Tài liệu dài 21 trang, là một phần quan trọng trong việc xây dựng một doanh nghiệp thành công.
Tóm tắt nội dung tài liệu:
1. Một hoạt động kinh doanh là một cấu trúc gồm ba yếu tố: thị trường đặc thù,
các phối thức thị trường và các nguồn lực cụ thể. Phối thức thị trường là một
nhóm các biện pháp gồm sản phẩm và dịch vụ, giá, kênh phân phối, truyền
thông và các chính sách marketing khác.
2. Loại hoạt động kinh doanh có nhu cầu phối hợp nhiều với các hoạt động kinh
doanh khác được gọi là đơn vị kinh doanh. Một đơn vị kinh doanh tạo ra một
phối thức thị trường riêng.
3. Lĩnh vực kinh doanh có một phối thức thị trường độc lập và không có sự chia
sẻ đáng kể nào về các thị trường hay/ và các nguồn lực với bất k. hoạt động
kinh doanh nào khác trong công ty. Lĩnh vực kinh doanh là công ty trong
công ty.
21 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2156 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng chiến lược công ty, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 5
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC CÔNG TY
Mục tiêu học tập:
- Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược của doanh nghiệp.
- Đánh giá các hoạt động kinh doanh chiến lược của doanh nghiệp, xác định các
hoạt động kinh doanh mà công ty sẽ tiếp tục duy trì, thiết lập mới hoặc loại bỏ
nếu có.
- Xác định các vị thế cạnh tranh mục tiêu mà các hoạt động kinh doanh khác nhau
sẽ phải đạt được trong các thị trường tương ứng.
- Xác định và đánh giá các lựa chọn chiến lược và các phương thức cần thiết để
duy trì hay mở rộng các hoạt động kinh doanh chiến lược.
70
5.1. Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược
5.1.1. Định nghĩa hoạt động kinh doanh chiến lược
Mục đích chính của chiến lược công ty xây dựng và duy trì các vị thế cạnh tranh.
Tuy nhiên trước khi xác định các vị thế này, cần phải có một sự thoả thuận rõ ràng về thị
trường, phối thức thị trường và các nguồn lực cần thiết. Sự liên kết giữa một bên là các vị
thế cạnh tranh với bên kia là phối thức thị trường và các nguồn lực, được hình thành cùng
với khái niệm về hoạt động kinh doanh chiến lược.
Một hoạt động kinh doanh chiến lược là một cấu trúc gồm ba yếu tố cần nhận
dạng là thị trường đặc thù, các phối thức thị trường và các nguồn lực cụ thể. Phối thức thị
trường được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm các sản phẩm và dịch vụ trọng tâm
mà cả các dịch vụ kèm theo, các điều kiện về giá và các yếu tố khác. Một phối thức bao
gồm nhiều biện pháp khác nhau trong một phối thức tiếp thị. Cần hiểu rằng khi nhận
dạng các hoạt động kinh doanh chiến lược thì không chỉ xem xét đến các khác biệt trong
sản phẩm hay dịch vụ cơ bản mà còn xem xét việc sử dụng khác biệt hoá của các yếu tố
khác trong phối thức tiếp thị.
Việc xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược là cơ sở để đánh giá và hoạch
định các tiềm lực thành công ở cấp độ vị thế thị trường. Các hoạt động kinh doanh phải
được xác định độc lập với cấu trúc tổ chức hiện có. Mặc dù có thể có trường hợp một
hoạt động kinh doanh chiến lược sẽ tương ứng với một đơn vị tổ chức, nhưng quan trọng
là phải hiểu rằng các hoạt động kinh doanh và các bộ phận tổ chức là những vấn đề hoàn
toàn khác nhau. Việc xác định các hoạt động kinh doanh phải dựa trên thị trường, các
phối thức thị trường và các nguồn lực, trong khi cấu trúc công ty thường dựa trên các tiêu
chí hoàn toàn khác. Tuy nhiên, việc xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược và
việc hình thành chiến lược công ty, dựa trên các hoạt động kinh doanh này, thường sẽ yêu
cầu xem xét lại cấu trúc tổ chức.
Cần lưu ý rằng không phải mọi hoạt động kinh doanh đều được xem là hoạt động
kinh doanh chiến lược và đưa vào hoạch định chiến lược. Theo yêu cầu trong hoạch định
chiến lược, chúng ta tập trung toàn bộ công ty và các bộ phận quan trọng của nó, tiếp
theo các hoạt động kinh doanh chỉ được đưa vào quá trình hoạch định chiến lược nếu
chúng quan trọng cho sự thành công. Nói chung, điều này có nghĩa là hoạt động kinh
doanh phải có tiềm năng tạo ra một phần lợi nhuận đáng kể cho công ty.
5.1.2. Lĩnh vực kinh doanh chiến lược và đơn vị kinh doanh chiến lược
Khi thiết lập các định hướng chiến lược cho một hoạt động kinh doanh cụ thể,
quan trọng cần biết là có phải hiệu chỉnh chúng theo định hướng của bất kì hoạt động
kinh doanh nào khác hay không. Ví dụ như, việc bán đi hay giải thể một hoạt động kinh
doanh bị lỗ kéo dài không phải là vấn đề đơn giản nếu chúng sử dụng nguồn thiết bị
chung với các hoạt động kinh doanh khác. Bởi vì chi phí sản xuất của các hoạt động còn
lại sẽ phải chịu thêm phần chi phí của hoạt động bị dừng, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận
trước đó. Hoặc có thể cần điều chỉnh các chiến lược cạnh tranh của hai hoạt động kinh
doanh có nhãn hiệu khác nhau trong cùng một thị trường sao cho giảm thiểu sự cạnh
tranh giữa chúng với nhau. Để nhấn mạnh tầm quan trọng về sự phụ thuộc hay độc lập
của các hoạt động kinh doanh, cần phân biệt hai loại hoạt động kinh doanh chiến lược :
Đơn vị kinh doanh chiến lược và lĩnh vực kinh doanh chiến lược.
71
Loại hoạt động kinh doanh có nhu cầu phối hợp nhiều với các hoạt động kinh
doanh khác được gọi là đơn vị kinh doanh chiến lược. Các yếu tố để xác định các hoạt
động kinh doanh bao gồm thị trường, phối thức thị trường và nguồn lực. Để thiết lập các
đơn vị kinh doanh thì yếu tố thứ hai, phối thức thị trường có tầm quan trọng trên hết. Một
đơn vị kinh doanh tạo ra một phối thức thị trường riêng.
Trong htực tế, các đơn vị kinh doanh luôn có một cách định vị thị trường hay phối
thức tiếp thị riêng. Nhưng yêu cầu phù hợp chiến lược không có nghĩa là mỗi nhóm sản
phẩm với cách định vị thị trường hay phối thức tiếp thị riêng của nó sẽ thành sức mạnh
của đơn vị kinh doanh chiến lược.
Các đơn vị kinh doanh chiến lược tạo ra một phối thức thị trường độc lập. Mặt khác,
các đơn vị kinh doanh chiến lược có rất ít quyền tự trị về thị trường phục vụ và /hay
nguồn lực. Vì lý do này, các đơn vị kinh doanh thường cần có các điều chỉnh so với các
hoạt động kinh doanh khác:
• Hai đơn vị kinh doanh hoạt động trong cùng một thị trường có thể gây thiệt hại
lẫn nhau thông qua các hoạt động cạnh tranh của chúng. Trường hợp xấu nhất là
chúng có thể xâm chiếm doanh thu lẫn nhau. Ở đây các chiến lược không được
điều chỉnh qua lại sẽ có nguy cơ "bị cộng hưởng tiêu cực" mạnh về doanh thu.
• Hai đơn vị kinh doanh sử dụng cùng loại nguồn lực thì phụ thuộc lẫn nhau, hoặc
phụ thuộc về cấu trúc chi phí hoặc về chất lượng sản phẩm của chúng. Ví dụ,
chúng chỉ có thể có các chuyên gia chất lượng cao bằng cách cùng chia sẻ các chi
phí có liên quan. Ở đây, các chiến lược nếu không được điều chỉnh qua lại với
nhau sẽ bị mất đi tính hiệp lực về chi phí hay chất lượng.
Do đó, các đơn vị kinh doanh chiến lược tạo ra phối thức thị trường độc lập nhưng
cần phải phối hợp với các hoạt động kinh doanh khác về thị trường hay / và nguồn lực.
Ngược lại, lĩnh vực kinh doanh chiến lược được tự chủ ở mức độ lớn: các lĩnh vực kinh
doanh chiến lược không phải chia sẻ hoặc thị trường hoặc nguồn lực với các hoạt động
kinh doanh khác.
Tuy nhiên, trên thực tế hiếm khi có sự tự chủ tuyệt đối. Do đó, tiêu chí độc lập không
nên áp dụng quá nghiêm ngặt, đặc biệt là về nguồn lực. Vẫn có thể nói về các lĩnh vực
kinh doanh chiến lược miễn là các lĩnh vực này được độc lập sử dụng nguồn lực phù hợp
với các lợi thế cạnh tranh của chúng. Cũng có vài trường hợp công ty phải tái tổ chức sao
cho các nguồn lực dùng chung được phân chia và các đơn vị kinh doanh được cân nhắc
cẩn thận để chuyển thành các lĩnh vực kinh doanh.
Điều này nên làm khi mà lợi ích của động lực làm việc hay sự thực hiện được kì vọng
là có thể bù đắp cho những mất mát có thể về sự cộng hưởng hay chi phí phát sinh do
việc phân chia nguồn lực. Loại xê dịch này thường không đuọc xem xét trong lúc xác
định các hoạt động kinh doanh chiến lược ban đầu, nhưng có thể xuất hiện sau đó trong
quá trình thảo luận, đánh giá lựa chọn chiến lược .
Cũng cần lưu ý là sự tự chủ chiến lược không được dụng để gợi ý sự độc lập về tài
chính. ví dụ, một đơn vị kinh doanh chiến lược có thể hi vọng ở sự tiếp sức tài chính ban
đầu từ các hoạt động kinh doanh khác trong công ty.nói cách khác, chiến lược của công
ty có thể yêu cầu một hoạt động kinh doanh chiến lược tạo ra một dòng tiền tự do dương
để dùng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh chiến lược khác của công ty. Sự tự chủ
72
chiến lược luôn luôn vận hành trong các giới hạn tài chính vì các nguồn lực tài chính luôn
hạn chế.
Bây giờ chúng ta có thể trình bày các định nghĩa của hai loại hoạt động kinh doanh chiến
lược.
Lĩnh vực kinh doanh chiến lược
• Là một hoạt động kinh doanh có đóng góp quan trọng vào sự thành công của công
ty
• Là hoạt động có thể được hoạch định độc lập
• Có một phối thức thị trường độc lập và không có sự chia sẻ đáng kể nào về các thị
trường hay/ và các nguồn lực với bất kì hoạt động kinh doanh nào khác trong
công ty.
Đơn vị kinh doanh chiến lược
• Là một hoạt động kinh doanh có đóng góp quan trọng vào sự thành công của công
ty
• Có một phối thức thị trường độc lập riêng
• Khi hoạch định, cần phải điều chỉnh chiến lược của nó với các chiến lược của các
đơn vị kinh doanh khác trong công ty, vì chúng hoạt động trong cùng một thị
trường hay/và chia sẻ các nguồn lực với nhau.
Hình 5.1. Định nghĩa lĩnh vực kinh doanh chiến lược và đơn vị kinh doanh chiến lược
Hình 5.2. Lĩnh vực kinh doanh chiến lược và đơn vị kinh doanh chiến lược
73
ĐV
ĐV ĐV
ĐV
ĐV
ĐV ĐV
Lĩnh vực
Mức độ phụ thuộc
qua lại yếu
Mức độ phụ thuộc
qua lại mạnh
Định nghĩa về các lĩnh vực kinh doanh chiến lược là các bộ phận tương đối độc
lập trong công ty cho thấy rằng mức độ phụ thuộc lẫn nhau và tiềm năng cho sự hiệp lực
giữa chúng là yếu. Do đó, lĩnh vực kinh doanh là một công ty trong công ty. Mặt khác,
các đơn vị kinh doanh chiến lược hoặc thể hiện phối thức thị trường riêng biệt bên trong
một lĩnh vực kinh doanh chiến lược, hoặc là một phối thức thị trường riêng biệt trong một
công ty, trong trường hợp của một công ty nhỏ với sự phụ thuộc qua lại về thị trường
hay/ và các nguồn lực chung, các đơn vị kinh doanh liên kết tương đối chặt với các đơn
vị kinh doanh khác trong một lĩnh vực kinh doanh hay một công ty nhỏ. Điều này tạo ra
tiềm năng cho việc hiệp lực cần phải được khám phá và khai thác.
Hình 5.3. Các nhóm lĩnh vực kinh doanh chiến lược và các đơn vị kinh doanh chiến lược
Nguồn: Kuhn and Grunig (2004)
74
Phân chia công ty thành
các lĩnh vực kinh doanh
Phân chia công ty thành
các đơn vị kinh doanh
Phân chia lĩnh vực kinh
doanh thành các đơn vị
kinh doanh
Không
phù hợp Phù hợp
Không phù
hợp Phù
hợp
Không phù
hợp Phù
hợp
Nhóm 1
- Cửa hàng bán
lẻ địa phương
- Toà soạn báo
trong vùng
Nhóm 2
Nhóm 2a
Công ty sản xuất thực phẩm đóng
hộp với nhãn hiệu riêng và cũng bán
cho hệ thống bán lẻ nước ngoài theo
nhãn của riêng họ.
Nhóm 2b
Nhà sản xuât dụng cụ trượt tuyết có
2 công ty, mỗi công ty có nhà máy
và thương hiệu riêng.
Nhóm 2c
Nhà lắp ráp đồng hồ nhỏ có một dây
chuyền lắp ráp và các nhãn hiệu
khác nhau
Nhóm 3
(Ít gặp trong thực tế)
Công ty có cần cẩu
di động và xe tải để
vận chuyển các chất
nguy hiểm
Nhóm 4
- Tập đoàn hoá
chất đa quốc
gia
- Công ty sản
xuất thực
phẩm đa dạng
hoá
Hình 5.2 trình bày các mức độ tự chủ khác nhau của các lĩnh vực kinh doanh và các đơn
vị kinh doanh của một công ty có ba lĩnh vực kinh doanh chiến lược, hai trong ba lĩnh
vực đó lại được chia nhỏ thành những đơn vị kinh doanh chiến lược khác nhau.
5.1.3. Các nhóm lĩnh vực kinh doanh chiến lược và các đơn vị kinh doanh chiến lược
Chúng ta có thể nhận dạng 4 nhóm khác nhau đối với các lĩnh vực và đơn vị kinh doanh
chiến lược. Ba trong bốn trường hợp chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong thực tế,
trong khi trường hợp còn lại là hiếm và được nêu ở đây cho đầy đủ.
Nhóm1 đại diện cho công ty không thể chia nhỏ thành các lĩnh vực hay đơn vị kinh
doanh. Loại công ty này hoạt động trong một thị trường duy nhất với một phối thức tiếp
thị thống nhất và một nhóm sản phẩm duy nhất. Ví dụ như các cửa hàng nhỏ bán quần áo
thời trang hay văn phòng phẩm. Các công ty quy mô vừa nằm trong loại này có thể là
công ty của những người làm đồ gỗ hoạt động chỉ trong một vùng hay toà soạn báo địa
phương. Một số công ty chuyên biệt lớn như Benneton hay Coca-cola cũng thuộc về loại
này trong những năm đầu phát triển.
Nhóm 2 bao gồm các công ty chỉ có một lĩnh vực kinh doanh, nhưng lĩnh vực kinh doanh
này có thể chia thành một số đơn vị kinh doanh. Nhóm này có ba loại nhỏ, rất phổ biến
trong thế giới kinh doanh ngày nay:
• Trong nhóm 2A, các đơn vị kinh doanh bán các sản phẩm của họ một cách độc
lập nhưng sử dụng chung nguồn lực. Ví dụ, một nhà sản xuất thực phẩm đồ hộp
có thể bán sản phẩm với nhãn hiệu riêng của họ qua các cửa hàng bán lẻ độc lập,
cùng lúc với việc hợp tác với một hệ thống bán lẻ lớn ở nước ngoài và cung cấp
cho họ những sản phẩm sẽ được bán dưới tên nhãn riêng hoặc như những sản
phẩm không nhãn hiệu.
• Nhóm 2B Đại diện cho trường hợp ngược lại. Các đơn vị kinh doanh khác nhau
có các nguồn lực độc lập, nhưng công tác tiếp thị phải được phối hợp chặt chẽ.
Ví dụ cho trường hợp này là một khi một nhà sản xuất dụng cụ trượt tuyết mua
đứt một đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn nhưng vẫn tiếp tục sản xuất và bán sản phẩm
của nó một cách độc lập. Để giới hạn cạnh tranh giữa hai công ty phải phối hợp
hoạt động tiếp thị của chúng.
• Nhóm 2C là sự kết hợp của hai nhóm đầu. Có sự hiệp lực cả trong tiếp thị cũng
như nguồn lực. Ví dụ, trong ngành sản xuất đồng hồ Thuỵ Sĩ có một nhà lắp ráp
nhỏ tạo ra các kiểu đồng hồ khác nhau với các phương tiện sản xuất và chúng
được tiếp thị dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau. Trong trường hợp này phải có sự
phối hợp trong sản xuất và định vị thị trường giữa các đơn vị kinh doanh khác
nhau.
Trong thực tế, hiếm khi có nhóm 3. Các công ty có thể được chia thành các lĩnh vực
kinh doanh nhưng chúng rất đồng nhất đến mức không thể chia nhỏ hơn thành các đơn vị
kinh doanh. Ví dụ, một công ty với quy mô vừa, chuyên cung cấp các cần trục cho những
dự án xây dựng đặc biệt khó và các dịch vụ vận chuyển chuyên biệt các chất liệu nguy
hiểm.
Nhóm 4 tiêu biểu cho trường hợp phức tạp nhất. Một công ty có một số lĩnh vực
kinh doanh được chia nhỏ thành các đơn vị kinh doanh. Hầu hết các công ty sản xuất hoá
75
chất lớn, các công ty sản xuất hàng công nghiệp và các công ty sản xuất thực phẩm đa
dạng hoá, quy mô lớn thuộc nhóm này.
5.1.4. Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược
Trước khi đánh giá tình hình chiến lược hiện tại và thiết lập các mục tiêu chiến
lược, phải xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược của công ty. Đây là giai đoạn
đầu tiên trong quá trình xây dựng một chiến lược công ty.
Để xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược cần thực hiện các bước sau:
• Nhận dạng và phân loại cac phối thức thị trường hiện tại.
• Xác định các đơn vị kinh doanh chiến lược.
• Nhóm các đơn vị kinh doanh thành các lĩnh vực kinh doanh theo thị trường và/ hay sự
phụ thuộc về nguồn lực. Có thể nâng cấp các đơn vị kinh doanh lênthành các lĩnh vực
kinh doanh.
Mục tiêu của bước đầu tiên là nhận dạng các phối thức thị trường hiện tại và phân
loại chúng theo sự giống nhau hay quan hệ thứ bậc. Cần có một cái nhìn khái quát và hệ
thống về các hoạt động quan trọng tạo ra doanh thu, cả trong hiện tại và tương lai. Thông
thường, phân tích chiến lược ban đầu phải tạo sự hiểu biết đủ về các mối quan hệ qua lại
giữa các thị trường được phục vụ. các phối thức thị trường và các nguồn lực để tạo ra
danh mục các phối thức thị trường.
Bước thứ hai là xác định các đơn vị kinh doanh chiến lược. Cần gom nhóm lại tất cả
các sản phẩm hay dịch vụ cùng đáp ứng các nhu cầu giống nhau và có hay nên có định vị
thị trường giống nhau.
Hoạt động kinh doanh cũng cần có một quy mô tối thiểu nhất định nào đó để đạt tầm
quan trọng chiến lược. Để đánh giá chiến lược của các hoạt động kinh doanh chúng ta có
thể sử dụng các tiêu chí định lượng; ví dụ như phần trăm doanh thu cụ thể của công ty mà
hoạt động kinh doanh phải đạt được trong tương lai, để đạt tầm quan trọng chiến lược.
Phần trăm tối thiểu này phải được các nhà hoạch định đánh giá theo chủ quan. Trong thực
tế, các giá trị giữa 3% và 5% thường hữu dụng. Các ước lượng về tương lai luôn không
chắc chắn, vì vậy thật sáng suốt khi xem những con số này chỉ là định hướng sơ bộ hơn là
một tiêu chí nghiêm ngặt. Doanh thu là tiêu chí chính, nhưng cần linh hoạt. Khi các hoạt
động kinh doanh có tiềm lực mạnh về đóng góp biện tế hoặc lợi nhuận, có thể phân loại
chúng tương ứng là có tầm quan trọng chiến lược cho dù phần trăm doanh thu có thấp.
Nếu nhận thấy một đơn vị kinh doanh không xứng với tầm vóc chiến lược thì có thể
kết hợp nó với một đơn vị lớn hơn có cùng sản phẩm.Các nhà sản xuất dược phẩm và hoá
phẩm nông nghiệp rất thường có một số loại sản phẩm có liên quan trong một đơn vị kinh
doanh.
Trong Bước Ba các đơn vị kinh doanh được nhóm vào các lĩnh vực kinh doanh hoặc
được nâng cấp lên thành các lĩnh vực kinh doanh . để thực hiện phải xem xét cẩn thận sự
phụ thuộc lẫn nhau về quan hệ thị trường và /hay cơ sở nguồn lực giữa các đơn vị kinh
doanh.
Khi một đơn vị chiến lược không có sự phụ thuộc chủ yếu qua lại với các đơn vị
khác, tức là nó tương đối độc lập trong thị trường phục vụ và trong nguồn lực thì có thể
76
nâng cấp lên thành một lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên đây là một trường hợp ngoại lệ.
Thông thường các đơn vị kinh doanh sẽ được kết hợp thành các lĩnh vực kinh doanh.
• Khi có sự hiệp lực đáng kể giữa các đơn vị kinh doanh trong các thị trường được
phục vụ và/hay trong nguồn lực sử dụng, chúng cùng tạo nên một lĩnh vực kinh
doanh duy nhất.
• Trong một số trường hợp, sẽ có sự cộng hưởng mạnh giữa toàn bộ hoạt động
trong cùn một công ty. Ở đây công ty có một số đơn vị kinh doanh khác nhau
nhưng tất cả tạo thành một lĩnh vực kinh doanh duy nhất.
Kinh nghiệm cho thấy, trong thực tế thường khó quyết định xem một mối quan hệ thị
trường hay nguồn lực giữa các đơn vị kinh doanh có đủ mạnh để nhóm các đơn vị kinh
doanh thành một lĩnh vực kinh doanh.
• Đôi khi khó xác định là hai phối thức thị trường có cạnh tranh với nhau hay
không, và do đó có nên phối hợp các hoạt động của hai đơn vị kinh doanh hay
không. Trong những trường hợp này, quyết định phải dựa trên tốc độ có thể thay
thế cho nhau của các phối thức thị trường trong việc thoả mãn nhu cầu khách
hàng và mức độ phân khúc khách hàng chồng chéo lên nhau.
• Những sự phụ thuộc về nguồn lực phải được diễn dịch theo một ý nghĩa hạn chế.
Sự phụ thuộc chỉ tồn tại khi nguồn lực đang được xem xét là rất quan trọng cho
việc đạt các tiềm lực thành công thiết yếu hoặc tránh được những bất lợi cạnh
tranh quan trọng.
Chiến lược công ty phải đảm bảo rằng công ty sẽ hướng các hoạt động vào những thị
trường hấp dẫn, nơi mà nó có thể xây dựng hoặc duy trì vị thế cạnh tranh thuận lợi. Do
đó, chiến lược công ty phải xác định xu hướng và sự phát triển lâu dài cho các hoạt động
của công ty.
5.2. Đánh giá độ hấp dẫn của thị trường bằng mô hình năm tác lực cạnh tranh
Các yếu tố cạnh tranh Các giá trị có thể làm
tăng áp lực cạnh tranh
trong một ngành (giảm
độ hấp dẫn của ngành)
(1) Nguy cơ xâm nhập của các nhà cạnh tranh tiềm năng
Lợi thế chi phí tuyệt đối của các công ty đã thiết lập Thấp
Sự khác biệt của sản phẩm Thấp
Doanh thu tối thiểu cần phải đạt được Thấp
Các đòi hỏi về vốn Thấp
Chi phí chuyển đổi Thấp
Khả năng tiếp cận với kênh phân phối Dễ
Lòng trung thành của khách hàng đối với nhà cung cấp Thấp
Các yêu cầu và hạn chế về pháp lý Không đáng kể
77
(2) Các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành
Số lượng các đối thủ cạnh tranh có qui mô tương đương nhau Lớn
Tốc độ tăng trưởng của ngành Trì trệ và suy thoái
Chi phí cố định Cao
Các cam kết thị trường giữa các công ty Không tồn tại
Các phân khúc khách hàng với nhu cầu đặc biệt Không đáng kể
Năng lực của ngành Dư thừa
Tính đa dạng của ngành Thấp
Quan hệ chiến lược của các hoạt động kinh doanh chiến lược Cao
Sự đặt cược vào ngành của các đối thủ cạnh tranh Cao
Chi phí rút khỏi thị trường Cao
(3) Áp lực từ các sản phẩm thay thế
Hiệu quả hoạt động của các ản phẩm và dịch vụ thay thế Tốt hơn sản phẩm và
dịch vụ của ngành
Chi phí của các sản phẩm và dịch vụ thay thế Thấp hơn sản phẩm và
dịch vụ của ngành
(4) Áp lực từ phía khách hàng
Mức độ tập trung của người mua Cao
Số lượng người mua Ít
Tỷ lệ chi phí sản phẩm và dịch vụ được cung cấp trong tổng chi
phí của người mua
Cao
Mức độ tiêu chuẩn hoá của sản phẩm và dịch vụ Cao
Mức độ quan trọng của sản phẩm và dịch vụ được cung cấp đối
với chất lượng sản phẩm và dịch vụ của người mua
Thấp
Chi phí chuyển đổi của người mua Thấp
Mức độ phụ thuộc của nhà cung cấp đối với người mua Cao
Khả năng người mua có thể hội nhập về phía sau Cao
Sự minh bạch của thị trường đối với người mua Cao
(5) Áp lực từ phía người cung ứng
Số lượng người cung cấp Ít
Sự sẵn có của sản phẩm thay thế Ít
Tỷ trọng đơn đặt hàng của người mua trong tổng số đơn đặt
hàng của nhà cung cấp
Thấp
78
Mức độ khác biệt hoá của sản phẩm và dịch vụ được cung cấp Cao
Mức độ quan trọng của sản phẩm và dịch vụ được cung cấp đối
với chất lượng sản phẩm và dịch vụ của người mua
Cao
Chi phí chuyển đổi của người mua Cao
Mức độ phụ thuộc của nhà cung cấp đối với người mua Thấp
Mức độ phụ thuộc của người mua đối với nhà cung cấp Cao
Khả năng công ty có thể hội nhập về phía sau Thấp
Khả năng nhà cung cấp có thể hội nhập về phía trước Cao
Hình 5.4. Tác động của các yếu tố cạnh tranh đối với cường độ cạnh tranh
5.3. Xác định các mục tiêu chiến lược với sự trợ giúp của phương pháp tổ hợp
kinh doanh
Mục tiêu của việc phân tích tổ hợp kinh doanh là đưa ra một cái nhìn tổng thể về
triển vọng tương lai cũng như thế mạnh và điểm yếu của công ty ở từng lĩnh vực kinh
doanh khác nhau, đánh giá xem xét cấu trúc kinh doanh có thích hợp hay không. Phần
này sẽ đề cập đến các phương pháp phân tích cấu trúc kinh doanh khác nhau: phương
pháp Boston Consuling Group và phương pháp McKinsey.
1. Phương pháp Boston Consullting Group (phương pháp BCG)
Mục tiêu chính của phương pháp BCG là xác định những yêu cầu về vốn đầu tư
(dòng tiền) và những nơi có thể tạo ra nguồn đầu tư ở lĩnh vực kinh doanh khác nhau
trong cấu trúc kinh doanh của công ty. Phương pháp này bao gồm ba bước:
• Xác định các lĩnh vực và đơn vị KDCL (Strategic Business Units - SBU), đánh giá
triển vọng tương lai của chúng.
• Dựa vào sơ đồ phân loại và sắp xếp các SBU trên ma trận.
• Xây dựng mục tiêu chiến lược cho loại SBU
a. Xác định và đánh giá triển vọng của các SBU
Trên đây chúng ta đã thảo luận phương pháp xác định các lĩnh vực và đơn vị kinh
doanh chiến lược. Sau khi đã xác định các SBU, cần đánh giá chúng theo hai tiêu chuẩn:
thị phần tương đối và tốc độ tăng trưởng của ngành.
Thị phần tương đối được xác định bằng cách so sánh với vị thế của đối thủ cạnh
tranh mạnh nhất. Ví dụ, nếu một SBU có thị phần là 10% và thị phần cạnh tranh của đối
thủ lớn nhất là 30%, thì thị phần tương đối là 1/3. Thị phần tương đối là cơ sở xác định
xem vị thế cạnh tranh trên thị trường của SBU là mạnh hay yếu.
Theo BCG, thị phần lớn là điều kiện để đạt được ưu thế về chi phí do lợi thế kinh
tế quy mô và hiệu ứng đường cong kinh nghiệm. Một SBU có thị phần tương đối lớn hơn
1 được xem như chiếm được ưu thế đáng kể về chi phí so với đối thủ, và ngược lại, một
SBU với thị phần tương đối nhỏ hơn một bị xem như ở vị thế cạnh tranh bất lợi. Do vậy,
những SBU với thị phần tương đối lớn hơn 1 được đánh giá là mạnh, có thị phần tương
79
đối cao trong khi những SBU với thị phần tương đối nhỏ hơn 1 bị đánh giá là yếu, có thị
phần tương đối thấp.
Vị trí của các SBU trên trục tung (Tốc độ tăng trưởng của ngành) cho biết các
SBU đang ở trong điều kiện thuận lợi hay khó khăn - tốc độ tăng trưởng của ngành tạo
cơ hội (ngành đang tăng trưởng), hay là mối đe doạ đối với SBU (ngành đang ở giai đoạn
suy thoái). Điểm giữa phân cách của trục tung có thể sử dụng mức tăng trưởng trung bình
của nền kinh tế thế giới, nếu công ty hoạt động trên thị trường toàn cầu. Mặt khác, nếu
các hoạt động của doanh nghiệp chỉ tập trung vào một nhành hay một khu vực, thì nên sử
dụng điểm phân cách là mức tăng trưởng thực tế trung bình của ngành hay khu vực.
Những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của toàn
nền kinh tế được xem như tăng trưởng cao, và những ngành tăng trưởng với tốc độ chậm
hơn tốc độ trung bình của toàn nền kinh tế bị xem như tăng trưởng thấp.
BCG cho rằng ngành tăng trưởng cao sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh thuận lợi và
nhiều triển vọng hơn so với ngành tăng trưởng thấp. Nói cách khác, ngành tăng trưởng
cao thể hiện những cơ hội và ngược lại, ngành tăng trưởng thấp chứa đụng những nguy
cơ, đe doạ đối với các SBU.
b. Phân loại các SBU
Việc phân loại các SBU được thực hiện thông qua một sơ đồ - chiêù ngang thể
hiện thị phần tương đối, chiều dọc thể hiện tốc độ tăng trưởng ngành. Mỗi SBU được
tượng trưng bởi một hình tròn, với tâm là vị trí của SBU được xác định bởi thị phần
tương đối và tốc độ tăng trưởng ngành. Kích thứơc của hình tròn tỷ lệ với doanh thu mà
SBU đạt được trong tổng doanh thu của công ty.
Tuỳ theo vị trí, các SBU sẽ được chia thành 4 loại khác nhau: SBU- ngôi sao,
SBU- dấu chấm hỏi, SBU- con bò sữa hoặc SBU- con chó - những tên gọi này phần nào
thể hiện vị thế cạnh tranh và triển vọng của SBU.
Sơ đồ 5.1: Ma trận BCG
80
Dấu chấm hỏi Ngôi sao
Con bò sữaCon chó
Tăng
trưởng thị
trường
thực tế
x%
1 Thị phần tương đối
SBU- Ngôi sao
Như tên gọi, đây là những SBU sáng chói, dẫn đầu, có thị phần tương đối lớn và ở
những ngành tăng trưởng cao. Có lợi thế cạnh tranh và cơ hội để phát triển, chúng chứa
đựng tiềm năng to lớn về lợi nhuận và khả năng tăng trưởng trong dài hạn. Nói chung,
các SBU- ngôi sao được đánh giá rất cao về khả năng sinh lợi, có thể tự đáp ứng được
nhu cầu về vốn đầu tư. Tuy nhiên, các SBU- ngôi sao đang hình thành thường cần được
cung ứng một lượng vốn đầu tư lớn, nhằm củng cố vị thế dẫn đầu.
SBU- Dấu chấm hỏi
Đây là những SBU ở vị thế cạnh tranh tương đối yếu, có thị phần tương đối thấp.
Tuy vập, chúng ở trong những ngành tăng trưởng cao, có triển vọng về lợi nhuận và tăng
trưởng trong dài hạn. SBU- dấu chấm hỏi có thể trở thành SBU - ngôi sao, nếu được đầu
tư, "nuôi dưỡng" tốt - chúng cần một lượng vốn đầu tư rất lớn. Vấn đề là cần phải đánh
giá đúng tiềm năng, hầu có kế hoạch đầu tư đúng mức.
SBU- Con bò sữa
Đây là những SBU trong những ngành tăng trưởng thấp ở giai đoạn trưởng thành
nhưng lại có thị phần cao và vị thế cạnh tranh mạnh. Thế mạnh trong cạnh tranh thường
xuất phát từ ưu thế về chi phí, do đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô và hiệu ứng đường
cong kinh nghiệm. Điều đó cho phép duy trì khả năng sinh lợi cao. Tuy vậy, hầu như
chúng không có cơ hội phát triển vì tốc độ tăng trưởng ngành thấp. Do đó, nhu cầu về
vốn đầu tư không lớn, mà còn được xem là nguồn lợi nhuận đáng kể.
SBU – Con chó
Đây là những SBU ở vị thế cạnh tranh yếu, thị phần thấp, trong những ngành tăng
trưởng chậm. Triển vọng của những SBU này rất kém, có thể chúng đòi hỏi lượng vốn
đầu tư rất lớn song chỉ để duy trì một thị phần thấp, rất ít cơ hội tăng trưởng.
c. Xây dựng mục tiêu chiến lược cho từng loại SBU
Phương pháp phân tích BCG nhằm xem xét những cách thức sử dụng nguồn lực
tài chính một cách tốt nhất, tối đa hóa mức độ tăng trưởng và lợi nhuận của công ty.
81
Dấu chấm hỏi
Cải tiến đáng kể thị
phần tương đối và sau
đó theo chiến lược
ngôi sao. Hoặc: theo
chiến lược con chó.
Ngôi sao
Bảo vệ hoặc tăng thị
phần tương đối
Đầu tư vào các nguồn
lực và tiếp thị
Chịu dòng tiền tự do
âm
Con bò sữa
Bảo vệ thị phần tương
đối
Đầu tư có tính phòng thủ
vào nguồn lực và tiếp
thị
Tập trung tối đa hoá
dòng tiền tự do
Con chó
Giảm thiểu đầu tư
Tiếp tục duy trì nếu dòng
tiền tự do dương
Bán hoặc thanh lý hoạt
động nếu dòng tiền tự
do có xu hướng âm
Tăng
trưởng thị
trường
thực tế
x%
1 Thị phần tương đối
Hình 5.2. Các chiến lược chuẩn trong tổ hợp kinh doanh BCG
Trước hết, có thể dùng nguồn vốn dư thừa tạo ra từ SBU- Con bò sữa để đầu tư
vào SBU- Dấu chấm hỏi và nuôi dưỡng các SBU- ngôi sao đang hình thành. Mục tiêu lâu
dài là củng cố vị thế của các SBU- ngôi sao, làm cho cấu trúc kinh doanh trở nên hứa hẹn
hơn.
(1) Tổ hợp kinh doanh thiếu tiềm lực tương lai (3) Tổ hợp kinh doanh thiếu
tiềm lực và dòng tiền tương xứng
Hình 5.3. Các ví dụ về tổ hợp kinh doanh dựa trên phương pháp BCG.
(2) Tổ hợp kinh doanh thiếu dòng tiền
tương xứng (4) Tổ hợp kinh doanh cân đối
Tăng trưởng thị
trường thực tế
15%
10%
5%
0%
-5%
0.5 1 2
Thị phần
tương đối
82
Tăng trưởng thị
trường thực tế
15%
10%
5%
0%
-5%
0.5 1 2
Thị phần
tương đối
Tăng trưởng thị
trường thực tế
15%
10%
5%
0%
-5%
0.5 1 2
Thị phần
tương đối
Tăng trưởng thị
trường thực tế
15%
10%
5%
0%
-5%
0.5 1 2
Thị phần tương
đối
Thứ hai, có thể từ bỏ những SBU- Dấu chấm hỏi ít triển vọng nhất, và như vậy
làm giảm đi áp lực cuả nhu cầu về vốn đầu tư.
Thứ ba, nên thoát khỏi ngành kinh doanh của những SBU- con chó bằng những
chiến lược khác nhau từ bỏ, thu hoạch, hoặc thanh lý.
Cuối cùng, công ty cần chú ý xây dựng một cấu trúc kinh doanh cân bằng, một
cấu trúc vừa phải chứa đựng đầy đủ các SBU- ngôi sao và dấu chấm hỏi nhiều tiềm năng,
nhằm bảo đảm triển vọng lợi nhuận và tăng truởng cao trong tương lai, vừa phải chứa
đựng đủ các SBU- Con bò sữa để đảm bảo cung ứng vốn đầu tư cho SBU ngôi sao và dấu
chấm hỏi.
Ưu, nhược điểm của phương pháp tổ hợp kinh doanh BCG
Ưu điểm
Tập trung phân tích nhu cầu về vốn đầu tư ở các SBU khác nhau, chỉ ra cách thức
sử dụng một cách tốt nhất nguồn lực tài chính (vốn đầu tư), nhằm tối đa hoá cấu trúc kinh
doanh của công ty.
Chỉ ra sự cần thiết phải tiếp nhận thêm hoặc từ bỏ một SBU nào đó, hướng đến
xây dựng một cấu trúc kinh doanh cân bằng và tối ưu.
Nhược điểm
Phương pháp BCG quá đơn giản. Đánh giá về tiềm năng và triển vọng của SBU
chỉ dựa trên thị phần và sự tăng trưởng ngành là chưa đầy đủ, trong một số trường hợp
còn dẫn đến sai lầm. Chẳng hạn, thị phần thấp vẫn có thể có vị thế cạnh tranh mạnh và lợi
nhuận cao ở một phân khúc thị trường nào đó do công ty thực hiện khác biệt hoá sản
phẩm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng.
Phương pháp BCG có thể đánh giá chưa đầy đủ về mối quan hệ giữa thị phần và
chi phí - mối quan hệ này không phải luôn xảy ra theo chiều hướng như BCG đã đề cập,
thị phần lớn không phải bao giờ cũng tạo ưu thế về chi phí. Ở một số ngành, do đặc điểm
về công nghệ, các công ty với thị phần nhỏ vẫn có thể đạt được mức chi phí sản xuất thấp
hơn so với công ty có thị phần lớn. Hay trong những ngành đã ở giai đoạn trưởng thành,
tăng trưởng chậm, thị phần lớn không phải luôn luôn mang lại mức lợi nhuận cao như đã
nói về tính chất của SBU - Con bò sữa.
Nói tóm lại, phương pháp BCG có thể đánh giá chưa đầy đủ dẫn đến xếp loại
không đúng về các SBU.
2. Phương pháp tổ hợp kính doanh độ hấp dẫn ngành - thế mạnh cạnh tranh
(McKINSEY)
Giống như BCG, phương pháp Mc KINSEY cũng chia công ty thành các SBU rồi
đánh giá chúng theo hai căn cứ: độ hấp dẫn của ngành và thế mạnh cạnh tranh của SBU.
Điểm khác biệt là hai tiêu chí định lượng đơn lẻ của BCG được thay thế bới một bộ tiêu
chí định lượng và định tính rộng hơn.
a. Đánh giá các SBU
Độ hấp dẫn của ngành
Quy trình đánh giá độ hấp dẫn của ngành bao gồm bốn bước sau:
83
Yếu tố thể hiện độ hấp dẫn của
ngành
Trọng số Điểm Điểm theo
trọng số
Quy mô ngành 0.1 3 0.3
Tốc độ tăng trưởng 0.3 5 1.5
Mức lợi nhuận của ngành 0.2 4 0.8
Yêu cầu về vốn 0.05 5 0.25
Tính ổn định của công nghệ 0.1 5 0.5
cường độ cạnh tranh 0.2 3 0.6
Tính độc lập chu kỳ 0.05 2 0.1
Tổng cộng 1.0 4.05
1 = Hoàn toàn không hấp dẫn; 5 = Rất hấp dẫn
Hình 5.1: Đánh giá độ hấp dẫn của ngành theo các tiêu chí của Hill và Jones (1992)
Bước 1: Xác định các tiêu chí thể hiện độ hấp dẫn của ngành như: Quy mô, sự
tăng trưởng, lợi nhuận,
Bước 2: Xác định trọng số cho mỗi yếu tố tuỳ theo đánh giá của công ty về tầm
quan trọng của nó. Tổng các trọng số bằng 1. Trong ví dụ minh hoạ, sự tăng trưởng của
ngành được xem là quan trọng nhất với trọng số là 0.3. Giả sử rằng đánh giá này dựa trên
thực tế: phần lớn các ngành của công ty hiện đã đi vào giai đoạn trưởng thành, mức tăng
trưởng ngành có ý nghĩa rất quan trọng đối với các hoạt động của công ty.
Bước 3: Đánh giá độ hấp dẫn của từng ngành theo các yếu tố đã định ra ở bước
một. Thông thường sử dụng thang điểm từ 1 đến 5 với 1 và 5 ở mức hấp dẫn thấp nhất và
cao nhất.
Bước 4: Tính tổng số điểm theo trọng số của tất cả các tiêu chí. Đây chính là chỉ
số thể hiện mức độ hấp dẫn của từng ngành. Giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của chỉ số là 5
và 1, mức trung bình vào khoảng 3. Ở ví dụ minh hoạ, tổng số điểm là 4.05, thể hiện
ngành có mức hấp dẫn trên trung bình.
Thế mạnh cạnh tranh của các SBU
Tương tự như đánh giá mức độ hấp dẫn của ngành, quy trình đánh giá thế mạnh
cạnh tranh của SBU cũng bao gồm bốn bước:
Yếu tố thể hiện thế mạnh
cạnh tranh
Trọng số Điểm Điểm theo
trọng số
Thị phần 0.15 5 0.75
84
Công nghệ 0.25 5 1.25
Chất lượng sản phẩm 0.15 4 0.6
Dịch vụ hậu đãi 0.2 5 1.0
Giá cả 0.05 2 0.1
Chi phí 0.1 3 0.3
Năng lực sản xuất 0.1 3 0.3
Tổng cộng 1.0 4.3
1 = Rất yếu; 2 = Yếu; 3 = Trung bình; 4 = Mạnh; 5 = Rất mạnh
Hình 5.2. Đánh giá thế mạnh cạnh tranh của SBU theo các tiêu chí của Hill và Jones
(1992).
Bước 1: Xác định các tiêu chí đánh giá.
Bước 2: Xác định trọng số cho mỗi yếu tố tuỳ theo tầm quan trọng của nó trong
việc tạo ra thế mạnh cạnh tranh.
Bước 3: Đánh giá vị thế canh tranh của từng SBU thông qua việc cho điểm các
tiêu chí, sử dụng thang điểm đánh giá chuẩn.
Bước 4: Xác định thế mạnh cạnh tranh bằng cách nhân các giá trị của mỗi tiêu
chí với trọng số của chúng và cộng tích lại.
b. Phân loại các SBU
Các trục ngang và dọc của tổ hợp kinh doanh độ hấp dẫn của ngành - thế mạnh cạnh
tranh được chia thành ba phần, tương ứng với các giá trị cao, trung bình và thấp. Cách
làm này tạo ra chín ô vuông, sau đó nhóm lại thành bốn khu vực, như được trình bày tại
Hình 5.3.
85
3.1. Lựa chọn
Thu hoạch
hoặc loại
bỏ
Thu hoạch
hoặc loại
bỏ
Thu hoạch
hoặc loại
bỏ
Duy trì
và thu
hoạch
2.2. Lựa chọn Đầu tư
và tăng
trưởng
Đầu tư
và tăng
trưởng
Đầu tư
và tăng
trưởng
Độ hấp dẫn của
ngành
Thế mạnh
cạnh tranh
Cao
Trung
bình
Thấp
Thấp Trung
bình
Cao
Hình 5.3. Ma trận độ hấp dẫn ngành - thế mạnh cạnh tranh
Ba ô vuông nằm ở góc trên bên phải được đặt tên là "đầu tư và tăng trưởng". Với độ
hấp dẫn ngành và thế mạnh cạnh tranh cao chứng minh việc đầu tư và mở rộng hoạt động
là đúng.
Ba ô vuông nằm ở góc dưới bên trái có độ hấp dẫn ngành trung bình hoặc thấp và thế
mạnh cạnh tranh trung bình hoặc thấp. Chiến lược phù hợp nhất cho những SBU ở vị trí
này là chiến lược thu hoạch. Khi dòng tiền dương không còn triển vọng thì có thể bán
hoặc thanh lý các hoạt động này. Nhóm các ô này gọi là "thu hoạch hoặc loại bỏ".
Ô 1.3 thể hiện dấu hiệu "con bò sữa" trong ma trận. chiến lược phù hợp cho các hoạt
động kinh doanh ở ô này là duy trì và tạo ra các dòng tiền tự do.
Hai ô vuông còn lại, ở trung tâm và ô vuông góc trên bên trái được gọi là "lựa chọn".
Đối với các hoạt động nằm trong các ô này, không có phương án nào có thể lựa chọn.
Cần phân tích chi tiết để xác định các phương án đầu tư phù hợp.
c. Các chiến lược chuẩn và đề xuất cho toàn bộ tổ hợp kinh doanh
Hình 5.4. Các chiến lược chuẩn trong tổ hợp kinh doanh độ hấp dẫn của ngành - thế
mạnh cạnh tranh
Nguồn: Grunig và Kuhn (2004)
86
Chọn lựa
(3.1/2.2)
Hoặc: theo CL đầu
tư và tăng trưởng
Hoặc: theo
chiến lược thu
hoạch hoặc
loại bỏ
Đầu tư và tăng trưởng (3.2/3.3/2.3)
Đầu tư để khai thác xu hướng thị
trường tích cực; Duy trì hoặc tăng
cường vị thế cạnh tranh; Gánh chịu
dòng tiền tự do âm.
Thu hoạch hoặc loại bỏ
(2.1/1.1/1.2)
Đầu tư tối thiểu; Tiếp tục khi dòng
tiền tự do dương; Bán hoặc thanh lý
nếu dòng tiền âm.
Duy trì và thu hoạch
(1.3)
Đầu tư nhằm duy trì
các nguồn lực và vị thế
thị trường; Thu hoạch
khi dòng tiền tự do âm
Độ hấp dẫn
của ngành
Cao
TB
Thấp
Thấp TB Cao Thế mạnh
cạnh tranh
5.4. Các lựa chọn chiến lược cấp công ty
Phần này chúng ta đề cập hai loại lựa chọn chiến lược: các lựa chọn cho tổ hợp kinh
doanh tương lai (tối ưu hoá tổ hợp kinh doanh) và các lựa chọn cho các hoạt động kinh
doanh nhằm đạt được các vị thế mục tiêu trong tổ hợp kinh doanh tương lai (các biện
pháp nhằm thực hiện tổ hợp kinh doanh mục tiêu).
(i) Các lựa chọn cho tổ hợp kinh doanh tương lai
Ở đây, hai vấn đề cần được xác định: (1) bề rộng hoạt động của công ty; và (2) nếu bề
rộng hoạt động của công ty chưa đáp ứng thì những lĩnh vực mới nào cần được đa dạng
hoá. Theo Miller và Dess (1996), chúng ta có thể phân biệt giữa ba hình thức đa dạng
hoá: theo chiều dọc, chiều ngang, và theo địa lý. Trong mỗi hình thức này lại có một số
biến thể như sau:
- Đối với đa dạng hoá theo chiều dọc, vấn đề đặt ra là nên đầu tư vào bước trước
hay bước sau trong chuỗi tạo giá trị.
- Đối với đa dạng hoá theo chiều ngang, theo nguyên tắc, có thể chọn bất kỳ ngành
bào mà công ty chưa tham gia hoạt động.
- Đối với đa dạng hoá theo địa lý, có thể mở rộng lĩnh vực hoạt động bằng cách đưa
vào bất kỳ vùng hay quốc gia mới nào mà ở đó công ty hiện chưa hoạt động: nếu
công ty có nhiều hơn một lĩnh vực, cần phải quyết định những lĩnh vực kinh
doanh nào sẽ tạo dựng nên vị thế trên các thị trường.
Trong thực tế, mặc dù khoảng linh động giữa các phương án luôn luôn có một giới
hạn nào đó, nhưng việc tìm kiếm các khả năng mở rộng hoạt động công ty thường dẫn
đến một số lựa chọn rất khác nhau. Theo Miller và Dess, các tiêu chí sau đây được xem là
quan trọng nhất trong việc đánh giá các lựa chọn đa dạng hoá hoạt động của công ty:
- Khả năng tận dụng các năng lực cốt lõi hiện có.
- Tiềm lực để tăng cường sức mạnh thị trường.
- Mức độ sử dụng chung cơ sở hạ tầng, như việc vận chuyển, sắp xếp kho hàng, các
vị trí cửa hàng thuận lợi, v.v.
(ii) Những lựa chọn cho việc thiết lập tổ hợp kinh doanh tương lai
Phần này đề cập vấn đề làm cách nào để đạt được tổ hợp kinh doanh mục tiêu. Thông
thường, không thể tạo được một tổ hợp kinh doanh tốt chỉ bằng một biện pháp mà phải
cần một số biện pháp chiến lược cụ thể cho các hoạt động kinh doanh khác nhau.
Có ba loại hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có các biện pháp chiến lược cụ thể là:
những hoạt động mới được thành lập, những hoạt động được mở rộng, và những hoạt
động bị loại bỏ. Những hoạt động kinh doanh nào cần phải giữ yên vị thế của chúng trong
suốt thời kỳ kế hoạch thì không cần phải xây dựng các biến thể chiến lược trong khuôn
khổ của chiến lược cấp công ty. Thông thường, đối với các hoạt động kinh doanh này chỉ
cần thảo luận các lựa chọn chiến lược ở cấp chiến lược kinh doanh để duy trì và bảo vệ
các lợi thế cạnh tranh ở các cấp phối thức thị trường và các nguồn lực.
Về cơ bản, có ba cách thiết lập một hoạt động kinh doanh mới: mua lại, liên kết và
xây dựng một hoạt động kinh doanh mới từ đầu. Ba phưoơg thức này có thể ghép với ba
87
loại đa dạng hoá khác nhau: theo chiều dọc, theo chiều ngang và theo địa lý để có các
phương án chiến lược khác nhau.
Lợi thế của việc mua lại là hoạt động kinh doanh mới với bí quyết cần thiết sẽ được
đưa vào hoạt động nhanh chóng. Rủi ro của nó ở chỗ đánh giá quá lạc quan về công ty
được mua lại, giá mua lại quá cao, và những vấn đề nảy sinh trong quá trình hoà nhập
(Miller & Dess, 1996).
Một trong những lợi thế chủ yếu của các liên minh và liên doanh là ở chỗ các đối tác
thường có các kỹ năng và nguồn lực bổ sung cho nhau và điều này giảm thời gian học hỏi
đối với hoạt động kinh doanh mới và làm giảm bớy các chi phí có liên quan. Mặt trái của
vấn đề là sẽ rủi ro đáng kể khi giữa các đối tác có mâu thuẫn. Theo Miller & Dess (1996),
rủi ro này sẽ được giảm đi rất nhiều nếu như có được thoả thuận rõ ràng về sứ mạng, mục
tiêu, hoạt động của liên doanh và các nhiệm vụ của từng đối tác. Thứ hai là các đối tác
không nên áp đặt quá cứng nhắc hoặc cố tìm cách phòng vệ cho bản thân bằng những hợp
đồng phức tạp. Thứ ba là các đối tác không được có ý đồ gian lận với nhau.
Hiếm có các công ty thành công khi đa dạng hoá bằng cách phát triển các hoạt động
kinh doanh mới từ đầu trong công ty: việc xây dựng các năng lực và nguồn lực cần thiết
thường chậm, tốn kém và đầy rủi ro.
Loại đa dạng hóa
Cách đa dạng hoá
Đa dạng hoá theo
chiều dọc
Đa dạng hoá theo
chiều ngang
Đa dạng hoá theo
địa lí
Mua lại
Liên minh hoặc liên
doanh
Xây dựng mới
Hình 5.5. Các loại và cách thức đa dạng hoá
Nguồn: Grunig & Kuhn (2004)
Cải thiện một tổ hợp kinh doanh không chỉ đơn thuần là xây dựng các hoạt động kinh
doanh mới và phát triển các hoạt động kinh doanh hiện có. Quản lý tổ hợp kinh doanh
một cách tích cực thường liên quan đến việc cắt giảm các khoản đã đầu tư. Theo Hill &
88
Jones (1992), có ba lựa chọn ở đây là bán đi, thu hoạch và thanh lý các hoạt động của
công ty.
Bán đi là một giải pháp nhanh chóng, và các hoạt động kinh doanh thường có thể
được mua lại bởi các đối thủ cạnh tranh hay bởi ban quản trị hiện tại. Điều bất lợi là khó
dự báo sẽ bán được bao nhiêu vì số người mua tiềm năng thường rất hạn chế, chỉ có thể
đạt được một mức giá thoả đáng khi nào có nhiều người muốn mua, tức là phải có cạnh
tranh.
Khi khó đạt được một mức giá hợp lý, thì chiến lược thu hoạch thường là lựa chọn tốt
nhất cho một hoạt động kinh doanh. Vì khi đó chỉ có một số tiền nhỏ được đầu tư cho
việc tiếp thị, phát triển sản phẩm, và cấu trúc hạ tầng nên dòng tiền tự do tăng mạnh. Tuy
nhiên, do thiếu đầu tư nên thị phần sẽ mất dần, dẫn đến các dòng tiền tự do sẽ bị giảm sút
mạnh. Sự thành công của một chiến lược thu hoạch thường phụ thuộc vào việc có thể
động viên đội ngũ quản lý thực hiện công việc không hứng thú này hay không. Cũng
không nên cho khách hàng biết về chiến lược thu hoạch của công ty trong khoảng thời
gian càng lâu càng tốt, cần đưa ra một chương trình đóng cửa có thể chấp nhận được về
mặt tài chính và xã hội đối với hoạt động kinh doanh chiến lược này.
Theo kinh gnhiệm, chỉ nên chọn chiến lược thanh lý khi không thể thực hiện được cả
hai chiến lược kia. Thanh lý không chỉ có nghĩa là bán tháo các tài sản cố định và lưu
động hiện có, mà còn phải chú ý đến các chi phí phát sinh thêm trong việc sắp xếp lao
động dư thừa và làm sạch môi trường.
5.5. Đánh giá các lựa chọn chiến lược cấp công ty
Như dã trình bày ở trên, các lựa chọn chiến lược nhằm đạt được một tổ hợp kinh
doanh mục tiêu thường bao trùm một phổ rộng các khả năng. Các khả năng này cần phải
được đánh giá để xác định các phương án tối ưu.
Về cơ bản, việc đánh giá các lựa chọn chiến lược nên sử dụng cùng các tiêu chí được
đề xuất trong đánh giá chiến lược hiện tại: độ hấp dẫn của các thị trường phục vụ trong
tương lai và sức mạnh của các vị thế cạnh tranh có thể đạt được một khi đã thực hiện
thành công các biện pháp chiến lược dự kiến của công ty.
Tóm tắt Chương 5
1. Một hoạt động kinh doanh là một cấu trúc gồm ba yếu tố: thị trường đặc thù,
các phối thức thị trường và các nguồn lực cụ thể. Phối thức thị trường là một
nhóm các biện pháp gồm sản phẩm và dịch vụ, giá, kênh phân phối, truyền
thông và các chính sách marketing khác.
2. Loại hoạt động kinh doanh có nhu cầu phối hợp nhiều với các hoạt động kinh
doanh khác được gọi là đơn vị kinh doanh. Một đơn vị kinh doanh tạo ra một
phối thức thị trường riêng.
3. Lĩnh vực kinh doanh có một phối thức thị trường độc lập và không có sự chia
sẻ đáng kể nào về các thị trường hay/ và các nguồn lực với bất kì hoạt động
kinh doanh nào khác trong công ty. Lĩnh vực kinh doanh là công ty trong
công ty.
89
4. Mục tiêu của việc phân tích tổ hợp kinh doanh là đưa ra một cái nhìn tổng
thể về triển vọng tương lai cũng như thế mạnh và điểm yếu của công ty ở
từng hoạt động kinh doanh khác nhau, đánh giá xem xét cấu trúc kinh doanh
có thích hợp hay không và đề xuất các tổ hợp kinh doanh mục tiêu.
5. Khi tổ hợp kinh doanh hiện tại không đáp ứng yêu cầu, cần phải có những
quyết định chiến lược nhằm xem xét những hoạt động kinh doanh nào sẽ
được đa dạng hoá và cách thức thực hiện. Trong thực tế có 3 hình thức đa
dạng hoá các hoạt động của công ty: theo chiều dọc, chiều ngang, và theo địa
lý.
6. Để thực hiện đa dạng hoá và thiết lập một hoạt động kinh doanh mới nhằm
đạt được các mục tiêu của tổ hợp kinh doanh tương lai, trong thực tế có thể
tiến hành theo 3 cách cơ bản sau: mua lại, liên minh hoặc liên doanh và xây
dựng một hoạt động kinh doanh mới từ đầu. Ba phương thức này có thể ghép
với ba loại đa dạng hoá khác nhau: theo chiều dọc, theo chiều ngang và theo
địa lý để có các phương án chiến lược khác nhau.
Câu hỏi thảo luận và ôn tập:
1. Thế nào là một hoạt động kinh doanh chiến lược? Phân biệt giữa đơn vị kinh
doanh chiến lược và lĩnh vực kinh doanh chiến lược.
2. Phân tích ưu nhược điểm của các phương pháp phân tích tổ hợp kinh doanh.
3. Phân tích ưu nhược điểm của các hình thức đa dạng hoá và các phương thức tiến
hành?
90
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xây dưng chiến lược công ty.pdf