởng đến chương trình toán của nhiều nước như Anh, Đức, Úc, Mỹ,
Đan Mạch, Hà Lan (Madison và Steen, 2007, [7]). Để phát triển HBĐL cho học sinh,
theo Turner (2011, [10]) các em cần được chú ý rèn luyện sáu năng lực thành phần bao
gồm giao tiếp với toán học, phân tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận, sử dụng
kí hiệu thuật ngữ toán học và thực hiện các phép toán, biểu diễn, giải quyết vấn đề.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy các tình huống toán học hóa có thể giúp phát triển các
năng lực HBĐL, bởi vì mỗi bước của quá trình giải quyết tình huống đều cần cả sáu
năng lực trên. Do đó, với mong muốn có thể đo lường các bài làm của học sinh để đánh
giá mức độ phát triển HBĐL, trong bài báo này, chúng tôi đã lựa chọn xây dựng thang
6 NGUYỄN THỊ TÂN AN
đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng của học sinh khi giải quyết tình huống toán
học hóa.
2. TÌNH HUỐNG TOÁN HỌC HÓA VÀ QUÁ TRÌNH TOÁN HỌC HÓA
a. Tình huống toán học hóa
Các nghiên cứu từ lý thuyết và thực hành dạy học đã chỉ ra những khó khăn thường gặp
khi sử dụng tình huống thực tế trong lớp học toán như học sinh thiếu kiến thức thực tế
liên quan đến tình huống, thiếu kinh nghiệm chuyển đổi giữa toán học và thực tế theo cả
hai chiều. Hơn nữa, các tình huống thực tế thường có nhiều cách khác nhau để tiếp cận
nên giáo viên khó dự đoán trước các cách giải quyết của học sinh cũng như khó hướng
dẫn các em trong quá trình giải quyết (Blum, 2011, [3], Ikeda, 2007, [5], Kaiser,
2006, [6]). Để hạn chế những khó khăn nêu trên nhưng vẫn đáp ứng mục tiêu tăng
cường dạy học toán theo hướng thực tế, chúng tôi quan tâm đến những tình huống đặt
trong ngữ cảnh thực tế nhưng có định hướng giáo dục, mà chúng tôi gọi là tình huống
toán học hóa (THH).
Tình huống toán học hóa là tình huống xuất phát từ thế giới bên ngoài lĩnh vực toán
học, chứa đựng những yếu tố quan trọng của thực tế, nhưng đã được đơn giản hóa, lý
tưởng hóa, đặc biệt hóa, thêm các điều kiện, giả thiết phù hợp, hạn chế những yếu tố
không cần thiết cho phép học sinh tiếp cận với một số công cụ toán học theo ý đồ của
giáo viên, tuy nhiên vẫn còn phản ánh đúng một phần nào đó tình huống thực tế ban đầu
(Nguyễn, 2013, [1]).
So với tình huống thực tế, tình huống toán học hóa giúp học sinh hình dung rõ hơn về
tình huống, có thêm dữ liệu thông tin vì vậy quá trình xây dựng mô hình toán học diễn
ra thuận lợi hơn.
b. Quá trình toán học hóa
Để giải quyết một tình huống toán học hóa, học sinh cần lựa chọn mô hình toán phù
hợp, làm việc trong môi trường toán, sau đó thể hiện và đánh giá kết quả trong ngữ cảnh
ban đầu, đôi khi cần phải điều chỉnh mô hình toán hoặc lặp lại quá trình nhiều lần cho
đến khi có được một kết quả hợp lý. Đó là các bước chính của quá trình toán học hóa
được thể hiện trong sơ đồ dưới đây (Nguyễn, 2013, [1]).
Sơ đồ 1. Quá trình toán học hóa
Kết quả
thực tế
Kết quả
toán học
Tình huống
toán học hóa
Mô hình
toán học
(1)
(2)
(3)
(4)
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG... 7
Bước 1: Chuyển đổi từ tình huống toán học hóa sang mô hình toán học
Các hoạt động liên quan đến quá trình này: Nhận ra các yếu tố toán học và các biến
quan trọng của tình huống; Nhận ra các cấu trúc toán trong tình huống như các quy tắc,
các mối quan hệ toán học; Phân biệt giữa các thông tin liên quan và không liên quan đến
yêu cầu của tình huống; Sử dụng các biến, kí hiệu, sơ đồ, đồ thị, hình vẽ phù hợp để
biểu diễn tình huống một cách toán học; Chuyển các đối tượng, dữ liệu, mối quan hệ,
điều kiện, giả thiết, yêu cầu của tình huống sang ngôn ngữ toán; Thiết lập mô hình toán
từ tình huống.
Bước 2: Giải toán
Quá trình này bao gồm các hoạt động: Lựa chọn và thực hiện một phương án giải; Sử
dụng các công cụ toán học như khái niệm, quy tắc, công thức, thuật toán để tìm ra kết
quả; Sử dụng và chuyển đổi giữa các biểu diễn khác nhau trong quá trình tìm lời giải;
Thiết lập quy tắc, mối liên hệ giữa các đối tượng toán học, tạo ra các lập luận toán học.
Bước 3: Chuyển đổi từ kết quả toán sang kết quả thực tế
Sau khi thu được kết quả toán từ bước 2, học sinh sẽ giải thích kết quả đó trong ngữ
cảnh của tình huống ban đầu. Quá trình này bao gồm các hoạt động: Nhận ra các yếu tố
thực tế tương ứng với kết quả toán có được; Hiểu được kết quả toán cho biết điều gì về
tình huống ban đầu; Cố gắng giải thích kết quả toán theo ngôn ngữ thực tế thông
thường; Đôi khi, một câu trả lời đầy đủ đòi hỏi sử dụng những lập luận để có được kết
quả thực tế phù hợp.
Bước 4: Phản ánh
Quá trình này bao gồm các hoạt động: Kiểm tra tính hợp lý, thỏa đáng của kết quả với
thông tin được cho ban đầu; Xem xét ảnh hưởng của các yếu tố thực tế lên kết quả và
các tính toán của mô hình để điều chỉnh hay chấp nhận kết quả; Hiểu phạm vi và hạn
chế của mô hình toán, phương pháp giải cũng như công cụ toán học được sử dụng trong
quá trình giải quyết tình huống; Giải thích tại sao kết quả không phù hợp với tình huống
được cho, xem lại một số bước hoặc thực hiện lại quá trình toán học hóa nếu kết quả
không phù hợp; Tìm kiếm các khả năng khác của tình huống (nếu có).
3. CÁC NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG
Có nhiều định nghĩa khác nhau về HBĐL, nhưng phần lớn đều quan tâm đến khả năng
vận dụng kiến thức toán vào những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Trong bài báo
này, chúng tôi chọn định nghĩa sau đây:
Hiểu biết định lượng là khả năng để nhận ra, hiểu và sử dụng các kiến thức toán một
cách hiệu quả trong những tình huống định lượng của cuộc sống hàng ngày, từ những
tình huống quen thuộc đến những tình huống mới không quen thuộc (Hallett, 2003, [4]).
Ở định nghĩa trên, tình huống định lượng là một tình huống thực tế chứa đựng các yếu
tố định lượng như số lượng, trọng lượng, kích thước, diện tích, tỉ lệ, phần trăm ở đó
8 NGUYỄN THỊ TÂN AN
các yếu tố toán học được thể hiện rõ ràng hoặc ngầm ẩn và luôn tồn tại một mô hình
toán học cho phép biểu diễn tình huống theo các yếu tố toán học.
Từ định nghĩa, ta nhận thấy có ba thành phần liên quan đến HBĐL:
- Tình huống ở đó vấn đề được đặt ra;
- Nội dung toán mà học sinh cần sử dụng để giải quyết tình huống;
- Các năng lực cần được kích hoạt để kết nối giữa nội dung toán và tình huống
được cho, từ đó giải quyết vấn đề đặt ra.
Sơ đồ 2. Ba thành phần liên quan đến HBĐL
Để có thể đánh giá HBĐL của học sinh một cách tường minh, chúng ta cần đến những
năng lực HBĐL cụ thể. Niss (2003, [8]), Turner (2011, [10]), PISA (2012, [9]) đã chỉ ra
sáu năng lực cơ bản của HBĐL, mỗi năng lực được mô tả như sau:
a. Giao tiếp với toán học
Năng lực này bao gồm: Khả năng hiểu tình huống như là nhận ra các thông tin liên
quan, hiểu đúng câu hỏi, yêu cầu đặt ra; Khả năng trình bày các bước giải rõ ràng, logic,
đầy đủ; Khả năng giải thích kết quả toán học trong phạm vi tình huống thực tế.
b. Phân tích và xây dựng mô hình toán học
Năng lực này bao gồm: Khả năng phân tích các mô hình toán học có sẵn, đánh giá phạm
vi và giá trị của các mô hình đó; Khả năng xây dựng mô hình toán học đối với những
tình huống ngoài toán.
c. Sử dụng kí hiệu, thuật ngữ toán học và thực hiện các phép toán
Năng lực này bao gồm: Khả năng hiểu và sử dụng các kí hiệu, thuật ngữ toán học, các
mệnh đề và biểu thức chứa kí hiệu, công thức toán... dựa trên việc hiểu các khái niệm,
quy tắc, thuật toán, quá trình toán học; Khả năng hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ kí
hiệu toán học và ngôn ngữ thông thường, và khả năng chuyển đổi qua lại giữa hai hình
thức ngôn ngữ này; Khả năng thực hiện các phép toán đúng và chính xác.
d. Suy luận
Năng lực này bao gồm: Khả năng sử dụng các quy tắc suy luận toán học, tư duy logic
để liên kết các yếu tố của bài toán và rút ra kết luận; Khả năng kiểm tra tính đúng đắn
của một nhận định được cho hoặc đưa ra nhận định về một vấn đề.
Các năng
lực
HBĐL
Nội dung
Toán
Tình huống
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG... 9
e. Biểu diễn
Năng lực này bao gồm: Khả năng hiểu các mối quan hệ qua lại giữa các biểu diễn khác
nhau của cùng một đối tượng cũng như biết được điểm mạnh điểm yếu của mỗi loại
biểu diễn; Khả năng thực hiện chuyển đổi giữa các dạng biểu diễn; Khả năng lựa chọn
một biểu diễn hay kết hợp nhiều biểu diễn khác nhau của các đối tượng toán học để nắm
bắt tình huống hay tìm ra một phương pháp giải quyết.
f. Giải quyết vấn đề toán học
Năng lực này bao gồm: Khả năng phát hiện và thiết lập một vấn đề toán học từ nhiệm
vụ hay tình huống được cho; Khả năng lựa chọn một cách tiếp cận phù hợp và đưa ra
một phương pháp toán hiệu quả để giải quyết vấn đề toán học đã được thiết lập, đồng
thời giám sát, kiểm soát quá trình thực hiện.
Trong thực tế, khi gặp một tình huống định lượng, học sinh không nhất thiết sử dụng tất
cả các năng lực trên đây. Hơn nữa, mặc dù các năng lực được mô tả một cách riêng lẻ
nhưng giữa chúng có sự giao thoa với nhau, chẳng hạn trong “biểu diễn” thì vẫn có
“giao tiếp”, trong “chuyển đổi” có “biểu diễn” Tuy nhiên, qua phần mô tả các năng
lực HBĐL (mục 3) và những hoạt động học sinh cần thực hiện ở mỗi bước của quá trình
toán học hóa (mục 2), chúng tôi nhận thấy cả sáu năng lực HBĐL đều tồn tại ở mỗi
bước của quá trình toán học hóa. Vì vậy, khi giải quyết các tình huống toán học hóa,
học sinh cần kích hoạt cả sáu năng lực này.
4. XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ CÁC NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG
CỦA HỌC SINH KHI GIẢI QUYẾT MỘT TÌNH HUỐNG TOÁN HỌC HÓA
Thiết kế thang đánh giá giúp đo mức độ đạt được các năng lực HBĐL trong nhiều
nhiệm vụ toán học hóa chứa đựng yếu tố định lượng khác nhau là cần thiết để nghiên
cứu sự phát triển của các năng lực. Dựa trên thang đánh giá năng lực HBĐL của sinh
viên do Hiệp hội các trường Đại học Mỹ (ACC&U) đưa ra năm 2009 ([2]), cùng với các
hoạt động của quá trình toán học hóa trình bày ở mục 2, chúng tôi đã xây dựng thang
đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng của học sinh khi giải quyết tình huống toán
học hóa. Sự tiến bộ của mỗi năng lực thể hiện qua bốn mức độ từ 0 đến 3 trong mỗi giai
đoạn của quá trình THH.
Như vậy mức độ cao nhất của mỗi năng lực là 9 và thấp nhất là 0. Dưới đây là thang
đánh giá của sáu năng lực hiểu biết định lượng gồm giao tiếp với toán học; phân tích và
xây dựng mô hình toán học; suy luận; sử dụng kí hiệu, thuật ngữ toán học và thực hiện
các phép toán; biểu diễn và giải quyết vấn đề.
Bảng 1. Thang đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng
Năng
lực
Các mức độ đạt được
3 2 1 0
Giao
tiếp
với
toán
Nhận ra tất cả
thông tin liên quan
và hiểu đúng yêu
cầu của tình huống.
Nhận ra và hiểu
đúng một số thông
tin liên quan đến
tình huống.
Nhận ra một số
thông tin liên quan
nhưng không hiểu
đúng thông tin nào.
Không nhận ra
thông tin nào.
10 NGUYỄN THỊ TÂN AN
học Trình bày các bước
giải rõ ràng, đầy đủ
và logic.
Trình bày các bước
giải đúng, nhưng
không đầy đủ hoặc
phương pháp giải
đúng nhưng chưa
hoàn thành.
Trình bày các bước
giải thiếu logic,
không đúng, không
mạch lạc hoặc khó
hiểu.
Không trình bày
bước giải nào.
Giải thích kết quả
toán trong tình
huống ban đầu hợp
lý.
Giải thích kết quả
chưa hợp lý nhưng
có thể chấp nhận.
Giải thích kết quả
toán trong tình
huống ban đầu
không hợp lý.
Không có giải
thích.
Phân
tích
xây
dựng
mô
hình
toán
học
Tạo ra một mô
hình toán học phù
hợp với tình
huống.
Mô hình TH chỉ
phản ánh một phần
tình huống.
Mô hình toán học
không phản ánh
đúng tình huống.
Không tạo ra một
mô hình toán học
nào.
Sử dụng mô hình
đã xây dựng để
nắm bắt các điều
kiện, mối quan hệ
TH, hướng dẫn quá
trình GQVĐ.
Sử dụng mô hình
đã xây dựng để
nắm bắt một số
điều kiện, mối
quan hệ TH quan
trọng.
Sử dụng mô hình
đã xây dựng để
nắm bắt các điều
kiện, mối quan hệ
toán học nhưng
không đúng.
Không sử dụng
mô hình đã xây
dựng để hướng
dẫn quá trình
GQVĐ.
Nhận ra phạm vi
hoặc hạn chế của
mô hình được sử
dụng.
Nhận ra phạm vi
hoặc hạn chế của
mô hình, nhưng
không đầy đủ.
Nhận ra một số
phạm vi hoặc hạn
chế của mô hình
nhưng không đúng.
Không nhận ra
phạm vi hoặc hạn
chế của mô hình
được sử dụng.
Suy
luận
Phân tích, tổng
hợp, đánh giá
thông tin để hiểu
đúng các mối quan
hệ của tình huống.
Dựa vào suy luận
để hiểu đúng các
mối quan hệ quan
trọng của tình
huống.
Sử dụng suy luận
sai dẫn đến hiểu sai
các mối quan hệ
quan trọng.
Không sử dụng
suy luận để hiểu
các mối quan hệ
của tình huống.
Sử dụng các suy
luận đúng và hợp
lý để đưa ra các kết
luận đúng.
Suy luận để rút ra
kết luận phù hợp
nhưng có những lỗi
nhỏ về logic.
Rút ra kết luận từ
các suy luận không
đúng.
Kết luận không
dựa trên suy luận.
Xét ảnh hưởng của
các yếu tố thực tế
lên kết quả và cung
cấp lý do hợp lý.
Xét ảnh hưởng của
các yếu tố thực tế
lên kết quả nhưng
không đưa ra lý do.
Chỉ ra ảnh hưởng
của các yếu tố thực
tế lên kết quả
nhưng không đúng.
Không xem xét
ảnh hưởng của
các yếu tố thực tế
lên kết quả.
Sử
dụng
kí
hiệu,
thuật
ngữ
toán
Sử dụng các kí
hiệu, ngôn ngữ
toán học đúng và
phù hợp để biểu
diễn tình huống
THH.
Sử dụng kí hiệu,
ngôn ngữ TH biểu
diễn đúng tình
huống THH nhưng
chưa đầy đủ.
Sử dụng các kí
hiệu, ngôn ngữ
toán học để biểu
diễn tình huống
THH nhưng không
đúng.
Không sử dụng
các kí hiệu, ngôn
ngữ toán học để
biểu diễn tình
huống THH.
Sử dụng đúng các
công thức, quy tắc.
Sử dụng đúng các
công thức, quy tắc.
Sử dụng sai các
công thức, quy tắc.
Không thực hiện
tính toán nào.
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG... 11
học
thực
hiện
các
phép
toán
Tính toán đúng dẫn
đến kết quả đúng.
Tính toán đúng
nhưng chưa đi đến
kết quả.
Thực hiện sai các
tính toán quan
trọng.
Hiểu mối quan hệ
giữa ngôn ngữ toán
và ngôn ngữ thực
tế để có thể chuyển
kết quả toán sang
kết quả thực tế.
Chuyển kết quả
toán sang kết quả
thực tế nhưng
không đầy đủ.
Chuyển kết quả
toán sang kết quả
thực tế nhưng
không đúng.
Không thể
chuyển kết quả
toán sang kết quả
thực tế.
Biểu
diễn
Sử dụng các biểu
diễn toán đúng và
phù hợp để biểu
diễn các thông tin
thực tế.
Biểu diễn các
thông tin thực tế
bằng các biểu diễn
toán đúng nhưng
một số chưa phù
hợp.
Sử dụng các biểu
diễn toán không
đúng để biểu diễn
các thông tin thực
tế.
Không sử dụng
biểu diễn toán
nào để biểu diễn
các thông tin thực
tế.
Liên kết nhiều
biểu diễn khác
nhau để tìm ra kết
quả.
Sử dụng nhiều biểu
diễn nhưng có
những biểu diễn
chưa phù hợp.
Sử dụng các biểu
diễn không đúng,
không phù hợp
trong quá trình
giải.
Không sử dụng
biểu diễn nào.
Biểu diễn kết quả
thực tế dưới dạng
phù hợp.
Biểu diễn kết quả
thực tế đúng,
nhưng chưa phù
hợp.
Biểu diễn kết quả
thực tế không
đúng.
Không sử dụng
biểu diễn nào.
Giải
quyết
vấn
đề
Thiết lập một vấn
đề toán học từ tình
huống được cho.
Thiết lập vấn đề
toán học từ tình
huống được cho
nhưng chưa đầy
đủ.
Thiết lập một vấn
đề toán học từ tình
huống được cho
nhưng không đúng.
Không thể thiết
lập một vấn đề
toán học từ tình
huống được cho.
Lựa chọn một
phương pháp hiệu
quả để giải quyết.
Lựa chọn một
phương pháp giải
quyết hợp lý.
Phương pháp giải
quyết không phù
hợp, không đúng.
Không đưa ra
một phương pháp
giải quyết nào.
Kiểm tra tính hợp
lý, thỏa đáng của
kết quả toán đối
với tình huống ban
đầu.
Thực hiện kiểm tra
tính hợp lý, thỏa
đáng của kết quả
toán đối với tình
huống ban đầu
nhưng chưa đầy
đủ.
Cố gắng thực hiện
kiểm tra tính hợp
lý, thỏa đáng của
kết quả toán đối
với tình huống ban
đầu nhưng không
đúng.
Không thực hiện
kiểm tra tính hợp
lý, thỏa đáng của
kết quả toán đối
với tình huống
ban đầu.
5. PHÂN TÍCH BÀI LÀM HỌC SINH
Để nghiên cứu sự phát triển năng lực HBĐL của học sinh, chúng tôi đã thiết kế bốn tình
huống toán học hóa và thực hiện nghiên cứu đối với 46 học sinh lớp 10A2 Trường
THPT Đặng Huy Trứ, Huyện Hương Trà, Thành phố Huế. Dạy thực nghiệm được tiến
hành trong bốn tiết của bốn tuần liên tiếp, mỗi tiết học sinh được yêu cầu sử dụng
12 NGUYỄN THỊ TÂN AN
những kiến thức, kĩ năng toán của mình để giải quyết một tình huống trong môi trường
hoạt động nhóm với thời gian 30 phút mà không có sự hướng dẫn từ phía giáo viên hoặc
người nghiên cứu. Bài làm của học sinh được chúng tôi dùng để phân tích, đánh giá và
so sánh sự phát triển HBĐL qua quá trình THH. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng
phương pháp quan sát và phỏng vấn suốt giai đoạn thực nghiệm để hỗ trợ quá trình
phân tích. Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi chỉ chọn một tình huống cụ thể là tình
huống CẦU THANG để phân tích các mức độ về năng lực HBĐL của học sinh.
CẦU THANG. Một cầu thang nhà ở được
thiết kế an toàn khi mỗi bậc có chiều cao
tối đa là 19 cm và chiều sâu tối thiểu là 25
cm. Em hãy thiết kế một cầu thang an
toàn đi từ tầng 1 lên tầng 2 của ngôi nhà
có khoảng cách giữa hai sàn là 2,8 m và
chiều dài cầu thang là 3,6 m bằng cách chỉ
ra số bậc, chiều cao và chiều sâu của mỗi
bậc. Giải thích cách làm của em.
chiều dài cầu thang
khoảng cách
giữa 2 sàn
chiều sâu bậc
chiều cao bậc
Lưu ý: số bậc được tính bao gồm cả sàn tầng 2, ví dụ trong hình vẽ trên, cầu thang có
tất cả 9 bậc.
Tình huống đặt ra ở cuối chương trình lớp 10, với ý định kiểm tra khả năng học sinh sử
dụng kiến thức, kĩ năng về hệ bất phương trình để giải quyết một tình huống toán học
hóa. Trong tình huống này, các số liệu đã được cung cấp cụ thể như chiều cao tối đa và
chiều sâu tối thiểu mỗi bậc, khoảng cách giữa hai sàn, chiều dài cầu thang, và các thông
tin đều cố gắng phản ánh trung thực thực tế. Ngoài ra, lưu ý cùng với hình vẽ minh họa
cũng góp phần giúp học sinh hình dung rõ hơn về tình huống.
Từ tình huống và hình vẽ minh họa, chúng ta có thể rút ra các thông tin quan trọng, cần
thiết cho quá trình xây dựng mô hình toán, đó là:
(1) Cầu thang có các chiều cao bậc bằng nhau và các chiều sâu bậc bằng nhau;
(2) Chiều cao bậc ≤ 19 cm, chiều sâu bậc ≥ 25 cm;
(3) Quan hệ giữa chiều cao bậc và khoảng cách hai sàn: Số bậc×chiều cao bậc = 280
cm
(4) Quan hệ giữa chiều sâu bậc và chiều dài cầu thang: (Số bậc-1)×chiều sâu bậc = 360
cm
Trong tình huống có các từ ngữ như “tối đa”, “tối thiểu”, gợi ý đến việc sử dụng bất
đẳng thức để xây dựng mô hình toán. Ngoài ra, dựa vào bốn thông tin (1) – (4), ta có thể
nhận ra các biến của tình huống, đó là số bậc, chiều cao bậc, chiều sâu bậc và mối quan
hệ giữa chúng. Nếu gọi n là số bậc thang (n nguyên dương), y là chiều cao bậc và x là
chiều sâu bậc thì tùy thuộc vào số biến ta chọn mà mô hình toán sẽ là những hệ bất
phương trình khác nhau:
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG... 13
25
19
280
( 1) 360
x
y
ny
n x
≥⎧
⎪ ≤⎪
⎨
=⎪
⎪ − =⎩
25
19
280 360 1
x
y
y x
≥⎧
⎪ ≤⎪
⎨
⎪ = +
⎪⎩
280 19
360 25
1
n
n
⎧ ≤⎪⎪
⎨
⎪ ≥
⎪ −⎩
Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày việc đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng, sử
dụng thang đánh trên vào ba bài làm của học sinh đối với tình huống “cầu thang”.
Học sinh 1. Học sinh này nhận ra và hiểu đúng các thông tin của tình huống ngoại trừ
việc xác định sai mối quan hệ giữa chiều sâu bậc và chiều dài cầu thang dẫn đến xây
dựng mô hình toán không đúng. Vì vậy đối với học sinh này, các năng lực HBĐL chỉ
được đánh giá ở giai đoạn 1 của quá trình THH – chuyển từ tình huống THH sang mô
hình toán. Nhưng do mô hình học sinh tạo ra chưa phù hợp nên mỗi năng lực HBĐL
của học sinh đạt mức độ là 2.
Hình 1. Bài làm của học sinh 1
Học sinh 2. Học sinh này đã xây dựng một mô hình toán phù hợp nhưng chưa hoàn
thành việc giải bài toán nên các năng lực HBĐL chỉ được đánh giá ở giai đoạn 1 và 2.
Trong bước giải toán, học sinh đã thể hiện phương pháp giải đúng, các suy luận đúng và
hợp lý, tính toán đúng nhưng chưa đi đến kết quả cuối cùng. Dựa vào thang đánh giá,
học sinh này đạt mức độ 5 đối với các năng lực giao tiếp, suy luận, sử dụng kí hiệu thuật
ngữ toán học và thực hiện các phép toán, đạt mức độ 6 đối với các năng lực còn lại.
Hình 2. Bài làm của học sinh 2
Học sinh 3. Học sinh đã xây dựng một mô hình toán phù hợp với tình huống, giải bài
toán đúng và chuyển kết quả toán sang kết quả thực tế hợp lý, tuy nhiên không thấy thể
hiện bước phản ánh. Do đó các năng lực giao tiếp với toán học; sử dụng kí hiệu, thuật
14 NGUYỄN THỊ TÂN AN
ngữ toán học và thực hiện các phép toán; biểu diễn và giải quyết vấn đề đạt mức tối đa
là 9. Năng lực phân tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận chỉ đạt mức độ 6.
Hình 3. Bài làm của học sinh 3
6. KẾT LUẬN
Hiểu biết định lượng là khả năng sử dụng kiến thức và kĩ năng toán một cách hiệu quả
trong nhiều tình huống thực tế chứa đựng yếu tố định lượng. Việc sử dụng các tình
huống như vậy qua thời gian dài, liên tục trong điều kiện lớp học bình thường sẽ cho
phép quan sát sự phát triển các năng lực HBĐL của học sinh (Kaiser, 2006). Do đó,
chúng tôi hy vọng rằng với việc tạo ra thang đánh giá các năng lực HBĐL sẽ cung cấp
một công cụ để đánh giá và phát triển các năng lực này của học sinh thông qua giải
quyết các tình huống toán học hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Tân An (2013). Xây dựng các tình huống dạy học hỗ trợ quá trình toán
học hóa, Tạp chí Khoa học ĐH sư phạm tp Hồ Chí Minh, 48 (82), trang 5-13.
[2] AAC&U (2009). Quantitative literacy value rubric,
[3] Blum, W. (2011). Can modelling be taught and learnt? Some answers from empirical
research, Trends in teaching and learning of mathematical modelling, Springer
Netherlands, pp.15-30.
[4] Hallett, D. H. (2003). The role of mathematics courses in the development of
quantitative literacy, Quantitative Literacy: Why Numeracy Matters for Schools and
Colleges, 91-98.
[5] Ikeda, T. (2007). Possibilities for, and obstacles to teaching applications and
modelling in the lower secondary levels, Modelling and applications in mathematics
education, Springer US, pp.457-462.
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG... 15
[6] Kaiser, G., Blomhøj, M., & Sriraman, B. (2006). Towards a didactical theory for
mathematical modelling, ZDM, 38(2), 82-85.
[7] Madison, B. L., & Steen, L. A. (2007). Evolution of numeracy and the National
Numeracy Network, Numeracy, 1(1), 2.
[8] Niss, M. A. (2003). Quantitative literacy and mathematical competencies,
Quantitative literacy, Princeton: National Council on Education and the Disciplines,
pp. 215-220.
[9] OECD / PISA (2012). Assessment and Analytical Framework Mathematics, Reading,
Science, Problem Solving and Financial Literacy, OECD, Paris, France.
[10] Turner, R. (2011). Identifying cognitive processes important to mathematics learning
but often overlooked, Australian Mathematics Teacher Jan 22-26.
Title: BUILDING A RUBRIC TO MEASURE QUANTITATIVE LITERACY
COMPETENCIES OF STUDENTS WHEN THEY FACE WITH MATHEMATISATION
SITUATIONS
Abstract: This article mentions to six quantitative literacy competencies based on the viewpoint
of Niss (2003) and Turner (2011), including communicating with mathematics, analysing and
building mathematical models, reasoning, handling symbol and formal mathematical language,
representing, solving problems. These competencies can be assessed separately, but through
analysing activities of mathematisation process, we found that solving mathematisation
situations requires students to combine all of six competencies. So, based on the rubric of
ACC&U (2009), the article proposed a rubric that can be applied for measuring student’s work
when they face with mathematisation situations.
Keywords: Quantitative literacy, Quantitative literacy competencies, Mathematisation situation.
ThS. NGUYỄN THỊ TÂN AN
Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐT: 0986 732 307, Email: tanan0704@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22_350_nguyenthitanan_04_nguyen_thi_tan_an_4088_2020413.pdf